Thursday, July 30, 2020

Hạ Đi Người Xa Người 

Thuyên Huy


Một sớm hạ tàn mình tiễn nhau
Người đi bỏ lại một trời sầu
Tôi về hun hút đường lẻ bạn
Bịn rịn con tàu không qua mau

Rồi tàu cũng rời khỏi sân ga
Lá khô vàng rũ cánh phượng già
Chiều chia tay nắng buồn man mác
Người đi thật rồi đi rất xa
 
Mấy mùa hạ đến rồi hạ đi
Chuyến tàu năm ấy cũng chưa về
Lẻ loi góc sân ga quạnh vắng
Vẫn còn những phút cuối biệt ly
 
Từ độ vắng người phố mất vui
Đường xưa cây lá cũng ngậm ngùi
Tàu cứ vô tình đi rồi đến
Tiếng còi xé nát cõi lòng tôi
 
Một sáng đầu mùa hạ mới sang
Sợ ngày nào đó hạ sẽ tàn
Cũng chuyến tàu xưa ngày hôm ấy
Tôi bỏ phố đi bỏ vội vàng
 

Thuyên Huy

Nguồn: Hoài Niệm Tây Ninh 

Đoản văn của Thuyên Huy

 Đi Về Một Nơi Không Tới
(Đoản Văn Không Đề)
Viết cho những mảnh vụn của đời mà ai đó đã có lần đi qua, có khi đi qua mà không tới.
1. 


Buổi chiều, trời đầu thu, anh ngồi trầm ngâm buồn, ở một góc, trước hiên cái quán cũ quen nhìn ra đường, con đường mà anh đã đi đi về về, không đếm hết nổi bao nhiêu lần trong suốt những năm tháng nợ nần với kiếp học trò bút nghiên giấy mực. Ly cà phê, tự nãy tới giờ vẫn còn nguyên, nguội rồi nhưng nhờ mấy vạt nắng hờ hắt vào cũng còn được chút hơi đủ ấm, anh cứ nhìn ra đường, hàng dừa xanh không cao không thấp, lá xanh lá úa vàng xen kẻ mấy cây phượng già hoa héo hoa hắt tàn, chạy theo hai bên, lạ không lạ quen không quen, ở một phía dưới dốc cuối đường, một màu trắng như mây trắng bay bay, áo nối tiếp áo thả tả dài vờn gió, giờ tan trường, những tà áo lạ.


Anh thẫn thờ cay mắt, cố tìm trong đó, tìm để mà thấy mình còn muốn tìm, vậy thôi, không có tà áo trắng năm xưa, nuốt ngụm cà phê nguội lạnh đáy ly cùng lúc phía trong quán, tiếng ai đó hát bài tình ca quen thuở anh mới biết yêu người, bắt đầu cho buổi chiều đông khách, anh gật đầu chào cô chủ, bước chập choạng đi ra đường, nhìn xuống đất, chiều xuống thật nhanh, phía bờ bên kia sông, phố chợ nhá nhem lên đèn, vàng vọt, le lói.


Đã trễ rồi nhưng anh cũng còn đón kịp chuyến xe chiều rời phố đi vội vàng, dù đã nôn nóng muốn mau về hồi sáng sớm. Từ khung cửa sổ, anh nhìn lại sau, hàng dừa, những cây phượng già không đuổi theo, trong hồn anh hình như đã chết, chết như mối tình, không ai phụ ai, không ai trách ai, chỉ là những vai phải đóng trọn cho vở tuồng đời, tình tiết do trên cao sắp sẳn bằng hai chữ định mệnh.

Anh ngồi xuống ghế, người trên xe lặng thinh, nhìn về phía trước, anh cũng nhìn phía trước, mím môi thở dài vĩnh biệt.

2.

Anh ngồi giữa trời, nắng cuối hạ chang chang đổ, nghĩa địa khô cằn, nứt nẻ, mấy cây Sao già trụi lá, cành nhánh khẳng khiu, vẫn còn cố đứng dưới trời nhưng chẳng cho người một chút gì gọi là bóng mát, con quạ đen đậu trên đầu ngọn một cây cao nhất nhìn xuống anh kêu rời rã, anh lặng thinh bên hai nấm mộ, khói nhang quyện lờ mờ màu khói bếp chiều quê, anh cố dằn không khóc, vì hôm nay là một ngày vui mà ba mẹ, đã mong đã chờ từ những ngày còn sống.

Ba mất sớm vì một tai nạn ngoài đồng lúc anh còn quá nhỏ, chôn ở nghĩa địa của làng, khu đất nằm chơ vơ ven bờ ruộng, ngó ra cái truông nứa chằng chịt, không biết gì hơn, mẹ ở vậy, một thân một mình nghèo xơ nghèo xác, lầm lũi chắt chiu, làm công lựa thóc lựa gạo cho một nhà máy xay lúa trong xã. Nhà tranh, vách đất, cột ngã cột xiêu, mái lành mái rách, mẹ con cứ vậy chấp vá mà sống mà vui với phận người trời định. Rồi ngày cũng qua ngày anh lớn lên, với hơi ấm áo bà ba sờn vai bạc màu bùn của mẹ, tay dắt tay mang mẹ dẫn anh tới trường tiểu học xã, rồi trường trung học quận, từ đó cũng cơm chiều cá kho khô, rau mồng tơi luột, nhưng mẹ vui không biết làm sao mà nói, mẹ không nói ra nhưng chắc mẹ đang mơ sẽ có một ngày, cây đèn dầu cũng vui lây, được ngồi bên anh lâu hơn hơn trước.

Vậy đó, mẹ lại theo ba, bỏ anh ở lại, những ngày đầu mùa thi giữa hạ, con quạ trên ngọn cây không còn ở đó, tiếng mất tiếng còn, tạ từ bay đi, chắc phải lâu lắm mới gặp lại, cơn gió nhẹ bất chợt về ngang từ phía truông nứa, lùa bó nhang thơm, nấn níu chút lửa muộn rực sáng, sửa lại cho ngay ngắn, anh lấy tờ giấy chứng chỉ Tú Tài Một, còn thơm mùi con dấu Nha Khảo Thí đỏ, cẩn thận để trước đầu mộ, chỗ anh ngồi, chấp tay xá rưng rưng thì thầm “ba mẹ ơi, con thi đậu rồi”. Giờ thì anh mới bật khóc thành tiếng.

3.

Chiều thứ bảy, trời và phố xá Sài Gòn vẫn vậy, cũng hai ba cơn mưa bất chợt, vội đến rồi đi, cũng người đuổi chân người, ngựa xe rộn rã ngược xuôi, có quen có lạ trên vĩa hè rộng thênh thang hai bên đường, đường lên đường xuống. Anh ngồi đó, ngay cái bàn thấp của một tiệm kem, ngã tư, ngó qua rạp chiếu bóng quen, không thấy người chờ vào xem, vắng đủ cho cô gái bán vé che miệng ngáp dài thoải mái, cặp tình nhân còn trẻ nắm tay lắc lư theo nhịp chân ngang qua nhìn vào cười, anh cũng nhìn theo cười đáp lễ nhưng không biết cái cười của vui hay của buồn.

Anh cứ ngồi đó, đọc cái địa chỉ trên tấm giấy nhỏ màu xanh lá, ngó ra đường chờ, không phải chờ ai, mà dường như là chờ để bỏ đi. Tấm giấy cất kỹ trong bóp, từ tay của người con gái tiếp viên Air Vietnam, có cái tên ngồ ngộ “Ly Cơ”, trên chuyến bay giữa trưa từ Đà Lạt về, hôm anh được rời Cao Nguyên nghỉ phép. Chuyến bay vắng khách, anh không khỏe cho lắm vì mấy ngày bị cảm lạnh, anh được cô nàng săn sóc tận tình, đủ thứ, thuốc men nước uống, ngồi ghế trống bên cạnh, hỏi thăm nhau vài chuyện, chuyện mình chuyện người rồi quen nhau, quen nhau không chờ không đợi. Phi cơ đáp, Ly Cơ theo tiễn anh ra tới đường, ở đó cũng như anh, cô nàng trao lại tấm giấy nhỏ, hẹn gặp lại mà không hứa là bao giờ. Ngồi trên taxi, nhìn lại sau, anh ngẫn ngơ, hồn tưởng chừng như để quên ở lại.

Nắng dịu hơn, trời đứng gió, rạp chiếu bóng đông người trở lại, anh đứng dậy, quyết định bỏ đi, nhẩm đọc thầm địa chỉ trên tờ giấy, phải tới đó vì ngày mai sẽ trở ra nhiệm sở, cho dù không được việc. Đứng chờ đèn xanh đỏ qua đường, nghe có tiếng gọi mẹ dễ thương, anh quay lại, tay dắt con bé độ ba bốn tuổi, người con gái ngẫng đầu lên, cả hai cùng gọi tên, bổng dưng trời chợt mát. Ly Cơ chỉ về hướng bải giữ xe phía quốc hội, định lấy xe chở con bé tới tìm anh, anh cũng định qua đường đón taxi tới nhà cô nàng.

Hai người lớn nắm tay con bé đi hai bên, không ai nói gì hết mà cũng không biết phải nói gi đây, chỉ nhìn nhau cười, cái cười bắt đầu cho một câu chuyện, anh nói thầm, hy vọng không phải là một câu chuyện buồn.

4.

Trở lại nơi này, chắc cũng đã bỏ đi hơn bảy tám năm, cảnh vật vẫn như cũ, căn biệt thự ra vào cũng hai chợ chồng bác sáu, tóc cả hai giờ trắng một màu bông bưởi, còn đó cái ghế đá xanh lục bình giữa khu vườn đầy hoa Sứ đỏ, cái ghế mà anh đã ngồi mỗi buổi chiều tàn nắng, chập chững tối, nhìn qua bên kia khung cửa sổ căn nhà sàn gỗ đen, có tiếng đàn dương cầm và đứa con gái nhà giàu ngoan đạo, học chung trường, đi về chung đường, ban đầu thì người trước người sau nhưng rồi thì bên người bên mình, nói cười vụng vặt.

Cũng cái ghế đá trong vườn, anh ngồi đó nhìn qua, khung cửa sổ không thấy mở dù trời đã giữa trưa, nắng và nắng, có tiếng người hỏi nhau bên nhà đó nhưng không phải tiếng người quen, anh đứng dậy, bước tới gần bên rào chút nữa, đúng là không phải tiếng người quen năm cũ. 

Không có đạo nhưng giòng đời đưa đẩy, anh lại sống vài năm ở trọ tại nhà bác sáu, ông “Bỏ” của nhà thờ tỉnh, vợ chồng bác có một người con gái, lấy chồng xa, thỉnh thoảng lắm mới về thăm ngày ta ngày tết. Khu nhà thờ riết rồi ai cũng quen anh, cái thằng cháu “bá dơ” của ông sáu Bỏ, phụ việc quét dọn sắp bàn sắp ghế, nhổ cỏ tỉa cây, thuộc kinh thánh lễ nhưng vẫn là người ngoại đạo. Thứ Bảy Chủ Nhật, đứa con gái ngoan đạo cùng gia đình đi lễ, chuông vang vang, anh đứng bên ngoài hành lang chờ, người bên trong a men, anh cũng a men nhưng a men gì không ai hiểu, chỉ mình anh hiểu.

