Thursday, September 26, 2019


Nhớ Bạn Cũ 

Phạm Minh Xuân 

Nhớ Bạn Cũ – Phạm Minh Xuân
Tôi là chứng nhân của những chuyện xẩy ra ở Phi Đoàn 530 thời 1971-1974.
Trong Phi Đoàn 530 trước khi có Thiếu Úy Vĩnh Thuận về (1973) thì chỉ có Lê Văn Độ và tôi là dân Huế chính cống bị thuyên chuyển lên Pleiku cùng một lúc. Trong Phi Đoàn thường hay trêu chọc hai thằng tôi là dân ‘Huệ’ mà bày đặt đi Không Quân và bay ‘Khù-Trục'(?) không trách gì bị tống cổ lên ‘Plề-Cu’ vì thiếu ‘piston’.
Hồi đó trong 3 phi đoàn khu trục còn lại của KQVNCH 514, 518, và 530 hầu hết là người Nam và Bắc. Hai phe nầy kèn cựa và chơi nhau hằng ngày. Chỉ có mấy thằng Huế thủ phận con rơi con rớt, làm… thinh và suốt ngày làm… tầm bậy cho đỡ buồn!  
Bên cạnh người bạn nối khố trong quân trường của Lê Văn Độ là Nguyễn Văn Trường ra, tôi cũng là một thằng bạn Huế gốc 7/68 chí thân của Lê Văn Độ trong cuộc đời bay bổng. Độ đã gắn liền với tôi từ khi ở trong trường bay cho đến khi Độ được hạ huyệt.
Độ cùng đi Mỹ và được sắp xếp vào cùng ‘K’ Flight với tôi ở trường bay Keesler AFB (MS.). Ra trường Độ có điểm ‘academic’ và tôi có điểm ‘flying’ cao của ‘K’ Flight vì vậy hai thằng là hai candidates duy nhất của ‘K’ Flight… bị chọn đi Skyraider, vì hồi 1969-1970 US-Navy bắt đầu chính thức chuyển giao toàn thể Skyraider cho USAF và USAF phải mở trường tự huấn luyện Skyraider cho USAF ở ngay tại S.O.G Center / Hurburt Field (Eglin AFB, FL.).
Bốn khóa trước bọn tôi (71-01; 71-02; 71-03; 71-04 – See attached pictures) Pilot bị ra cỏ và đập máy bay khá nhiều cho nên trước ngày Class 71-05 bọn tôi mãn khóa, Col. Yeally và Staff của ông ta đích thân bay qua Keesler AFB cho đám T-28 Instructor Pilots biết là Trường Huấn Luyện A-1 không muốn nhận graduated-pilot ‘yếu’ nữa!  
Trong dịp nầy, để khuyến khích và động viên tinh thần, đám nầy cho tôi và Độ leo lên ‘tham quan’ hai chiếc AD-5 đồ sộ, dơ bẩn và ‘ugly SOB’ bám đầy dầu mỡ mà họ đã dùng để bay qua Keesler. Không ngờ họ đã làm tôi và Độ quá ‘khủng’ và muốn đái trong quần luôn! Lòng buồn rười rượi vì cái dơ dáy và uy hiếp tinh thần của chiếc A-1. Không biết với trình độ hơi non tay lái, mới ra trường của mình, rồi có thể chế ngự được con ‘trâu điên’ nầy chăng?! (USAF called it ‘A DUMP TRUCK’) 
 Về Pleiku tôi còn được ‘adopted’ bởi các tay đàn anh cô hồn các đảng: Phạm Văn Thặng ‘Fulro’, T.K.Long ‘Lăng Quăng’, Phúc ‘Gandhi’, Phùng ‘Django’ v.v… để tiếp tục quậy và say sưa vô kỷ luật. Còn Độ thì rất hiền từ và chừng mực. Độ cực kỳ chăm chỉ trong việc bay bổng. Trời xấu là thầy mang DASH-1 ra thầy đọc để toan tính học thuộc lòng luôn cả Emergency Procedure section. Tuy khác lối sống nhưng hai thằng tôi rất thương nhau. Có lẽ là vì có chung Huế và 7/68 DNA, và ở chung phòng.
Độ và tôi ‘shared’ chung một phòng ở cư xá của Mỹ để lại cho PĐ-530 trên đồi cao phía Bắc của căn cứ nhìn xuống phi đạo, ATC Tower và Tarmac của 2 Phi Đoàn Trực-Thăng.