Thương thầm, thương một mình, chần chừ, ngập ngừng chưa dám nói, sau mùa thi, mùa hè qua, hối hả từ quê nhà trở lại trường, đứa con gái không còn bên căn nhà sàn gỗ đen nữa, người quen trong xóm nhà thờ cho biết, nghe nói đã có người Sài Gòn lên làm lễ đính hôn rồi, từ đó anh rời nhà bác sáu “ông Bỏ nhà thờ”, đến ở chung với nhóm bạn nửa quê nửa tỉnh xa tít ngoài ngã ba bến xe cũ, cuối năm học anh bỏ đi biền biệt.

Anh trở lại cái ghế đá, ngồi nhìn căn nhà sàn gỗ lần nữa, nói với mình, đúng là không phải tiếng người năm cũ, tiếng bác sáu gái gọi vọng ra, anh đứng dậy đi vào nhà, bỏ lại sau lưng những cánh hoa Sứ úa, trong vườn ngậm ngùi tơi tả rụng.

5.

Đứng ở trước mộ, nhìn ra con đường đất màu bùn, có chút nắng bên kia sông rựng lên nhưng sương đêm chưa chịu tan vội, trời vẫn còn mờ, chập chờn sáng, lác đác mấy cái nhà mái tranh mái lá trên đồng, đèn dầu chưa tắt, hàng Sim dọc theo đường, chạy dài bên bờ đê ruộng mùa này hoa nở muộn, muộn như ngày chị, cũng con đường này ra bến đò theo chồng về xứ xa, bỏ lại anh với ngoại, tiễn chị đi, chị vui hay không thì anh không biết nhưng chị cũng như ngoại đều khóc.

Anh lớn lên rồi cũng như chị, bỏ ngoại đi, lây lất đời tha hương xứ người vì trót mang nợ đời cơm áo, ngoại ở lại một mình, bóng già thui thủi, mắt già trông mong, chị ít khi về, anh có về đôi ba lần rồi thôi, người trong ấp, trong làng, cho là hai chị em không tròn hiếu đạo.

Ngoại mất hôm anh về sau Tết năm nào đó, đám tang chị không về, mộ ngoại chôn ở gò đất cao khoảnh vườn chuối, không xa con rạch nhỏ chạy ra vàm lớn, căn nhà trống trơn, những gì của ngoại anh đã gởi chôn theo bà, trong đó có cuốn tập, năm anh học lớp nhất trường làng, được cô giáo cho bài viết “tả ngoại em” của anh mười điểm, để ngoại vui dưới đó. Anh lại ra đi, đi miệt mài, đi biền biệt, không biết chị có về đó lần nào không.

Bây giờ năm sáu năm về lại nhà xưa, gò đất cao sau nhà giờ có thêm cái mộ nằm bên cạnh ngoại, rồi thì cuối cùng chị cũng về, không biết chị về bao lâu rồi, chị đã hết đi xa.

Anh quàng túi xách vải bạc màu lên vai, trời sáng hẳn từ lâu, phía bến đò cuối đường đã có tiếng người gọi nhau ơi ới, đứng chấp tay lạy tạ trước ngoại và chị, thêm một lần anh bỏ ngoại đi và lần này chị là người ở lại, bước ra đường, anh bật khóc.