Đêm đầu tiên sau khi Độ bị tai nạn người ta đem bộ đồ bay của Độ từ bệnh xá về quăng vào dưới gường của Độ. Mùi khét của da thịt Độ làm tôi không thể nào ngủ được, phải vác mền mùng qua phòng của Tiến Chỉnh ngủ.
Sáng sớm hôm sau, được tin Độ đã qua đời tại Long Bình, Phi Đoàn Trưởng Tr/T Mười ‘Lung’ kêu tôi vào và yêu cầu tôi đem thi hài Độ về Huế để lo một đám tang thật đàng hoàng cho Độ.
Tr/T Mười ‘Lung’ bảo: “Tôi biết ông anh rể của anh là Đ/T Tôn-Thất-Khiên làm tỉnh trưởng Huế. Anh ráng làm đám tang cho anh Độ càng trịnh trọng chừng nào càng tốt chừng đó để gia đình của người anh em Jupiter chúng ta được vui lòng và thỏa nguyện”.
Ông thân sinh của Độ rất thật thà và chất phát giống như Độ. Khi tôi gặp và xin được biết ước nguyện của gia đình thì ông cụ cho biết chỉ muốn lúc hạ huyệt có được một dàn kèn của ban quân nhạc tiểu khu thổi bài Chiêu Hồn Tử Sĩ.
Ngày hạ huyệt 2 GMC với đầy đủ kèn trống của Tiểu Khu đã làm ông cụ và bà con ở Bao-Vinh/Huế hãnh diện và vui lòng.
Kỷ niệm buồn vẫn không bao giờ quên: Những chiều gần Tết thật vắng lặng ở mọi công sở ở Biên Hòa. Tôi theo trực thăng đưa thi hài của Độ về Tử Sĩ Đường Tân Sơn Nhất. Từ Burn-Treatment-Center của Long-Bình Hospital, Trực Thăng dropped tôi xuống Tarmac Khu-Trục A-1 ở Biên Hòa AFB để tôi mượn xe Honda của 1 người bạn Khu-Trục 518 chạy đi ra Tòa Hành Chánh Tỉnh làm giấy khai tử cho Độ trước khi đưa Độ về Huế (vì Độ chết ở Long Bình chứ không phải ở Pleiku).
Phòng sở nào cũng có bàn thờ cúng kiến ngay trước cửa để rước Ông Bà về ăn Tết, chạy tìm người muốn hụt hơi mới xong 1 giấy khai tử có đủ chữ ký cho Độ.
Tối hôm đó tôi ngồi với ông cụ của Độ trong Tử-Sĩ Đường cho tới 9:00 đêm. Thật là rợn người, không chữ nghĩa nào có thể diễn tả được cái khung cảnh ghê rợn nầy và lòng thương con vô bờ bến của một người cha.
Sau khi đem quan tài vào Tử Sĩ Đường, quan tài được kê lên hai ‘con ngựa’ gỗ thô sơ, một bát nhang và hai cây đèn cầy ở hai đầu quan tài. Mọi người đều biến mất chỉ còn lại hai bác con, một ông già đang đau khổ và một thằng pilot Khu Trục, tay dao tay súng, trông oai phong lẫm liệt nhưng nhát gan, thỏ đế, sợ ma còn hơn sợ cọp.
Thú thật hôm đó tôi cũng không biết phải giải quyết sự việc bằng cách nào!? Rồi sau đây mình phải làm gì nữa đây?? (lần đầu tiên trong đời lo cho 1 thằng bạn mới chết, không biết mô tê gì cả!!!!).
Hôm đó quan tài của Độ là chiếc quan tài duy nhất trong căn phòng rộng lớn và ma quái của Tử Sĩ Đường. Sự đơn lẻ càng làm cho không khí lạnh lẽo hơn. Tiếng gió hú qua mái hiên ở đằng sau nhà càng làm cho khung cảnh thêm ghê rợn như những chuyện ma quái mà tôi đã đọc lúc còn nhỏ.  
Hai Bác Con ngồi trong bóng tối của Tử Sĩ Đường. Cuối cùng tôi phải lên tiếng và hỏi: “Thưa Bác, Độ về tới đây là cũng tạm thời xong được một bước trước khi chiều mai máy bay C-123 đưa Độ về Huế. Vậy con xin mời bác về nhà con ở Chợ Lớn ngủ qua đêm rồi ngày mai mình trở lại”.  
Ông Cụ cám ơn và từ chối: “Tui muốn ngồi ở chỗ ni với con tui cho hết đêm ni, để hắn nằm một mình lạnh lẽo không đành. Tui không đi mô cả. Tết ‘dức’ tui hiểu, anh đi về với gia đình đi rồi mai trở vô với tui cũng được”.
Trong những tình huống như thế nầy mới thấy được tình cha thương con. Tôi chạy vội ra ngoài cổng Phi Long mua một ổ bánh mì thịt và một chai xá xị cho ông cụ của Độ trước khi thắp một nén nhang khấn thầm với Độ: “Độ, mầy biết tau ham chơi nhưng tau đã đưa mầy về tới đây rồi, mầy cho tau chạy về thăm nhà một chút trong ba ngày Tết rồi ngày mai tao vô lại với mầy”.
Vái xong ba vái là tôi đi lui, trông ông cụ ngồi một mình bên quan tài con, tôi không thể nào đủ mạnh để cầm lại nước mắt của mình vì kính phục lòng hy sinh và tình cao cả của Cha và Con.
Ngày hôm sau, sau khi giải thích cho ông cụ, tôi cho phép đục 4 lỗ trên quan tài (để release the pressure trong hòm lúc lên cao độ) để đưa Độ về Phú Bài Huế và gác hòm 3 ngày 3 đêm trước khi hạ huyệt.
Có thể nói Độ là người bạn 7/68 mà tôi đã có duyên gắn bó nhất và dành nhiều thì giờ nhất cho nhau trong cuối cuộc đời binh nghiệp. Nhân một lỗi nhỏ trong bài viết của Hà ‘cà chớn’ Trần Ngọc Nguyên Vũ mà tôi lại có dịp ngồi ôn lại một kỷ niệm xưa cùng chia sẻ với anh em. Cũng là một cái duyên để nhớ bạn cũ.
Phạm Minh Xuân      

 
 

Lê Văn Độ (người đứng bìa phải) và bạn bè 


Lê Văn Độ (người đứng bìa trái) và bạn bè 


Máy bay của Độ bị tai nạn ở phi trường Cù Hanh, Pleiku.



Wednesday, September 25, 2019

Bà Goá 


Bà Hàn rất hãnh diện là trong đời, không một người đàn ông nào sờ được vào thân thể bà, dù chỉ là một lọn tóc.
Hồi mười lăm tuổi – cái tuổi hãy còn vô tư – bà đã được hứa hôn với con trai cả cụ Kim, bậc danh giá trong làng. Trước lễ cưới ít lâu, người con trai té cây chết. Cụ Hàn bố, cứ nhắc nhở là «trung thần bất sự nhị quân», tôi trung không thờ hai chúa, cho nên «tiết phụ bất tòng nhị phu», gái tiết không thờ hai chồng : kết luận, cụ ra lệnh con để tang chồng ba năm tròn. Mãn tang, cụ gửi con về nhà chồng dĩ nhiên chẳng còn chồng nữa. Cô gái lớn lên và già ở đó, goá bụa và trinh trắng, đầy phẩm hạnh, mòn nhẵn với thời gian như viên sỏi bị nước mài dũa, cho đến năm vào tuổi bảy mươi.
Từ khi nào chỉ có trời mới biết, bà Hàn coi đàn ông là đồ vật bẩn thỉu. Bây giờ cũng vậy, tuy đã thất tuần, bà rất nhạy cảm trước mùi đàn ông và bày tỏ vẻ ghê tởm bằng cách nhíu mày. Ai mà có mùi mồ hôi thì được bà mời tránh xa, khỏi phải màu mè.
Bà cũng không thích trẻ con, có lẽ tại thói quen lâu ngày của cuộc đời đơn độc. Từ lâu, bà con trong họ đã vận động thu xếp để bà nuôi một trong những đứa cháu, nhưng bà không nhận.
Trẻ nhỏ – tụi nó đánh hơi thần kỳ – cũng không ưa gì «bà cô» thiếu ngọt ngào này. Một hôm, mấy đứa cháu gái đòi bà kể chuyện…
– Ngày xưa, có nhiều chuyện ghê gớm xảy ra…
– Chuyện gì vậy bà?
– Ban đêm, họ bắt cóc mấy bà góa.
– Thiệt hả bà? Mà ai bắt cóc họ vậy?
– Mấy tụi lưu manh…
– Mà tại sao chớ?
– Ðể hiếp họ. 