Thuyên Huy
Melbourne những ngày bó gối tháng sáu năm 2020


Nguồn: Hoài Niệm Tây Ninh 

Thảo Nhân 


Thuyên huy 
    Thứ sáu, tan sở làm sớm, chưa xế trưa hẳn, trời đổ mưa bất chợt, cơn mưa đầu thu lành lạnh, không nặng hột nhưng cũng đủ làm đường phố ươn ướt, đứng trú mưa gần sát khung cửa kiếng, cùng với năm sáu người, dưới mái hiên chênh vênh cao của dãy phố, trước căn tiệm bán thực phẩm người mình, vậy mà nước cứ mặc tình tát nghiêng tạt ngã vào, chuyến xe điện về nhà vẫn chưa tới, mặc dù người xuống xe lửa từ Melbourne, phía trong nhà ga Footscray đã túa ra, băng qua đường đông nghẹt, Hiển lắc đầu, hết nhìn mưa, mưa làm thinh trút nước, rồi nhìn cuối phố, phố đông người, người vội vã đi người lầm lũi đếm bước, từ dưới này cho tới đầu ngã ba trên.   
    Người con gái, tóc ngang lưng, tay kéo vạt áo che đầu đứa bé gái nhỏ độ ba bốn tuổi, cũng hai tay đưa lên tóc xuýt xoa, tay dắt nó chạy lẹ vào mái hiên, có chỗ trống sát hông tường, nơi Hiển đang đứng, nghĩ vẫn nghĩ vơ, anh không quay nhìn mà xê qua chút xíu một bên, cứ xem là chuyện bình thường vậy thôi, không màn để ý là ai. Trên ngã ba, có tiếng xe điện tới, mưa bớt nặng hột, lất phất như bụi phấn, cũng như đám người trốn mưa nãy giờ, Hiển vừa bước ra trạm chờ vài ba bước, nghe tiếng con bé nói tiếng Việt khá rành “mẹ ơi con khát nước”, Hiển đứng quay lại nhìn, hai mẹ con phía sau lưng, cúi xuống nói với con nhỏ nhỏ gì đó, rồi ẳm con bé lên, con bé cười ôm hôn tới tấp vào mặt, chị ngước nhìn theo, Hiển giựt cả mình, trố mắt, chị  không khác gì anh, Hiển đứng khựng lại “chị Nhân”, chị cũng buột miệng “Hiển hả”, xe điện vừa ngừng ở trạm, không thêm được lời nào, lặng thinh, cả hai rươm rướm mắt, mưa tạnh hẳn, có chút nắng xế rựng lên ở phía ngã ba, lửng lờ vắt ngang mái lầu dãy nhà hàng bên kia đường, phố xá đông người trở lại. 
    Hai chị em dẫn nhau vào cái tiệm bán nước giải khát nhỏ góc phố, trời thôi âm u buồn, nắng buông từng vạt sáng trên đường, con bé ngây thơ, nhảy bước thấp bước cao, nắm tay mẹ cười toe toét, chiếc xe điện lúc nãy chầm chậm qua ngang, hai chị em cùng cười nhìn theo, nói thầm “thôi mình chờ chuyến sau”. 
*
    Trưa thứ bảy, lang thang ra chợ Sài gòn, đi lên đi xuống, nhìn thiên hạ, trai gái quần là áo lụa, dập dìu tài tử giai nhân cho bớt chút buồn chút tủi, gió mang hơi nước sông mát từ bến Bạch Đằng lùa lên làm cái nằng đầu hạ có phần nào dịu bớt đi, đường lên Lê Lợi, đường xuống Nguyễn Huệ ngập người, băng qua bên này, Hiển tấp vô cái xe nước mía Viễn Đông, nơi góc đi về phia chùa Chà Và, hông bộ Công chánh, vắng khách nên không phải chờ lâu, cầm bịch nước mía, chợt nghĩ tới chuyện quần áo Hiển lững thững thả bộ ngược lên dãy sạp bán vải dài cùng bên này đường Nguyễn Huệ, không có mấy người mua, sấp vải “ga-bạc-din”màu xanh dương đậm, màu mà anh thích, treo lủng lẳng trên khung kệ cây nhỏ, trước cái sạp không xa chỗ xe nước mía bao nhiêu, làm Hiển ngừng ngay lại, trố mắt nhìn chăm chú, chần chừ bước đi bước ở.     
    Gia đình Hiển tạm đủ ăn, chỉ còn hai mẹ con, ba mất sớm, nhà ở phía đầu dốc ngã ba Liên Hiệp, ngó ra đường đi Đơn Dương, mẹ Hiển có cái sạp bán rau cải bên hông chợ Tùng Nghĩa, nhờ trời buôn may bán đắt nên nhà cũng có chút đồng ra đồng vô. Đậu tú tài hai, Hiển vào Đại học Sư Phạm Sài Gòn, một thân một mình, nhớ mẹ ngoài đó cực nhọc, để bớt gánh nặng cho bà, nhờ vào vốn liếng toán lý hóa kha khá của những năm trung học Trần Hưng Đạo, Hiển tìm được vài chỗ dạy kèm nên cũng đở phần nào. Mỗi khi muốn may thêm cái quần cái áo cho bảnh chút xíu thì phải suy đi nghĩ lại, tính trước tính sau, tiền ăn tiền ở, tiền vải tiền may rồi mới dám nghĩ tới.
   Chị chủ sạp, chắc chừng trên dưới ba mươi, khá đẹp, bỏ cuốn sách đang đọc ngó ra, cười chào, nụ cười duyên nhìn là có cảm tình liền thật trọn, Hiển cũng  ngài ngại chào lại,  nửa đùa nửa thật “dạ muốn mua sấp vải này mà không đủ tiền, chị cho em thiếu mai mốt trả được không?”, mà thật vậy, thứ bảy tuần tới Hiển mới nhận tiền trả công dạy kèm cho đám con mấy gia đình bên cư xá Bắc Hải, trong túi còn độ hơn vài chục, muốn lắm nhưng chưa biết tính sao, chị vui vẻ đứng lên, đi ra gần anh “được mà, cứ lấy đi, chừng nào trả cũng được”, rồi kéo cái ghế dư, làm dấu “em ngồi chơi, coi đi, mua hay không mua cũng không sao”. 
    Chút xíu rồi quen sau vài ba câu hỏi qua hỏi lại, chuyện này chuyện nọ, chị Nhân, chủ sạp vải, quê quán Thủ Thừa, Long An, chị còn cô em tên Hậu, năm nay học lớp đệ nhị trường Phan Sào Nam, nhà ở cái hẻm nhỏ sát bên hông rạp hát Long Vân, Hiển cũng cho chị biết đang học năm thứ ba Đại Học Sư Phạm, đang ở trọ chung nhà với vài người bạn ở gần chợ Nancy, quê Tùng Nghĩa Đà Lạt, thấy ở cũng hơi lâu, Hiển, chưa kịp đứng dậy, chị đã nhanh nhẹn xếp sấp vải, bỏ vào bao, đưa tận tay, Hiển ngại quá, chưa biết tính sao, chị tươi cười “nè, em lấy đi, chừng nào có tiền, nếu nhớ thì trả quên thì thôi”, Hiển ngỡ ngàng, đành cầm lấy, rồi móc cái thẻ sinh viên ra “em gởi lại cái này làm tin, tuần tới em sẽ ghé, cám ơn chị nhiều lắm”, chị gạt ra cười ngặt nghẻo.
    Sáng chủ nhật tuần sau đó, Hiển đón xe buýt ra chợ thật sớm, phố xá hàng quán đã rần rần rộ rộ, trới chưa có nắng, lãng đãng một chút sương đêm, xe xích lô xe ba gát ồn ào cả một góc chợ Bến Thành, Hiển băng qua bồn binh, nhanh chân về phía dãy sạp vải, đã có ngưới mua người bán rồi, vừa tới chỗ sạp chị Nhân, Hiển hơi khựng lại, không phải chị mà là cô gái trẻ, nhìn giống chị Nhân, chắc là cô em tên Hậu, anh đứng ngờ ngợ hỏi, cô em nhanh nhẩu cười “chị em đi mua gì đó, nếu không gấp thì anh ngồi chơi chút đi, chị về bây giờ”, Hiển cũng gật đầu cười, cô em Hậu đây rồi, Hiển loay hoay hỏi vài ba câu, chị Nhân về tới, vồn vã mời vào trong ngồi, có người tới hỏi mua, Hậu bước ra tiếp, chị nhìn theo rồi quay qua Hiển “con Hậu, em chị đó”. 
     Sau ngày đó, ngày càng thân càng mến, đời bớt cô đơn hơn, Hiển thường ra sạp vải ngồi tán dốc, khi thì với chị Nhân khi thì cả hai chị em, Hậu không còn thẹn thùng bẽn lẽn như hồi mới gặp, nhất là từ nhũng ngày Hiển ghé nhà hàng tuần dạy thêm cho cô nàng chuẩn bị thi tú tài Một, Hậu dễ thương, như chị mình, lúc nào cũng cười, ít khi thấy buồn, gần gũi rồi mến nhau, anh anh em em dịu dàng êm ái. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, sống với bà ngoại già, nhà nghèo học hành dang dỡ, với mớ tiền dành dụm có sau những ngày buôn gánh bán bưng, chị dắt em lên Sài Gòn hy vọng sẽ đở hơn, sau vài ngày ở đậu nhà của vợ chồng  cũng dân Thủ Thừa chị may mắn tìm được công việc phụ bán cho sạp vải, rồi với mớ tiền có được, vừa đủ sang lại sạp vải này giá qua loa khi ông bà chủ về Tuy Hòa mở tiệm thuốc tây gì đó, chí thú, chịu khó chị mua được căn nhà nhỏ mà hai chị em ở hiện giờ. 
    Lần hồi, mấy thằng bạn trọ chung nhà cũng theo Hiển, mua chịu mua thiếu vải vóc sạp chị Nhân, trả trước trả sau sòng phẳng, đôi khi chị vui vẻ bớt cho vài chục, đủ tiền uống cà phê lề đường, nhìn người qua lại, ngay cả mấy thằng bạn con nhà giàu ở Sài Gòn này cũng khoái chí tới mua, có tiền trả liền, rẽ hơn chỗ khác, không đủ tiền lần tới, không sao, đám họ ra tới sạp thì ôi thôi, một chị Nhân hai chị Nhân ngọt sớt, sạp chị ngày càng vui hơn, khách hàng  không chỉ bao nhiêu đó mà còn thêm mấy cô bạn gái của đám bạn này, rộn rịp ồn ào, không kể gì thứ bảy chủ nhật hay ngày thường, trời mưa mịt mù hay nắng nung lửa hấp. 
*
    Cuối năm ra trường Hiển lên dạy trên trung học Pleime ở Pleiku, Hậu cũng xin được vào đệ nhất trường nữ Lê Văn Duyệt, không còn ở trường cũ vì có điểm khá cao của tú tài Một. Sáng ngày rời Sài Gòn về Tùng Nghĩa thăm nhà, trước khi lên nhận nhiệm sở, hai chị em chị Nhân đưa Hiển ra tận bến xe lô Sài Gòn- Đà Lạt, ngồi chờ giờ khởi hành, bên nhau mà không nói được gì nhiều, Hậu mắt rươm rướm đỏ, đường phố thưa người, cuối hè trời ngấp nghé lạnh, đôi chút sương đêm vẫn còn lầm tấm vài hạt mong manh trên cành lá hàng phượng bên kia đường, khẳng khiu hoa tím  bầm lưa thưa tàn, chờ thu đến. Hiển đi rồi, trên đường về, chị Nhân chợt thương cho em, nhìn Hậu buồn thiu, chị biết em mình đã thầm thương trộm nhớ gì đây rồi.
    Dạy được vài tháng, Hiển nhận thư của Hậu từ Sài Gòn gởi ra, cái thư không dài lắm, nhắc đủ chuyện vui, chuyện buồn từ ngày mới gặp cho đến ngày biết mến biết thân, những chiều mưa chờ ở cổng trường những sáng nắng hanh vàng chủ nhật, bên nhau đuổi lá me bay ven lề Lê Thánh Tôn trên đường ra sạp vải, kể vậy thôi chứ không viết thêm gì khác, và báo tin đám cưới chị Nhân, nhắc ráng về dự nếu được. Hiển cũng muốn lắm nhưng tình hình chiến trận sau mùa hè năm 1972, tưởng có phần lắng dịu nhưng xem ra dữ dội hơn trước, đường bộ đi lại khó khăn, nội chuyện về Tùng Nghĩa thăm mẹ cũng không trơn tru cho lắm, nên thôi, Hiển viết thư trả lời ngay, cám ơn hai chị em đã dành cho mình nhiều thương mến, thân tình và cầu chúc chị Nhân trăm năm hạnh phúc. 
    Gẩn cuối năm 1974, tình hình cuộc chiến ác liệt hơn, miền Nam mất đi một số tỉnh vùng biên giới Cao Miên, Ai Lao, quân Bắc Việt với xe tăng đại pháo Trung cộng Nga sô tiến càng ngày càng sâu vào lãnh địa còn lại mặc cho quân VNCH ra sức chống đở mãnh liệt, dân chúng miền trung, từ Quảng Trị xuống vào tới Đà Lạt Nha Trang hoảng loạn, rục rịch bồng bế nhau xuôi nam, rồi thì, không còn gì trong tay, quân VNCH đành rút bỏ triệt thoái về miền xuôi, đất miền Nam cũng từ ngày đó lọt vào tay quân Bắc Việt từng nơi một, từ vùng Một xuống vùng Hai. Về Tùng Nghĩa thăm nhà, ở nán lại nghe ngóng tình hình, qua Tết định trở lên Pleiku thì tin Ban Mê Thuộc mất, rồi giữa tháng ba năm 1975, cao nguyên di tản, Đà Lạt cũng theo chân, Hiển cùng mẹ theo đoàn người chạy loạn trên đường ra Nha Trang nhưng không may, mẹ Hiển bị bệnh nên đành phải đưa bà quay lại Tùng Nghĩa rồi, kẹt ở đó tới ngày miền Nam sụp đổ Ba Mươi tháng Tư Bảy Lăm. 
*
       Sáng chủ nhật, trời Melbourne những ngày giữa thu, cái lạnh cũng lạnh lùng lạnh như mấy mùa thu trước, hôm gặp lại mẹ con chị Nhân ở trạm xe điện Footscray, cả tuần rồi, xong việc ở chỗ làm, được xếp cho nghĩ xã hơi, hẹn đến thăm chị, hôm nay mới đi được, trước khi tới, Hiển không quên chạy ra tiệm bánh quen người mình mua vài thứ, làm quà tái ngộ nhứt là con bé, có cái tên Thảo Nhân ngồ ngộ dễ thương, không thương không được. Con đường Maribyrnong giờ này vắng tanh nhưng hai bên chạy dọc bờ sông, người đi người chạy đông nghẹt len nhau dưới cái nắng sớm, “làm bộ làm điệu” rực lên từng vạt hâm hấp ấm mong manh “tơ liễu buông mành”. Người đi lễ sáng đã tấp nập tới từ lâu, Hiển đành phải đậu xe xa ngoài ngã ba đường Epsom. 
    Nhà chị ở cũng dễ kiếm, căn nhà gỗ nhỏ màu vôi vàng nhạt, nằm ngay góc đường St Leonards, cách nhà thờ St Mary không mấy xa, hai mẹ con đứng trước sân cỏ, ngay cái cổng rào sắt bạc màu đen, đám hoa “băng –xê” dọc hiên nhà nở rộ một màu tím tím thẳm, chị đi qua đi lại, con bé Thảo Nhân, lắc lư bước sau, thì Hiển vừa tới, con bé chạy ùa ra “chú Hiển, chú Hiển”, Hiển bồng nó lên chào, chị Nhân mừng muốn khóc. Chợt nhớ gì đó, bỏ con bé xuống, đưa cho nó cầm cái túi giấy đựng bánh, con bé cười nức nẻ, hai người đi vào, Hiển nhìn quanh, như hiểu ý, chị Nhân cười “Hậu mới chạy ra phố mua gì đó, chắc cũng sắp về”.
    Hậu bước vào nhà, con bé không ngồi chung với mẹ mà ngồi sát Hiển trên ghế sa lông trong phòng khách, chị Nhân im lặng chờ, Hậu đứng chết trân, gói đồ đi mua hồi sáng run run theo từng nhịp run của tay, Hiển đứng dậy, không bước thêm bước nào, vẫn đứng đó, cánh cửa vẫn mở, Hậu mừng rỡ òa lên khóc, nghẹn ngào, chị Nhân nhìn cô nàng, cười mà rưng rưng “ai đây, có quen hôn”, Hậu đưa tay lau vội lau vàng nước mắt “ anh Hiển”, con bé Thảo Nhân tròn xoe mắt chạy lại nắm tay dì “dì Hậu dì Hậu”. 
*
    Hiển ngồi nghe chị, và được chị cho xem tấm hình chụp ngày cưới, không ngờ chồng chị là anh Nguyễn Trọng Thảo, quê ở Bình Long, sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến, anh chết ngày 20 tháng 3, khi 3 ngàn quân TQLC thuộc Lữ đoàn 147 tập trung tại bải biển Thuận An, xã An Dương, Phú Vang, Huế chờ tàu hải quân đón nhưng không có chiếc nào đến, quân Bắc cộng truy kích và tàn sát gần như toàn bộ lữ đoàn, một số tử thương, tự sát, và những người còn lại đều bị bắt, chiến cuộc chấm dứt, sau đó người dân An Dương đã chôn cất vội vàng những người lính TQLC này trên bải biển.    
    Hiển gặp anh Thảo lần đầu năm lên lớp đệ ngủ trung học, buổi sáng hôm đó, trời giữa thu Đà Lạt mù sương lạnh, vào lớp không bao lâu, thầy giám thị tới lớp Hiển, có một người sĩ quan cấp bực Thiếu Úy, mặc đồ lính TQLC còn trẻ đi theo, muốn gặp Hiển một chút. Hiển rời lớp, vừa sợ vừa ngơ ngơ vì không quen, đi ra, theo anh ngồi trên cái băng ghế đá dưới cây thông già cuối sân trường, không dám nhìn, lo lắng chờ, anh đã ghé qua nhà dưới Tùng Nghĩa thăm mẹ mới biết Hiển học ở đây.
    Lúc ba Hiển chưa có mẹ, còn bôn ba thời vận ở miệt đồn điền cao su Xa Cam Hớn Quản, gặp ông, cô tư Cúc, người Bình Long phải lòng rồi thương nhau, quên tính toán, lỡ cô mang thai, gia đình cô tư không chịu cho lấy nhau vì lý do gì đó, ba Hiển đau buồn lang thang lên Đà Lạt, làm nhân viên cho nhà ga xe lửa, một hai năm sau, ông gặp mẹ Hiển khi bà đi buôn hàng từ Phan Thiết về, lần này ông ngược về Mỹ Tho, đem ông bà nội lên Tùng Nghĩa, hai người cưới nhau, sinh ra Hiển. Sau đó không lâu, ông trở lên Bình Long, cô tư Cúc lấy chồng, một người giáo viên trường tiểu học tỉnh, tốt bụng, biết chuyện nhưng không phàn nàn, không nhắc tới, cô Cúc sinh anh Thảo ra, giống hệt ba, ông đến thăm anh Thảo, lúc đó vừa thôi nôi, rồi thôi, vì ông không muốn làm gia đình cô tư xào xáo vô ích, không may ba Hiển mất vì bệnh viêm phổi khá nặng năm Hiển lên bốn, cho tới ngày Hiển lớn, mẹ không hề nhắc gì tới chuyện này, chuyện con riêng của ba và Hiển có một người anh cùng cha khác mẹ. 
     Anh kể lại chuyện, hỏi Hiển học hành ra sao, mẹ thế nào rồi đưa cho một số tiền vài trăm đồng, bảo cất kỹ, ăn bánh uống nước, Hiển ngồi nghe mà ngớ người ra, tới khi trở lại lớp học, trước hành lang, anh Thảo ôm hôn lên đầu, bảo sẽ về thăm, ráng học, ráng giúp mẹ, anh chào cô giáo, một lần nữa, vò đầu Hiển, rồi bỏ đi, thình thoảng quay lại vẫy tay làm dấu bảo Hiển vào lớp, dưới trời sương lạnh mù mờ, nhìn theo, bỗng dưng Hiển muốn khóc và bấy giờ mới thì thầm hai tiếng “anh Thảo”, anh đi xa rồi. Hiển gặp lại anh Thảo lần thứ hai, ở Tùng Nghĩa, ngày Hiển đậu tú tài một, và cũng là những ngày chiến trận diễn ra ác liệt khắp nơi, những ngày người dân thành phố biết sợ tiếng đại pháo, tiếng bom rơi, hôm đó áo quần, giày đinh bám đầy bụi đỏ, anh không ở lâu, vội vàng không như lần trước, anh cũng đưa cho mẹ gói quà, rồi vội vã ra đi, hỏi anh chuyện thư từ, anh cho số KBC đơn vị nhưng dặn là đừng viết vì anh cứ theo quân rày đây mai đó, rừng sâu núi thẳm, đồng hoang sông nước, khi nào rãnh anh sẽ về thăm.
    Chị Nhân mân mê tấm hình, nghe Hiển kể phần mình, Hậu ngồi kế bên, hai chị em nhìn nhau rồi nhìn xa xăm ra đường, lặng thinh buồn vời vợi, ngưng chuyện vừa lúc con bé Thảo Nhân chạy loanh quanh đâu đó trở lại chỗ ba người, Hiển đứng dậy, ôm trọn nó vào tay mình cười mà rươm rướm “Thảo Nhân, cháu của tôi đây mà”, con bé chẳng biết ất giáp gì, cười ngặt nghẻo “chú Hiển, chú Hiển”. 
*
    Buổi sáng, trời bỗng dưng có nắng ấm sớm, cái nắng hiếm hoi của những ngày cuối đông xứ này, cả nhà dắt nhau thả bộ ra tiệm ăn Mac Donald ở ngã ba đường, con bé Thảo Nhân chạy lúp súp trước, quẹo ngả đường Ferguson, Hiển và Hậu theo sau, chị Nhân tủm tỉm cười đi sau cùng, ngang qua trường tiểu học St Mary, do hội nhà thờ St Mary quản trị, phía sau hông nhà thờ nơi Hậu đang dạy lớp Mẫu giáo, tới cổng, cái cổng sắt cao đóng kín, sân trường vắng tanh, chỉ toàn là chim với chim, từng đám đuổi nhau tắm nắng, mùa này học trò đã nghỉ cuối năm, con bé đứng lại, chờ  ba người lên, nắm tay Hậu chỉ vào trong “dì Hậu dì Hậu”, Hậu cười, ẳm nó lên nựng càm “mai mốt Thảo Nhân đi học trong đó hả”, con bé khoái chí gật đầu lia lịa. 
   Chị Nhân đi lên trước, con bé nắm tay mẹ, nhảy cò cò bước thấp bước cao ngoáy cổ nhìn lại, mẹ con trước, hai người sau cũng tay nắm tay níu cười, nắng bất chợt rực ấm, ấm như lòng người vừa có mà họ đã chờ từ lâu lắm, ở một góc sân vườn, trước nhà ai đó, hai con bướm vàng vươn đôi cánh nép liền bên nhau trên cành bụi hoa cúc nở rộ, cũng một màu vàng thẳm, long lanh sáng dưới những hạt sương đêm, nấn ná chưa vội tan.
    
Thuyên Huy

Mượn tên và chút chuyện thật của một người, các nhân vật khác, địa danh, tình tiết được tự dựng bằng tưởng tượng để nhớ người đã nằm xuống ở chiến trường miền Trung cho tôi có được hơn hai mươi năm bình yên, hạnh phúc.
Melbourne, những ngày hạ cháy rừng 2019.

Nguồn: Hoài Niệm Tây Ninh

Con chó Giôn


Nguyễn Quang Lập 




Nó tên Giôn, tức Giôn xơn. Hồi chiến tranh, chó mèo đều lấy tên Giôn xơn, Ních xơn, Thiệu, Diệm ra đặt cả. Làm cái nhà vệ sinh công cộng, vẽ cái mặt Giôn xơn, viết câu ca nhắc nhở: “Dù ai đi đâu về đâu/ Về đây mà đái lên đầu Giôn xơn/ Căm hờn lại giục căm hờn/ Về đây mà đái còn hơn đái ngoài”. Đi đái còn phải căm thù sâu sắc huống hồ là đặt tên chó mèo.

Lúc mới mang từ nhà dì Thé về, cả nhà gọi nó là Giôn Xơn, sau gọi Giôn Xơn khó, người gọi Giôn Giôn Giôn, người gọi Xơn Xơn Xơn, nó bé bằng bắp hoa chuối mắt tròn xoe cứ ngơ ra nhìn, một tuần rồi vẫn chẳng biết tên nó là gì, cuối cùng cả nhà nhất trí gọi nó là Giôn.


Mình yêu con Giôn nhất nhà. Mới bảy tuổi, bom đạn đầy trời, quanh năm suốt tháng trẻ con bị giam trong nhà, có con chó nhỏ như bắt được vàng. Mình suốt ngày quanh quẩn bên nó, có việc để làm, khỏi phải ngồi ngạch cửa ngóng ra đường nữa.

Đến lớp chỉ mong về chơi con chó Giôn. Đôi khi cắn bút ngẩn ngơ hỏi, con Giôn bây giờ làm gì nhỉ? Tối nào nó cũng nằm khoanh trong lòng mình, lâu ngày quen, vắng nó cái là không sao ngủ được. Đang ngủ quờ tay không thấy nó, giật mình chồm dậy kêu ầm, Giôn mô rồi... Giôn mô rồi? Nó ở đâu nhảy phốc lên giường, liếm liếm mặt mình, sướng mê man.

Hè năm lớp hai, con Giôn đã bằng bắp vế mình, biết bắt chuột, sai nó lấy cái này cái nọ, chỉ cần nói đến lần thứ hai là nó hiểu liền. Nó không ăn cứt, không phải nhờ có “giáo dục”, nhà cũng chẳng đủ cơm cho nó, nhưng nó không ăn là không ăn. Một hôm mạ mình chìa đít con Lí, cháu gái mình, cho nó liếm. Nó không liếm, còn nhìn mạ mình vẻ khó chịu, ra cái vẻ ta đây có văn hoá, không thèm.

Một hôm máy bay Mĩ khui được kho dầu lớn ở làng Chánh Trực, sát ngay Ba Đồn, chúng quần đúng sáu tiếng, từ hai giờ chiều đến tám giờ đêm, bom nổ lửa cháy ngút trời. Dân Ba Đồn xanh mặt kéo nhau chạy táo tác, nói, chạy mau không mai nó đến càn nát Ba Đồn. Ba mình quyết định sơ tán ngay trong đêm.

Các anh chị lớn lo gánh vác vận chuyển nhà cửa, mình bé chỉ phải đưa đống sách của mình đi thôi, thế mà cũng ốm xác. Mang trên lưng gần chục cân, lội bộ 7 cây số cát trong đêm, mình cùng con Giôn bị bỏ rơi khá xa.

Mình lê lết kéo rê chân trên cát, vừa đi vừa nghỉ, lôi sách ra ném bớt đi cho nhẹ, nhưng nhìn thấy cuốn nào cũng tiếc, lại nhét vào, nghiến răng lê lết bước. Buồn ngủ quá, đang đi bỗng rơi phịch xuống cát, cứ thế ngủ không biết gì trời đất.

May có con Giôn, nó vọt lên kéo ống quần ba mình làm hiệu. Ba quay lại tìm, cõng về đến nhà mới ở làng Đông Dương.

Mình lên lớp ba, con Giôn đã lớn, ngày nào cũng theo mình đi học. Mình ngồi học, nó ngồi ở cửa lớp ngóng vào, cái mặt nó nhìn mình có vẻ ngưỡng mộ lắm.

Ra chơi là nó quấn lấy mình, chơi đã thôi. Cũng có hôm mình theo mấy thằng bạn chạy rong, ngoảnh lại thấy nó ngồi chống hai chân trước nhìn mình, mặt buồn thiu.

Nó biết bắt cá, lúc đầu chỉ bắt cá ruộng cạn, sau nó dám nhảy xuống nước ngụp lặn như ngươi. Thỉnh thoảng nó gặm một con cá rô hay cá tràu (cá lóc) chạy về nhà, thả vào chậu, mạ mình mắt sáng như sao, nói, thằng Lập làm răng phấn đấu bằng con Giôn.

Đến bữa không bao giờ nó chạy lăng xăng quanh mâm. Nó nằm dài ở sân, mặt ghếch ra ngõ, ra cái điều có mời chắc gì ta đã ăn. Hết bữa, mạ mình tùa hết đồ ăn thừa vào bát, phải gọi hai ba lần nó mới uể oải đi vào, y chang mấy ông khách làm bộ, no rồi, ăn chơi bát cho vui thôi.

Nó biết mình yêu ai ghét ai. Có anh cu Li đeo răng vàng hay đến tán chị Qui, mình ghét lắm, hồi đó cứ thấy anh nào đeo răng vàng, chải tóc bóng mượt là ghét. 