– «Hiếp» là gì bà?
– À cái đó, tụi con không cần biết, tụi con… Ban đêm bà rất sợ, bà run…
– Bà? Mà tại sao lại là bà?
– Bởi vì họ ưa bắt cóc những cô xinh xắn.
– Nhưng bà là bà cô già mà?
– Thời đó bà rất xinh. Bà phải bôi lọ lên cho thành xấu xí đi.
– Thiệt hả bà?
Bà lại kể cùng câu chuyện này cho các cháu gái trong dịp khác. Mới đầu thì chúng còn hỏi tới hỏi lui vì tò mò. Nhưng rồi cứ nghe hoài một chuyện, thét chúng nản, cảm thấy bị bà dùng làm thính giả bất đắc dĩ, chán ngắt, nên tìm cách tránh.
Bà Hàn than phiền là tụi con gái thời nay đứa nào cũng xảo trá vô dụng, rồi rút về phòng nằm dài. Phòng bà luôn luôn ngăn nắp. Bà thường trực tự lau chùi dẫu tìm ra người làm không khó khăn gì. Vì sống một mình, bà bị ám ảnh về mục vệ sinh ngăn nắp, cho chính bà và người chung quanh.
Toàn thị tộc họ Hàn kính trọng bà, niềm kính trọng lớn theo đối với những người có tuổi. Bà là người lớn tuổi nhất trong họ, lại nữa bà là con cháu của chi phái cả họ Hàn.
Tuy đã già nhưng tuổi tác không đánh dấu mấy trên mặt bà. Tầm vóc bề thế của bà làm người ta không chú ý mấy đến lời bà phàn nàn. Thời son trẻ chắc bà không có cái đẹp tế nhị và mong manh. Và thường như ở những người đàn bà không hề sinh nở, lưng bà không còng, mắt không xếp nếp, mũi và tai vẫn giữ được vẻ thanh tú. Vết nhăn trên mặt không sâu lắm và gân bàn tay hãy còn mềm mại.
Khi buồn chán, bà thường đi thăm cô em dâu họ xa ở làng dưới.
Cô «em dâu» này, bà Phúc, cũng goá nhưng không còn trinh. Hồi mười bảy tuổi bà đã có chồng, là em bà con của bà Hàn. Người chồng mới mười hai tuổi. Hai năm sau, ông chết vì bệnh dịch.
Người đàn bà goá sống với bố mẹ chồng trong gần hai mươi năm trời. Khi ông bố chồng trút hơi thở cuối cùng, bà cất một túp nhà tranh ở làng dưới để canh tác đất đai. Mặc dù trẻ hơn bà Hàn bốn năm tuổi, nhưng trông bà Phúc lại già hơn chị họ. Nếp nhăn hằn sâu trên khuôn mặt da màu đồng và tay gân guốc như đàn ông. 
Khi bà Hàn ở nhà bà Phúc và bà này muốn cắt trái bí, bà Hàn cầm phụ một tay. Hay khi bà Phúc ngồi vào xa bắt đầu kéo sợï, bà Hàn giúp quấn chỉ vào trục. Và nếu bà Phúc mỏi muốn nằm nghỉ thì bà chị họ cũng nằm bên cạnh chốc lát. Bà Hàn chẳng bao giờ quên tự hỏi tại sao cô em dâu họ mặc dầu chỉ có một thân một mình, chẳng phải lo cho ai, lại có thể để căn phòng bừa bộn đến thế.
Một hôm bà Hàn ghé thăm bà Phúc, nằm lại chơi một lát, và dầu trời không lạnh, bà cũng bị cảm. Gia đình cho người đi hốt thuốc Tàu ở ông lang cách đấy hai cây số.
Khi một trong những người cháu vào phòng bà với ấm thuốc trên tay, bà nói bất ngờ :
– Khi thím chết, mày chôn thím trên núi của tổ tiên nhé !
– Sao thím nói gở vậy ? Uống hết thuốc này là thím khoẻ liền mà.
Anh ta trả lời mà trong đầu thì nghĩ đúng rồi, một người già cỡ đó thì cũng như cái đèn sẽ tắt khi hết dầu thôi. Vậy thì tốt hơn hết là nhân cơ hội thuận tiện này phải hỏi ý kiến bà để giải quyết vấn đề cho xong :
– Khi thím mất, nếu mai táng thím cùng trong mộ chú con, thím nghĩ sao ? Ai cũng cho là vị trí mộ phần chú rất lý tưởng.