Anh cu Li thỉnh thoảng đạp xe từ Quảng Thanh đến, giả đò tán chuyện thời sự với ba chị Qui, ta thắng chỗ này, địch thua chỗ kia nhưng thực chất mắt trước mắt sau lôi chị Qui ra khỏi nhà.

Anh cu Li đèo chị Qui bằng cái xe đạp Phượng hoàng mới cứng, tụi mình chạy đuổi theo hét vang, Có tiền mua lúa mua khoai/ Đừng mua xe đạp mà lai đàn bà!

Con Giôn hưởng ứng liền, nó chạy loăng quăng trước mũi xe anh cu Li, anh tránh không được, ngã oạch. Tụi mình sướng rêm, nhảy cà tẩng dzê-ê dzê-ê.

Nhà mình hồi đó nghèo lắm. Tám đứa con, chỉ trông vào đồng lương của ba mình, không nghèo mới chuyện lạ. Có chục đồng mượn mự Thơm hôm đi sơ tán mà mự cho người nhắn năm lần bảy lượt vẫn không trả được.

Mình nhớ trưa hôm đó từ ngoài đồng về thấy má đang ngồi ròng xích cổ con Giôn. Nó nằm im nhưng toàn thân rung bần bật, đôi mắt ngước lên nhìn mình cầu khẩn .

Mình hỏi, mạ làm chi rứa? Mạ mình nói, bán đi trả nợ cho mự Thơm. Mình vừa hét vừa nhảy, khóc lóc ầm ĩ, nói, không không không. Mạ mình khóc, rất hiếm khi mạ mình khóc, nói, mi không bíêt mô, mự Thơm ra giữa chợ chửi mạ.

Mình tịt câm, cầm dây kéo con Giôn đi về nhà anh Dậu đúc soong nồi cuối làng, anh đã trả tiền cho mạ rồi.

Mình và con Giôn đi đường cát sau làng. Nó chỉ chạy chừng mươi bước rồi trì lại, mắt ngước nhìn mình van lơn. Mình cứ cúi mặt kéo đi, nó lại chạy mươi bước lại trì lại, hai mắt dàn dụa nước. Lần đầu tiên cũng là lần duy nhất mình nhìn thấy chó khóc.

Mình ngồi ôm nó khóc theo. Ngồi ước sao bỗng nhiên được mười đồng. Ngồi ôm con Giôn giữa cát nắng chang chang, khóc mãi, khóc khan cả cổ, nói đi nói lại, ui trời ơi ...răng nhà tui nghèo ri hè. Con Giôn bỗng rùng mình một cái, vụt chạy. Tưởng nó chạy đi đâu, được mươi bước nó dừng lại ngoảnh mặt nhìn mình chờ đợi.

Mình biết nó đã đồng ý đi, không chống đối nữa nên không cần dắt dây, cứ để nó chạy theo mình. Từ đó đến nhà anh Dậu mặt nó cứ cúi gầm. Đến nhà anh Dậu nó mớí dừng lại run lẩy bẩy. Nhưng nó không khóc, mình cũng thế, cũng run lên nhưng không khóc.

Cho đến khi anh Dậu tuồn nó vào bao bố, nó còn kịp nhìn mình trân trố, cái nhìn vừa trách móc vừa thương yêu bất tận, kêu ẳng một tiếng đau nhói tim.

Anh Dậu ném cái bao bố xuống ao. Mình đứng im, chết giấc. Khi thấy hồ nước sủi bọt, mình bỗng xâm mắt, nghiến răng nhảy bùm xuống ao. Anh Dậu lôi lên cho một tát, nó, ngu.. điên! Rồi đuổi về.

Đến chiều thì mình lên cơn cảm hàn, sốt li bì, sốt quá phát cuồng vùng té chạy, ai đuổi theo cũng không kịp. Mình vừa chạy vừa hét lên, ôi Giôn ơi... Giôn ơi!

Viết đến đây thì ngồi khóc, bây giờ đã hai giờ sáng.

Rút từ Ký ức vụn 1


 Nguồn: khovanbolap.blogspot.com 

Tuesday, July 28, 2020

Bé Khoai Mì 

 Nguyễn Thị Hữu Duyên 


Căn nhà của cặp vợ chồng người Mỹ trắng đối diện nhà Hà vừa đăng bảng bán được ba tuần thì đã có người mua. Gia đình chủ mới dọn đến mấy hôm rồi, sự có mặt của họ làm xáo trộn đời sống đang an bình của Hà. Vẫn biết quả đất tròn nhưng chẳng lẽ nó nhỏ như vậy sao?

Hôm qua đi làm về Hà nghe Hợp bảo gia đình mới bên kia chỉ có ba người, một người đàn ông ngồi xe lăn chắc cũng trên sáu mươi tuổi, một phụ nữ còn trẻ, xinh đẹp khoảng ngoài ba mươi và một bé gái độ ba bốn tuổi.

Hà nhìn chồng nhíu mày: "Vậy họ là cha con ông cháu hay chồng già vợ trẻ, con mọn?"

"Làm sao biết được, hôm nào mình sang thăm rồi sẽ biết."

Hợp lắc đầu, vô tư. Đàn ông là thế nhưng đàn bà lại khác, với bản tính tò mò sẵn có của phụ nữ, Hà vừa nấu ăn vừa phóng mắt sang nhà hàng xóm. Qua màn cửa sổ nơi phòng khách Hà loáng thoáng thấy bóng người đàn ông trung niên đang ngồi trên xe lăn chơi đùa với bé gái kháu khỉnh. Cả người đàn ông và cháu bé đều trông rất quen nhưng Hà không thể nhớ nỗi là ai.
Sáng nay khi ra xe Hà thấy sân nhà bên ấy ướt nước có lẽ họ rửa sân và tưới cây cảnh vì đã mấy tháng nay ông bà già Mỹ ấy về ở với con nên nhà này không ai chăm sóc. Người phụ nữ duy nhất bên ấy trẻ trung cao ráo xinh đẹp đang dọn dẹp ngoài gara không thấy rõ mặt nhưng hình như rất quen, dáng dấp này Hà đã gặp đâu đó và bao giờ mà không thể nào nhớ nỗi. Ai nhỉ? Hà chịu thôi, không tài nào nhớ được, có lẽ người giống người.

Trong bửa ăn chiều, Hợp bảo ngày mai thứ bảy, là ngày nghĩ, em thu xếp sắm chút quà rồi hai vợ chồng qua chào láng giềng vì "nhứt cận lân nhì cận thân," anh sẽ đi mua một con búp bê làm quà cho bé gái, Hà đồng ý và phụ họa "Dạ, bà con xa chẳng qua láng giềng gần mà anh" Đồng hồ trên tường chỉ 11 giờ đêm vậy mà Hà cứ chong mắt hết nhìn lên trần nhà lại xoay qua khung cửa sổ suy nghĩ lung tung không thể nào ngủ được. Dáng dấp người đàn ông này gợi nhớ một người, có thể nào là anh ấy sao? Còn đứa bé thì trông giống…à, chị à khẽ trong cổ họng, cái não đã chịu mở ra rồi.

Hà ngồi phắt dậy, rón rén rời khỏi giường bước nhẹ bước ra bàn rót ly nước lọc uống cạn một hơi, tỉnh người, câu hỏi quay quắt trong đầu: giống bé Khoai Mì quá, chẳng lẽ đó là anh Phúc cha của bé Khoai Mì còn cháu gái là con của Khoai Mì? Chẳng lẽ người con gái mình nhìn chưa rõ mặt ngoài gara là bé Khoai Mì? Đúng rồi, cô ấy có vóc dáng giống hệt mẹ nên Hà nhìn thấy quen vì mẹ Khoai Mì gần gũi với Hà năm sáu tháng nên Hà nhớ rất rõ. Còn chồng Khoai Mì đâu sao không thấy? Trước giờ họ ở đâu?

Bao nhiêu câu hỏi xoay quanh nhà hàng xóm ấy nhảy múa trong trí Hà. Chị chép miệng đứng lên "Đợi ngày mai sẽ rõ," rồi êm êm trở lại giường, nhè nhẹ nằm xuống bên chồng.

Đã quyết định thế nhưng sao vẫn không khép mắt được, người mới cảnh xưa bỗng chốc hiện về như muốn chia sẻ cùng bóng đêm nỗi dậy sóng trong tâm hồn chị. Hà làm sao quên được hình ảnh người đàn ông của mối tình đầu đời, nếu thật sự là anh ấy thì sao nhỉ? Vui hay buồn? Đã không thành vợ thành chồng thì biết được tin tức nhau sống gần nhau chắc là sẽ vui.

Hà nhẩm tính, đã hơn ba mươi năm rồi còn có thể nhận ra nhau không? Lại nhớ đến bài thơ Tình già của Phan Khôi mà bây giờ thấy giống tâm trạng của mình, "Hai mươi bốn năm xưa (còn mình thì khoảng 34 năm rồi,) Một đêm vừa gió lại vừa mưa (Mình và anh Phúc chia tay nhau vào đêm hè) Bên ngọn đèn mờ trong gian nhà nhỏ. Đôi mái đầu xanh kề nhau than thở…"

Hà khẽ thở dài nhớ lại thời gian ấy. 

*
Đó là năm 1976 Hà tốt nghiệp lớp 12 trong thời điểm đổi thay của đất nước, sau đó về nhà nấu cơm chờ đợi kiếm việc làm thích hợp để giúp gia đình vì ba đã đi cải tạo. Đầu năm 1977 Hà ghi danh học khoá sư phạm cấp tốc sáu tháng do Sở giáo dục đào tạo. Khi tốt nghiệp Hà và khoảng hai mươi anh chị, bạn, được "Đảng và nhà nước phân công" về công tác ở vùng kinh tế mới xã Lộc Ninh huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh.

Vùng đất này được chính quyền khai phá "cơ bản," có nghiã là những cây cổ thụ to thì được đội "cưa xẻ" của phòng Kiểm Lâm đốn hạ hết chở đi cưa xẻ, lấy gỗ bán lại cho công trường xây dựng hoặc các cơ quan có nhu cầu xây dựng. Dân từ thành phố lên vùng kinh tế mới sẽ được cấp đất và cho sáu tháng nhu yếu phẩm để sống khai phá tiếp phần đất được phân cho mình ít nhiều tuỳ theo số lượng nhân khẩu; rồi tiếp tục khai phá cho trở thành đất sản xuất. Những phần đất ấy đa số còn những cây con thì dân dùng búa, rìu, hoặc cưa tam giác tự hạ xuống làm củi để nấu nướng hoặc bán cho những chuyến xe đò chở về tỉnh, lấy tiền mua thêm gạo, nước tương, nước mắm, mì gói, khô mắm mà ăn. Đất thì dùng cuốc, xẻng để cày xới mà "tăng gia sản xuất, trồng trọt chăn nuôi" cho đúng đường lối và chính sách Đảng là "nhà nhà có đất, người người có đất," ai cũng tự làm chủ lấy đất của mình, thật lý tưởng (?)

Có gia đình thì sẽ có trẻ em, có trẻ em thì phải có trường học thế là từng "Đoàn giáo viên xung phong" được đào tạo cấp tốc, sáu tháng, ba tháng tuỳ theo từng địa phương. Đoàn giáo viên xung phong này sẽ phải đi khai phá đất, mở trường học và kiếm học sinh vô để cho có học sinh mà dạy, nếu không thì bị "mất dạy," mà khi bị mất dạy thì sẽ bị kiểm điểm, bị phê bình, bị ghi vô lý lịch "Không thực hiện tốt công tác được giao."

Đoàn của Hà có tám thầy, bảy cô; các Thầy "quan hệ kết nối" với bộ đội và uỷ ban xã để vận động xây cất trường và nhà tập thể cho giáo viên, kế hoạch sau ba tháng phải xong để khai giảng năm học mới vào đầu tháng chín.

Thế là đoàn giáo viên chia nhau mỗi người một việc, các cô đạp xe đi vòng vòng khắp nhà dân để lấy danh sách trẻ trong độ tuổi đi học mời gọi đến trường. Các thầy ráo riết cất trường, vách đất, lợp tranh, ghế học trò làm bằng những cây rừng có thân tròn nhẵn đường kính cở cổ tay em bé. Khoảng năm hay sáu cây ghép lại thành một băng cho ngồi vừa cái mông đóng lên cái giá gỗ có chân chôn xuống nền, mỗi băng bề ngang khoảng bốn tấc, bề dài khoảng hai mét ngồi được năm em (ngồi riết chai đít hết.) Bàn viết thì cũng làm theo cách ấy, nhưng trên mặt bàn có phủ tấm ván cho bằng phẳng dễ viết, những miếng ván này đưa thẳng từ xưởng cưa về nên còn sần sùi, sợ các em bị dằm sóc vào tay nên các cô phải dùng tiền túi mua giấy nhám về chà cho mòn những cái dằm lớn, dằm nhỏ để an toàn cho các em.
Nhà tập thể giáo viên cũng cất xong nhưng các cô giáo không dám ở vì thiếu thốn đủ thứ. Không giường mà chỉ ngủ võng, mỗi người được cấp cho cái võng nylon hai lớp, cột vào hai đầu cây cột nhà rồi chui vào giữa nằm, giản đơn tiện lợi khỏi giăng mùng. Muỗi chích nát lưng, khi trời nóng thì trùm một lúc mồ hôi đổ hầm hập, do đó chỉ có các thầy ở còn các cô giáo được gửi trọ nhà dân xung quanh trường.

Hà và hai chị bạn được giới thiệu ở trọ nhà bác Sáu bán nước giải khát cách trường khoảng năm trăm mét. Bên cạnh nhà bác Sáu là nhà vợ chồng anh chị Phúc dân ở Bùi Môn, gia đình anh có máy dệt vải. Anh cưới chị vào tháng 10 năm 1974, chị về làm vợ, làm dâu chưa được bao lâu thì đến ngày mất nước. Gia đình anh có tên trong danh sách "Tư sản mại bản" bị tịch thu hết máy móc và căn nhà ở Bùi Môn; còn căn nhà và mảnh vườn nhỏ ở Củ Chi gia đình dời về đó, vợ anh phải mua gánh bán bưng để lo cho gia đình. Mỗi sáng chị đón xe lam đi đến chợ Cầu muối ở Sàigòn mua mấy bao khoai lang về rửa từng củ khoai, nấu từng nồi khoai rồi chở từng thúng khoai trên baga xe đạp ra chợ chiều gần nhà bán kiếm từng đồng lời nuôi gia đình. Anh Phúc là sinh viên năm thứ hai trường kỹ thuật Phú Thọ nên biết chút đỉnh về máy móc. Anh che tấm bạt, treo lên hàng rào cái bảng "Bơm vá xe đạp."

Năm 1976, trong đợt đổi tiền lần thứ nhất "năm trăm chỉ đổi lấy có một đồng," ba anh đã uất ức đến đứng tim mà chết.

Mấy tháng sau mẹ anh vì quá buồn lo sầu khổ nên cơn đau bao tử bộc phát nặng phải đưa đi cấp cứu ở bệnh viện. Mỗi ngày được phát cho ba chục viên thuốc xuyên tâm liên uống làm ba lần, thời đó bệnh viện không có thuốc, bệnh gì cũng thấy bác sĩ cho uống cùng thứ thuốc ấy. Tim, gan, phèo phổi gì cũng dùng xuyên tâm liên để trị. Uống được mươi ngày, bệnh càng nặng cho đến một đêm bà lặng lẽ về với ông không một tiếng rên than, chỉ thấy bờ môi bà rướm máu có lẽ bà đã cắn chặt để nén cơn đau đớn. Bác sĩ ghi vào hồ sơ bệnh án "Bệnh nhân chết vì bị ung thư bao tử".

Anh Phúc cố nuốt nước mắt ngược vào lòng, bán phần đất bên cạnh nhà lo cho mẹ mồ yên, mả đẹp. Thời gian ấy chị vừa có thai hai tháng, vì hôi cơm tanh cá, không ăn uống được nên chị ốm yếu, xanh xao, gầy rọc hẳn, anh không cho chị bán buôn nữa vì sợ ảnh hưởng cái thai.

Số tiền bán đất còn lại mòn dần vì anh sửa xe cũng không đủ sống, anh quyết định bán luôn căn nhà "đăng ký" đi kinh tế mới lập nghiệp. Anh thầm tính, với số tiền ấy sẽ đủ nuôi vợ con khoảng ba năm, còn anh thì sẽ sống với số lương thực của nhà nước cấp và cố gắng lao động để trồng trọt chăn nuôi ba năm sau con lớn, vợ khoẻ và cùng anh nuôi gà vịt bán cũng có được cuộc sống ổn định. Thôi thì, phải biết theo thời thế mà sống vả lại anh cũng muốn giống như nhà thơ nào đó "Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, người khôn người đến chốn lao xao."(*) 

Thời thế này thì đành phải thế, anh chưa từng biết cái khổ cực của lao động tay chân như thế nào, chưa từng cày sâu cuốc bẩm ra sao nên anh tưởng mọi việc sẽ như mình tính. Rõ là "chưa thấy quan tài chưa đổ lệ," sau này anh tâm sự với Hà như vậy.

Đa số dân lên vùng Kinh tế mới đều được nhà nước khuyến khích trồng cây mì vì cây khoai mì không bỏ thứ gì, củ mì dùng để ăn, làm bột, xác mì nuôi heo, thân cây và vỏ củ mì cho bò ăn hoặc phơi khô làm củi, lá già cho bò ăn, đọt mì non luộc lên chấm muối dành cho người ăn cũng qua bữa. Anh Phúc làm đổi công với bác Sáu đã trồng được mấy công mì và vẫn còn đang tiếp tục khai phá đất để trồng thêm.

Một hôm chị bị thai hành mệt và khó thở anh vội vàng đưa chị đi trạm xá khám thai quên khoá cái tủ sắt duy nhất anh mang từ Sàigòn lên nên kẻ gian lẻn vào lấy hết số tiền và vàng của anh chị. Từ đó hai vợ chồng thường xuyên ăn cơm độn khoai mì như bao nhiêu người khác, chỉ thương cho chị đang mang thai gần ngày sinh nở.

Khi Hà và hai bạn đến ở nhà bác Sáu, bọn Hà và bác Sáu thường chia xẻ lon gạo, tô canh tép hay chén cá kho cho chị, để chị có thêm phần dinh dưỡng nuôi thai nhi trong bụng. Họ thân nhau như ruột thịt, mọi người giúp anh chị sắm quần áo, khăn tã cho bé, nôn nao mong sớm được thấy mặt bé ra đời.

Ngày 25 tháng 12 năm 1977, giai đoạn khổ nhất từ sau 30-4 -1975, chị chuyển bụng hạ sinh một bé gái đẹp như thiên thần. Vì ăn uống thiếu thốn nên chị kiệt sức nhiều trong hậu sản; hai tháng sau chị bị ngộ độc khoai mì và ra đi vĩnh viễn.

Chỉ có hai năm mà đội lên đầu ba vành tang trắng, tưởng chừng anh Phúc không còn nước mắt để khóc nữa. Nỗi đau như chai lì vô cảm, không ai thấy anh nhỏ một giọt lệ nào khi đưa tang vợ; anh chỉ rơi nước mắt khi ôm con thơ vào lòng âm thầm ngồi trước bàn thờ mỗi đêm.

Nhớ vợ, thương con anh cô đơn với thân gà trống nuôi con và gọi bé là: Khoai Mì, hỏi vì sao anh lại gọi bé tên ấy và anh có định làm khai sinh với tên khác cho bé không? Mắt anh ửng đỏ, giọng trầm buồn: "Tôi muốn qua cái tên đó nhắc nhớ cái chết của vợ tôi, và cũng để cho tôi đừng quên bổn phận mình với đất nước với đồng loại đang trong cảnh đói nghèo, bi đát tột cùng này."

Hà và hai người bạn trọ chung nhà bàn với bác Sáu mang bé về chăm sóc cho anh được rảnh tay lo kiếm tiền nuôi con. Anh Phúc lúc đầu còn ngần ngại chưa đồng ý, anh lắc đầu nguầy nguậy, bác Sáu kiên nhẫn giải thích: "Anh à, được các cô giáo thương cháu giúp như vậy là quý quá. Anh cần phải lo đi làm thêm kiếm tiền mua sữa cho cháu; sống nơi rừng thiêng nước độc này cháu còn bé dễ bệnh tật, anh phải có chút tiền mà đưa cháu đi bác sĩ hoặc lo thuốc thang khi cần. Vả lại anh là đàn ông đâu biết cách chăm sóc trẻ con như chúng tôi." 

Nghe có lý và cũng nể bác Sáu nên anh thuận tình, vả lại hai nhà sát cạnh nhau chứ có xa xôi cách trở gì đâu. Từ đó bé Khoai Mì là con chung của mọi người, bé kêu ba cô giáo bằng mẹ khi bắt đầu bi bô tập nói.

Dường như biết thân phận mình bé Khoai Mì rất dễ: dễ ăn, dễ ngủ, dễ tắm, dễ nuôi, dễ mọi thứ và đặc biệt là rất khoẻ mạnh. Không đủ tiền mua sữa hộp nên bé phải bú "độn" với nước cơm pha đường thùng mà không bị đau bụng hay tiêu chảy. Thật ngán ngẩm cái giai đoạn lầm than ấy, "lao động là vinh quang" nên người lớn ăn cơm độn khoai, bé bú độn nước cơm thay sữa mà không ai dám hé môi than phiền lời nào. Cứ mỗi tối anh nhận Khoai Mì về ngủ với con.

Một năm qua mau, nhìn bé chập chững bước những bước đầu đời lòng anh cũng nguôi ngoai nỗi thương nhớ vợ hiền.