Bà Hàn tức thì chĩa cho thằng cháu cái nhìn nẩy lửa :
– Không bao giờ ! Tao biết đó là chồng tao, nhưng tao không muốn nằm cạnh ông ấy. Tại sao chết rồi tao lại đi gần một thằng đàn ông trong khi tao sống trinh tiết trong gần bảy chục năm trời ? Xương cốt ổng hẳn đã mục rữa rồi, không còn dấu vết gì. Trời đất, mộ của một thằng đàn ông ! Khiếp quá ! Tao không bao giờ muốn nghe nói chuyện đó nữa, mày hiểu chưa ?
Mặt bà đỏ rực lên như mặt con gái, không chỉ vì cơn sốt. Rồi bất chợt giật nẩy mình, bà la lên :
– Cút khỏi đây ngay ! Mày có cái gì hôi rình vậy ? Tụi đàn ông bây giống nhau quá, đứa nào cũng thối ! À cái mùi này ! Thật chịu không nổi !…
Tay bà làm dấu đuổi anh ta ra, mũi bà nhăn lại. Và không đợi gì thêm, bà quay lưng.
Sau ba ngày, bà Hàn có thể rời khỏi giường bệnh.
Hôm đó là một ngày xuân êm ả. Bà đi thăm cô em dâu. Bà ăn bận ấm áp, khoác áo choàng. Ðây là lần ra ngoài đầu tiên từ khi bị cảm.
Ðốt lửa trong bếp và quét nền đất xong, bà Phúc đặt bà Hàn nằm chỗ ấm nhất trong phòng. 
– Dạo sau này hình như chị bị bệnh hả ?
– Ừ, bệnh ba ngày. Liền sau lần cuối ghé đây.
– Thường thì chị mạnh khỏe mà…
– À không, cũng chẳng còn bao lâu nữa đâu.
– Ðể chị coi, chị còn thọ hơn em.
– Mà sống lâu như vậy làm chi ? Từ đây tới đó còn vui thú gì nữa ? Nếu chết thì tôi cũng không có gì tiếc rẻ cả…
– Dầu sao, cả đời chị chẳng bao giờ có gì lo âu đau buồn cả.
– Ðúng vậy, cả đời tôi không biết xấu hổ là gì.
Bà Phúc tiếp tục xe sợi :
– Một bà goá, mất chồng khi còn trẻ mà sống như chị quả là ngoại lệ.
Bà Phúc ngừng tay chốc lát, vẻ mơ màng.
– Nhưng chị biết không, có một trường hợp khác xa của chị.
Bà vừa nói vừa hướng mắt về phía bà Hàn.
Ðất dưới gối vừa được quét sạch. Vậy mà bà Hàn khám phá ra có ít bụi, bà thổi đi, có vẻ phật ý. Cái nhìn của bà lướt từ những trái bầu trái bí chất đống trong góc tới đống giẻ rách rải rác trên chỗ đất ít được sưởi ấm. Làm sao nó có thể để căn phòng trong tình trạng như vầy khi mà nó chỉ một mình ?
Bà Phúc ngần ngừ như thể kể câu chuyện này là không phải, nhưng rồi cũng thốt ra :
Trong đời này, có một bà goá khác… Bà đã kết hôn với một cậu con trai, thực tế chỉ là một thằng bé con. Cậu chồng bé con của cô còn đi học, học chữ Tàu cổ. Cậu viết chữ rất đẹp. Cô ta thích chữ viết của chồng hơn là chính anh chồng. Ðối với cô, niềm vui duy nhất của cuộc hôn nhân là cất giữ cẩn thận những chữ viết của chồng.
Mùa hè sau ngày cưới hai năm, cơn dịch thương hàn làm chết nhiều người ở các làng trong vùng. Người chồng cũng không thoát khỏi. Cậu ta chết sau mười ngày bị sốt. Người vợ cố hết sức để cứu chồng : ngay cả chặt một ngón tay cho chồng uống máu tươi theo lời khuyên của các cụ. Nhưng mọi cố gắng đều vô ích. Cô mang tang chồng trong ba năm. Thỉnh thoảng đem những chữ chồng viết ra vừa lặng lẽ ngắm nghía vừa chua xót nghĩ tới thân phận mình.
Bố mẹ chồng cô là điền chủ khá giàu. Ðể giúp họ, cô làm lụng cực nhọc, ở nhà cũng như ngoài đồng. 
Một năm trời đại hạn, mọi người trong gia đình đều phải góp hết sức mình để ngày đêm tưới nước cho đám ruộng gần con suối cạnh làng.
Một bữa khuya, người goá phụ trẻ chợt thức giấc. Cô nghe có tiếng động, hình như có người mở cửa phòng. Cô nằm bất động, câm lặng trong bóng tối. Cô cảm nhận rất gần hơi thở khan khản đàn ông. Cô thử ngồi lên : một sức mạnh đè lên ngực cô, sức nặng của hai bàn tay trai tráng. Cô muốn la lên nhưng có cái gì làm cô ngừng ngay lại : đó là mùi nước bùn, đến từ thân thể một người vừa tắm sông. Người goá phụ trẻ cảm thấy không còn sức lực.
Không nghi ngờ gì nữa, đích thị là anh ta rồi ! Từ mùa xuân, nông trại bố mẹ chồng có thêm hai cánh tay giúp sức của một người bà con xa. Mồ côi từ nhỏ, anh ta đi đó đây khắp các vùng xa xôi rồi trở về cố quận. Dù sao nông trại cũng cần người, cậu em trai chồng không thể kham nổi mọi việc một mình. Vậy là họ thuê anh.
Anh có dáng dấp dong dỏng cao, mũi rõ nét. Tánh tình trầm mặc ít lời, không bao giờ dính vào những cuộc trò chuyện tầm phào. Người ta nói anh đã từng làm tá điền ở nông trại nào đó trong một thời gian, nhưng vì không hạp với chủ, anh đã bỏ ông ta giữa ruộng trong một ngày đẹp trời rồi ra đi không thèm nhận tiền, dù là lương của rất nhiều năm.
Thỉnh thoảng cô và anh tình cờ gặp nhau, ví dụ trong sân, cái nhìn của người goá phụ trẻ bắt gặp cái nhìn của người đàn ông. Một cái nhìn rắn rỏi như chưa bao giờ cô có thể nhìn thấy trong mắt cậu chồng quá cố. Con tim goá phụ rộn ràng và mặt cô nóng bừng.
Mấy hôm nay người đàn ông rất bận bịu, cùng làm với ông bố chồng công việc dẫn thủy. Ðêm đó cũng vậy, anh ta cũng phải lao dịch.
Dưới thân thể của người đàn ông có mùi nước bùn, cô ráng suy nghĩ… Nếu cô chết đi, mọi việc sẽ tự dàn xếp trong chốc lát.
Cô sẽ tự tử, ừ, cô muốn làm thế lắm. Trầm mình, hay treo cổ ? Tốt hơn hết là nuốt chất sút hóa học dùng để rửa chén.
Sáng hôm sau, vào kho chứa đồ, cô dở nắp đậy cái bình vẫn đựng sút ra. Nó trống rỗng. Cô trực nhớ là mẹ chồng đã cho bà hàng xóm mượn hôm qua hôm kia gì đó. Vậy là phải chờ tới lần họp chợ tới.
Ðêm sau, cô khoá phòng mình bên trong. Dĩ nhiên là giấc ngủ không đến. Cô cố vểnh tai nghe từng tiếng động, không đừng được. Và cô giật thót người khi những con chim đêm tới đậu trên mái trước.
Cuối cùng cô giải quyết bằng cách bỏ móc khoá cửa ra. Nếu vạn nhất người ta tới và cửa bị khoá thì tiếng động của cái móc sẽ làm ồn đến tận phòng bố mẹ chồng. Ðiều đó còn nguy hơn nữa ! 
Ngày đông chợ, bà hàng xóm trả lại chất sút đã mượn. Cô nấu hết chăn màn trong nhà và giật mình nhận ra là không biết từ bao giờ, cô cứ mang tâm trạng chờ đêm xuống.
Khi nhựa xuân tràn trề trên các cây liễu gần con suối trước nhà, vòng eo của người goá trẻ tròn trịa trông thấy. Cô siết chặt thắt lưng thêm chút nữa.
Một hôm trong bóng đêm, người đàn ông thì thầm :
– Mình đi khỏi đây đi, đi lập nghiệp chỗ khác. Ở những tỉnh mà hợp tác xã lo việc dẫn thủy, đời sống dễ dãi hơn nhiều. Ở đây khi thì nước nhiều quá, khi lại không đủ.