Tình cảm thật khó nói, nó đến bất ngờ chỉ với một chữ "yêu", nó trêu ghẹo, nó gây thờ thẩn, nó tạo nhớ nhung nhưng không thể định nghĩa được nó. Ai đó đã viết "Làm sao cắt nghĩa được tình yêu, Có nghĩa gì đâu một buổi chiều. Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt, bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu" Cũng thể ấy, Hà thương con rồi yêu cha từ lúc nào không biết; anh Phúc cũng đã nhìn Hà bằng ánh mắt âu yếm tự bao giờ không hay.

Tình cảm giữa hai người nảy sinh qua cây cầu nối là bé Khoai Mì. Hè năm 1979, Phúc theo Hà về thăm gia đình cô và nhân dịp này anh ngỏ lời xin được tổ chức "Lễ tuyên bố" với Hà.

Nhưng Mẹ không tán thành mối tình này vì cho rằng Hà là con gái mới lớn lại đi lấy một người hơn đến bảy tuổi, đã có một đời vợ, có con riêng cộng thêm cái nghèo. Mẹ giọt vắn giọt dài tỉ tê:

"Gia đình mình đã quá khổ, mẹ mong con có tấm chồng kha khá cho đở cực tấm thân, lại giúp được cho các em phần nào."

Hà nao lòng trước những giọt nước mắt của mẹ, cô như đứng trước ngã ba đường, còn năm đứa em thơ dại và phải lo thăm nuôi ba trong trại cải tạo mỗi quý.

Tuy mối tình đầu đời có tạo cho Hà nhiều cung bật cảm xúc nhưng cô là người sống với lý trí nhiều hơn. Do đó suy tới nghĩ lui nhiều đêm trằn trọc cô quyết định nếu không thành vợ thành chồng với anh Phúc, Hà nguyện sống độc thân trọn đời để cùng mẹ lo cho gia đình.

Tình yêu mới nẩy mầm như cây non hé nụ, không thể phát triển thêm vì bị tình cảm và bổn phận đối với gia đình đè nặng như cây lớn đè cây bé. Hôm nói cho anh biết mẹ không chấp nhận việc hai người thành thân, Hà gục đầu vào vai anh nức nở: "Nếu không thành vợ anh thì em sẽ ở góa trọn đời. Em quyết định rồi, em ở vậy lo cho mẹ và các em, em hứa sẽ cùng anh lo cho bé Khoai Mì đến lớn nếu anh không bước thêm bước nữa." 

Từ sau đêm ấy, Hà rũ rượi như con chim bị thương. Mỗi lần ôm Khoai Mì vào lòng, trái tim Hà thắt từng cơn, thầm nhủ "Chờ thời gian sẽ năn nỉ mẹ thêm." Anh Phúc cũng lảng tránh không dám gặp Hà thường, nỗi buồn và sự cơ cực khiến anh già trước tuổi.

Bé Khoai Mì càng lớn càng giống mẹ như đúc, gương mặt trắng hồng giữa nắng trưa hè đôi má như hai qủa lựu rám nắng, cặp mắt to, đen bóng tợ hai hạt nhản lúc nào cũng sáng rực lung linh như hai vì sao đang nhấp nháy. Mỗi khi nghe gọi đến tên, bé cười nhoẻn đôi môi đỏ mộng trên chiếc miệng nhỏ xíu trông xinh xắn vô cùng, Hà và mọi người vẫn thương yêu lo lắng cho bé.

Đầu xuân 1980, anh Phúc xin phép đưa bé về Sàigòn để thăm bà nội của anh. Đêm ấy, sau khi Khoai Mì ngủ, Hà phụ sắp soạn quần áo của bé để anh mang theo, Hà nhìn anh qua ánh đèn dầu leo lét:

"Anh định đi mấy ngày để em biết mà soạn đồ cho Khoai Mì?"

Anh kéo Hà ngồi xuống bên cạnh, nâng cằm người yêu lên nhìn sâu vào đáy mắt luôn u buồn của Hà, nén xúc động anh thì thầm vừa đủ Hà nghe:

"Hà nè, anh ra đi lần này không biết bao giờ trở lại. Bà nội gom góp được số vàng cho anh và chú Út đi vượt biên, mang cả bé Khoai Mì theo. Xin lỗi em, anh phải ra đi chưa biết thế nào, sống chết ra sao, anh xin tạ lỗi vì đã không thể mang em theo được cho đến tận cùng trời cuối đất như lòng hằng ao ước. Nếu anh còn sống, quả đất còn tròn và mình còn có cơ duyên gặp lại nhau mà em vẫn độc thân anh sẽ xin lấy em làm vợ." Anh nói một lèo như thể sợ bị ai ngăn lại, Hà chới với như vừa bị tung lên khoảng không.

Chóang váng, mụ mẫm, ánh mắt đã buồn càng thêm u uất nhìn chằm chằm anh khiến anh phải quay đi lãng tránh, ôi ánh mắt này có lẽ sẽ theo anh suốt đời.

Hà cắn chặt môi, cố nén nỗi đau vào lồng ngực. Giọng anh như gió thoảng bên tai, đứt quãng "Anh xin lỗi,.. cho anh xin lỗi em ngàn lần... Anh thề yêu em đến trọn kiếp này. Hãy quên anh đi em, rồi thời gian…" Anh định nói thời gian sẽ là liều thuốc mầu nhiệm giúp em quên anh, nhưng Hà đã vuột khỏi tay anh bỏ chạy về nhà.

Vậy đó, tình yêu của Hà và anh Phúc chấm dứt kể từ đêm chia tay ấy. Thế rồi, một tháng, hai tháng… một năm trôi qua không có tin tức gì cha con Khoai Mì. Để chạy trốn kỷ niệm Hà xin nghỉ dạy, chuyển qua công việc thuyết minh phim cho đội chiếu phim tỉnh đoàn và về ở với gia đình. 

Vì nhớ bé Khoai Mì và vẫn không có ý định lập gia đình nên Hà đã quyết định mang về một bé gái bị bỏ rơi giữa chợ để nuôi làm con. Hà nghĩ rằng sẽ không bao giờ có người đàn ông nào khiến tim Hà rung động như anh Phúc. Ban đêm Hà đi thuyết minh phim, ban ngày mua bán những mặt hàng nhu yếu phẩm kiếm thêm thu nhập. Khi con gái nuôi được năm tuổi Hà gặp Hợp, rồi những buổi hẹn hò, những lần họp bạn bình thơ, những chuyến công tác thuỷ lợi chung làm sâu đậm thêm tình cảm giữa hai người.

Thấy Hợp có nhiều đức tính giống anh Phúc trái tim Hà lại rung động bởi sợi tơ tình được nối lại với nhịp yêu. Hà kết hôn với Hợp mang theo con gái nuôi về Sàigòn sống với gia đình chồng cho đến khi sinh được con trai mười tháng thì cả gia đình chồng đậu phỏng vấn đi Mỹ theo diện H.O. Hợp cũng có tên trong danh sách xin đi Mỹ trước khi gặp Hà bảy năm.

Ngày chia tay chồng, Hà quay vào phòng ngồi bó gối nhìn con, đắng lòng nhớ lại lần chia tay với anh Phúc, tuy có khác nhau nhiều nhưng vẫn là hai chữ "chia tay." Với Phúc là chia tay một mối tình vô vọng, không mong gì có dịp đoàn tụ với nhau. Với chồng là sự chia tay trong hy vọng đoàn tụ nơi một xứ sở mới tốt đẹp hơn; lần chia tay này Hà đã là gái một con trông mòn con mắt với nhiều cám dỗ cho cả hai.

Thời gian qua nhanh, rồi cũng đến ngày Hà được chồng bảo lãnh qua Mỹ với hai con. Gia đình hạnh phúc, con cái thành nhân, con gái đi dạy học, con trai đang học trường Y, vợ chồng Hà vẫn còn đi làm. Bây giờ không ngờ gặp lại anh Phúc và bé Khoai Mì nơi đây. Tại sao anh phải ngồi xe lăn? Anh bị tai biến chăng? Bao lâu rồi? Lâu nay anh vẫn sống độc thân?

Cố nhắm mắt nhưng cái đầu lì lợm vẫn mở, Hà nhìn lên đồng hồ, đã ba giờ sáng. Hà cố dỗ giấc ngủ với dự định ngày mai sẽ làm ổ bánh khoai mì nướng (món bánh anh Phúc thích nhất) mang sang tặng nhà "hàng xóm."


*

Tám giờ sáng, Hà ra sân tưới cây chị cố ý đưa mắt sang nhà đối diện vì Hà muốn biết chính xác có phải là cha con bé Khoai Mì không? Cửa vẫn đóng im ỉm, chắc họ còn ngủ nhưng không thấy xe đậu ngoài sân, có lẽ cô ấy đậu trong gara. Hà thất vọng vào nhà chuẩn bị cơm trưa và làm bánh như đã định.

Từ cửa sổ nhà bếp Hà nhìn qua nhà đối diện rất rõ, chị vừa nấu nướng vừa để ý chờ bên kia mở cửa. Khoảng chín giờ ba mươi, họ về đến, à, họ đi chợ sớm Hà hồi hộp bước ra sân vườn đứng bên cây ổi sum suê vờ tìm ổi nhưng thực ra ánh mắt lọt qua khe lá chăm chú quan sát những người từ xe xuống. 

Kia rồi, người phụ nữ rời tay lái xuống mở cốp xe lấy chiếc xe lăn đẩy lại phía cửa bên kia, đỡ người đàn ông ngồi vào xe. Hà đưa tay chặn ngực, tim đập thình thịch. Đúng là anh Phúc và Khoai Mì rồi, cô ấy đẹp và giống mẹ quá, giống từ gương mặt đến vóc dáng, cả tướng đi cũng giống. Anh Phúc trông dày dạn hơn nhưng không thể nào Hà nhầm lẫn cái gương mặt chữ điền với hàm râu quai nón ấy. Hà ngồi bệt xuống khoảng đất có bụi hồng nhung um tùm mắt dõi theo cha con họ trong hồi hộp và xúc động. Hà quệt vội hai giọt lệ nóng vừa lăn dài. Khoai Mì tiếp tục đỡ con gái xuống xe, cháu khoảng ba, bốn tuổi giống y Khoai Mì lúc còn nhỏ. Bé chạy đến đòi đẩy xe cho ông, hạnh phúc hiện rõ trên gương mặt của cha con ông cháu họ.

Hà đứng lên môi hé một nét cười mãn nguyện chị lẩm bẩm: "Thật quả đất vẫn tròn," chị đi vội vào nhà để chuẩn bị nướng ổ bánh khoai mì. Vừa làm bếp chị vừa nghĩ đến thái độ anh Phúc không biết sẽ ra sao với cuộc hội ngộ bất ngờ này, cả chồng chị nữa? Biết tính chồng nhân hậu và rất cảm thông nên Hà mới dám dành cho anh sự ngạc nhiên này. Chị tủm tỉm một mình "Hợp ơi, anh luôn là người chồng tốt và là người yêu tuyệt vời của em, anh Phúc chỉ là người của dĩ vãng mà thôi, em biết anh hiểu lòng vợ anh mà."

Hà ngồi trước gương nhìn kỹ từng nét trên mặt, kẻ lợt lằn chì đen lên mi mắt trông có vẻ buồn hơn, Hà nhớ anh Phúc thường bảo "Đôi mắt em buồn thiu à"; dặm tí phấn hồng, phớt nhẹ lớp son chị săm soi từng nét thắc mắc "Không biết anh Phúc có nhận ra mình không?" Thảo nào Phan Khôi đã viết "…tình cờ đất khách gặp nhau, Đôi mái đầu đều bạc. Nếu không quen lung đố nhìn ra được, con mắt còn có đuôi." Chị cố che lấp mấy dấu chân chim nơi đuôi mắt bằng chút phấn hoá trang.

Mười một giờ trưa, đoán chừng gia đình hàng xóm chuẩn bị bữa ăn đã xong vợ chồng Hà sắp xếp qua thăm trước giờ ăn "Để kịp tặng ổ bánh cho họ ăn tráng miệng," Hà nói. Chị hồi hộp tay xách ổ bánh thơm lừng tay ôm con búp bê còn trong hộp, ông xã nhấn chuông. Thiếu phụ ra mở cửa vừa thấy vợ chồng Hà cô vui vẻ mời vô phòng khách, cô xin lỗi vì mới về chưa ổn định nên chưa qua chào gia đình Hà được. Lát sau cô đẩy xe lăn cho bố ra chào khách, anh Phúc vui vẻ bắt tay Hợp, hai người tự giới thiệu với nhau.

Nãy giờ Hà cố ý kéo dài thời gian mở quà cho cháu gái và quay lưng về phía anh Phúc để nén xúc động. Khi chị quay lại chào anh mặt đối mặt, anh sửng sốt ấp úng:

"Xin lỗi…là Hà phải không?"

"Dạ là em đây," giọng chị lạc đi "Thật không ngờ gặp lại bố con anh ở nơi này, em cứ ngỡ là mơ."

Niềm vui vỡ oà, sóng mũi cay cay hai hàng nước mắt ứa ra Hà quay sang chồng: 

"Anh Đây là anh Phúc và con gái là Khoai Mì mà em đã thường kể cho anh nghe, anh nhớ không?"

Chồng Hà cũng bất ngờ như anh Phúc. Hai người đàn ông nhìn nhau thoáng một nốt lặng, mỗi người một suy nghĩ. Không biết họ nghĩ gì nhưng chắc chắn là họ tìm cách tránh sự khó xử cho cả hai, chắc chắn họ không muốn Hà buồn. Khoai Mì đặt vội khai nước lên bàn sà xuống cạnh Hà, ôm vai chị lắc lắc gìọng gấp rút, vui mừng, phá tan bầu không khí ngỡ ngàng của mọi người:

"Vậy cô là cô Hà mà khi con còn bé cô đã nuôi con thay mẹ đây sao? Ôi, không ngờ con được gặp cô ở đây, cô đẹp quá, ba con nhắc cô hoài và kể cho con nghe về thời khốn khổ đó. Ngoài cô còn hai cô và bà Sáu cùng nuôi con nữa đúng không cô?"

Vừa lau nuớc mắt vừa vuốt tóc Khoai Mì, Hà chỉ biết gật đầu chứ không thốt thành lời. Anh Phúc hít một hơi dài rồi thở ra nhè nhẹ, hết nhìn chồng Hà rồi đến hai người phụ nữ lắc đầu:

"Thôi, hai người đừng làm cho ông trời đổ mưa nghen. Đàn ông chúng tôi sợ nước mắt lắm đó, phải không anh?"

Anh Phúc khéo léo kéo chồng Hà vào cuộc, thế là câu chuyện tự nhiên hơn sau phút giây ngỡ ngàng của cuộc gặp gỡ bất ngờ này.  Nhờ vậy, câu chuyện dần tự nhiên, thoải mái.

Một bữa cơm trưa thân mật được góp với món cá kho tiêu và canh mùng tơi nấu tôm tươi của Hà mang qua. Hai người đàn ông vừa trò chuyện vừa nhâm nhi vài chai bia, Hà và Khoai Mì cũng cụng ly rượu đỏ mừng ngày hội ngộ.

Anh Phúc cho biết lần đi vượt biên đó trời thương nên một tuần họ đến đảo, sáu tháng sau bác của anh Phúc ở Úc bảo lãnh ba người qua đoàn tụ. Tại Úc anh đã một thân nuôi Khoai Mì với đồng tiền trợ cấp của chính phủ. Đến khi cháu đủ tuổi đi học thì anh cũng đi làm và vẫn sống cảnh gà trống nuôi con; anh thường kể cho con nghe cuộc sống khốn khổ ở Việt nam và lý do mẹ mất.

Anh thường nhắc đến những ân nhân đã giúp anh nuôi cháu và mối tình không thành của anh với cô Hà. Anh làm phụ bếp cho nhà hàng ban ngày, buổi tối ở nhà với con để nhắc nhở và giúp con học hành, hai bố con anh là nguồn khích lệ lẫn nhau. Anh Phúc chọn tên Mỹ cho Khoai Mì là Kiera vì mái tóc đen nhánh giống mái tóc của mẹ. Nhưng ở nhà anh vẫn gọi là Khoai Mì. Khoai Mì là học sinh giỏi mỗi năm, cô tốt nghiệp ngành nha khoa theo mong ước của bố. Chồng cô là bác sĩ ở Mỹ qua Úc thực tập để bảo vệ luận án tiến sĩ, trong thời gian đó họ gặp nhau. 

Theo chồng về Mỹ sống ở Ohio là một tiểu bang khá lạnh, khi con gái được hai tuổi thì chồng Hà vĩnh biệt vợ đẹp con thơ trong một tai nạn giao thông. Hôm ấy anh con rể chở cha vợ đi từ Michigan về Ohio, tuyết rơi dầy đặc hạt tuyết to như những mảng bông của trái gòn từ trên cây rơi xuống trắng cả bầu trời và ngập cả đường, Đến một cua quẹo gắt anh đã giảm tốc độ nhưng vì không nhìn thấy rõ lằn ranh anh không định vị được nên tay lái trượt qua len đường bên kia. Xe ngược chiều cũng không thắng kịp và tay lái bị trượt theo tuyết, tai nạn xảy ra cả hai tài xế đều tử vong. Anh Phúc bị chấn thương hai chân bất tỉnh, sau tai nạn hai chân anh liệt hẳn không còn cử động được nữa từ đó anh Phúc phải di chuyển trên xe lăn.

Anh lắc đầu hướng ánh mắt thương cảm về con và cháu: "Số phận nghiệt ngã cứ đuổi theo Khoai Mì, thật tội cho nó, mới chừng ấy tuổi đầu đã hai lần chịu tang; mới hai tháng đã mang tang mẹ, hơn nửa đời người lại đội tang chồng. Nếu không có nghị lực chắc cháu đã ngã qụy chứ không đứng nổi đến ngày nay để lo cho bố, cho con"

Hà cố nuốt nhưng cổ họng nghẹn lại không trôi được miếng cơm. Anh Phúc cho biết quyết định chuyển về Cali sống là theo ý của Khoai Mì, cô bảo Nam Cali thời tiết ôn hoà hai chân bố sẽ không đau nhức thường xuyên như ở xứ lạnh. Năm trước cô nộp đơn xin việc ở các trung tâm nha khoa đến năm nay mới có chỗ chấp nhận. Xin được việc làm ở quận Cam, Khoai Mì bèn tìm mua nhà và quyết định di chuyển ngay. Không ngờ thượng đế nhân từ còn cho anh và Khoai Mì có được niềm vui là tìm được căn nhà vừa ý mà lại được gặp Hà sau mấy mươi năm bặt vô âm tín.

Anh nhìn Hợp ánh mắt xa xăm giọng bức xúc: "Cũng may là đi được đến bến bờ tự do chứ nếu còn kẹt lại ở Việt Nam ngày nay không biết bố con tôi ra sao? Có thể cháu Khoai Mì đang mua gánh bán bưng hay bán vé số dạo hoặc đi làm mướn làm thuê..."

Hợp đồng tình:

"Anh nói đúng lắm, biết bao nhiêu đứa trẻ chứ không riêng gì cháu khi qua được đất nước tự do trở thành nhân tài. Nếu các cháu ở lại Việt nam chắc chắn không được đi học tới nơi tới chốn thì nói gì đến chuyện phát triển tài năng cho được."

Anh Phúc mời mọi người nâng ly chúc mừng cho buổi hội ngộ như huyền thoại này:

"Biết Hà có mái ấm gia đình, có người chồng tốt và con cái đều thành nhân lòng tôi vô cùng ấm áp và mừng vui. Từ nay tâm hồn tôi sẽ nhẹ nhàng và không còn tiếc nuối gì nữa. Ít nhiều gì Hà cũng là ân nhân của bố con tôi nên xin phép anh Hợp cho Khoai Mì được cơ hội đền ơn đáp nghiã mẹ nuôi của cháu."

Ông xã Hà mở lời: 

"Từ nay sống cạnh nhau đây, anh cho phép chúng tôi xem gia đình anh như người nhà, anh lớn tuổi hơn nên làm anh của chúng tôi, còn cháu (anh quay sang Khoai Mì) hãy xem cô chú như ba mẹ cháu vậy, cháu cứ gọi cô Hà là mẹ nếu thích còn chú là ba, vì suýt chút nữa cô Hà cũng đã là mẹ cháu rồi, đúng không?"

Hợp cười giòn sau câu hỏi khiến mọi người bật cười theo. Khoai Mì nhìn bố dò ý, anh Phúc khoát tay với con:

"Còn không cám ơn ba mẹ đi, từ nay có thêm người thương yêu con lo cho cháu ngoại và con gái bố là bố mừng rồi đấy."

Hà mở vòng tay, Khoai Mì nhào vào hôn chị chùn chụt giọng nhẹ như gió thoảng: "Từ nay con có mẹ rồi. Mẹ ơi..."

Tiếng gọi thiêng liêng ấy khiến mọi người đều xúc động. Hà đi cắt ổ bánh khoai mì bưng đến bàn, anh Phúc chớp chớp mắt cảm động vì không ngờ Hà còn nhớ đến món bánh thuở cơ cực ấy, anh nhìn sang Khoai Mì, nhìn Hà rồi lại nhìn ổ bánh, cả ba như nhập nhoè trong mắt anh. Bưng điã bánh mời Hợp, Khoai Mì vòng tay như trẻ con:

"Dạ, con xin cám ơn ba Hợp cho con được làm con của ba mẹ. Xin mời ba dùng bánh." Cô cũng mời anh Phúc và Hà cùng thưởng thức món bánh nướng mang tên cô do tay mẹ Hà làm. Hà vuốt tóc Khoai Mì, lòng bồi hồi, lặng yên để lắng nghe con tim đang thổn thức với niềm hạnh phúc bất ngờ vừa đến, chị vấn lòng: "Tôi đang mơ hay tỉnh đây?"

Garden Grove, 3/ 25/2016
Nguyễn Thị Hữu Duyên

Ghi chú: (*) Trích trong bài thơ "Nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm. 


Nguồn: email