Cô im lặng, vùi trong bóng tối. Nhưng trong thâm tâm cô đã lấy quyết định rồi. Ðiều gì tốt cho anh ấy cũng sẽ tốt cho cô, và cái xấu cũng vậy.
Họ chọn đêm cuối cùng của tháng, một đêm không trăng. Người đàn ông đi trước và chờ cô ở chân đê, phía ngoài làng. Cô chờ đến tiếng gà gáy lần thứ hai mới rón rén bước ra khỏi phòng.
Cô bước xuống bực đá ngạch cửa. Rồi với những bước chân chó sói, trong sân, cô hướng về phía cổng. Nhưng thình lình cô khựng lại.
Giọng ông bố chồng trầm trầm và nghiêm khắc từ phòng chính vẳng đến tận chỗ cô :
– Bà đừng xía vào. Tôi cũng đã nhận thấy ít lâu nay rồi.
Mẹ chồng đáp lại nhưng cô nghe không rõ. Giọng đàn ông nói tiếp :
– Dù gì đi nữa thì bà cũng im đi ! Nếu không tôi sẽ lấy rìu chẻ vỡ sọ nó ra. Cứ để mặc tôi làm !
Bỗng chốc người goá trẻ cảm thấy lương tâm thức dậy. Cô tự nhủ cô không có quyền bỏ đi tìm hạnh phúc cho riêng mình. Phải chờ tự bố chồng quyết định lấy. Phải không ?
Cô trở về phòng và cảm thấy chưa bao giờ lòng mình thanh thản đến thế. Anh ấy cứ đi đi. Ừ, trong tận cùng thâm tâm, cô hy vọng là chờ lâu quá, người đàn ông sẽ chán nản bỏ đi một mình.
Nhưng người đàn ông quay về trước khi trời sáng. Anh hổn hển hỏi cô chuyện gì đã xảy ra. Anh tưởng là cô bị ông bố chồng giữ lại. Anh đặt xuống hòn đá to mà anh đã chuẩn bị để chống cự với ông, nếu cần. Vừa sung sướng vì anh trở lại, vừa kinh hoàng, cô khóc gập người, cố ghìm tiếng nấc.
Ngày hôm sau, lợi dụng lúc nghỉ tay, ông bố chồng dặn cô là từ nay thôi đừng ra giếng lấy nước nữa. Ông nói với giọng hết sức dịu dàng làm cô càng khiếp. Cô thích nghe cái câu mà cô đã tình cờ nghe được đêm trước hơn.
Ðầu mùa hè, cô khai hoa nở nhụy. May quá vào nửa đêm, chỉ có vầng trăng lưỡi liềm treo trên trời. 
Cô sinh nở không khó khăn gì, trên lớp rơm, và tự mình cắt lấy cuống rốn.
Người đàn ông đi vào. Anh dang tay về phía đứa bé hãy còn dính đầy máu và cựa quậy tứ tung dưới ngọn đèn leo lét. Người goá phụ trẻ bất chợt đưa tay ngăn cản anh. Ðứa bé này, nhất định phải vất nó trong góc núi nào đó hoặc bên bờ suối. Họ đã đồng ý với nhau như thế rồi, mặc dầu chưa bao giờ thốt ra tiếng nào. Nhưng cô muốn giữ đứa bé sống, ít nhất cho tới khi bắt buộc phải bỏ rơi nó.
Người đàn ông bắt đầu bọc nó trong rơm, vẻ khó khăn. Cô bèn nảy ra một ý : cô mở tủ lấy ra một đống giấy – những tờ giấy nháp của cậu chồng quá cố. Cô không tỏ vẻ tiếc rẻ gì, ngược lại còn cảm thấy biết ơn : may sao có giấy này để bọc đứa bé sơ sinh !
Người đàn ông ra khỏi phòng, đứa bé trên tay.
Người goá phụ trẻ nghe tiếng bước chân ở bực cửa nhà. Ông bố chồng ! Trong chớp mắt, cô thấy lưỡi rìu loé sáng. Chính cô phải nhận nhát rìu đó. Vội vàng xô mạnh cửa, cô lao ra đứng chắn giữa ông bố chồng và người đàn ông.
Với vẻ tự tin tuyệt vời, ông bố chồng đưa cho anh cái thư :
– Tới địa chỉ này. Hình như là cháu tao vừa mới sinh mà đứa bé chết. Mày gửi đứa bé cho nó.
Giọng ông trầm tĩnh đáng nể, vậy mà tay cầm lá thư run bần bật dưới trăng.
Một ánh sáng sống động trong mắt người đàn ông. Cầm cái thư không nói lời nào, anh quay lưng bỏ đi.
– Còn mày, vào ngủ đi con.
Lát sau cô nghe tiếng bố chồng tự tay khêu lửa trong lò.
Ðêm đó ếch kêu ồm ộp vang rền trong cánh đồng trước nhà không ngớt.
Một tháng sau ông bố chồng nói với cô là ở dưới đó đứa bé mạnh khỏe, không thiếu sữa.
Vào khoảng đứa bé đầy năm, ông báo tin với con dâu là nghe đâu bố thằng bé đã lấy nó lại cách đó mấy hôm. Ðêm đó, một vầng trăng lưỡi liềm lơ lửng trên trời và tiếng ếch vang rền suốt đêm trong đám ruộng trước nhà.
Hai mươi năm trôi qua. Bà mẹ chồng chết, rồi năm sau ông bố chồng chết theo. Mấy ngày trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông gọi con dâu đến bên đầu giường :
– Bố đã phạm tội nặng với con. Hồi đó bố chỉ nghĩ tới việc cứu vãn danh dự gia đình. Tiếp theo là bố ân hận… Nên bố đã nhờ người dò la tin tức cha thằng bé khắp nơi. Nhưng bố tìm không ra… Con sẽ đau khổ suốt đời còn lại…
Ông cố giữ hai mi khép chặt nhưng vô ích, nước mắt trào ra.
– Không đâu mà, bố !
Cô nghĩ là chính cô đã làm khổ ông bố già ghê gớm. Cô cúi xuống vùi đầu vào cạnh sườn ông cụ. 
Ðể cho ông cụ máu, cô chặt đứt ngón nhẫn bàn tay mặt : muốn bố lành bịnh, đáng lẽ cô đã phải hiến hết máu mình.
Sau cái chết của bố chồng, cô để căn nhà rộng rãi cho em chồng, cất một căn nhà tranh ở làng dưới và ở đó.
Hè năm ngoái, một hôm đã trễ lắm rồi, sau khi nhổ hết mấy luống khoai cuối cùng, bà tính chuẩn bị bữa ăn tối thì nghe tiếng gọi của một người lạ mặt. Sau cánh cửa đan mắt cáo, trong bóng râm buổi tối, một người đàn ông đứng tuổi hỏi bà có thể cho anh ta qua đêm không. Vì căn nhà nằm ngay lối vào làng, thỉnh thoảng khách đi đường xin vào tá túc.
Ăn tối xong, người khách không quên khen món canh khoai. Anh đốt một điếu thuốc rồi hỏi thăm bà Phúc nào đó có sống trong làng này không. Bà goá phụ cảm thấy tim mình thót lên. Với bàn tay run rẩy, bà khêu thêm ngọn đèn. A cái mũi, cái sống mũi rõ nét này ! Không chủ ý, bà thổi tắt đèn đi.
Người khách tưởng là vì tuổi tác, tai bà cụ nghễnh ngãng không nghe nên hỏi lại là bà cụ Phúc có sống trong làng này không. Giọng bà run run :
– Bà ấy chết lâu rồi.
– Cháu cũng nghĩ vậy.
Anh thổi một hơi khói dài.
Bà goá thấy tiếc là đã tắt đèn nhưng lại không có can đảm thắp lại. Bà cũng thấy tiếc là đã trả lời như vậy. Bà có cảm tưởng mấy tiếng đó đã làm bà mất vĩnh viễn những gì quý báu nhất đối với bà. Nhưng lát sau bà lại nghĩ là thôi, như vậy tốt hơn. Kỷ niệm trong cơn hấp hối của bố chồng trở lại trong trí nhớ. « Bố đã phạm tội nặng với con. Hồi đó bố chỉ nghĩ cứu vãn danh dự gia đình. Con sẽ đau khổ suốt đời còn lại »… « Không đâu mà, bố ! »
Bà goá bước ra ngoài. Trăng lưỡi liềm sáng trên trời. Tiếng ếch ồm ộp vang rền vẳng lên từ các thửa ruộng.
Người khách theo bà ra sân như thể anh ta cũng vậy, cũng không muốn ngủ. Anh ngồi bên cạnh bà goá rất lâu, không nói gì.
– Khi ngồi như vầy, kỷ niệm với cha cháu lại trở về. Cha cháu có thói quen ngồi trong sân những đêm mà ếch kêu rền như đêm nay, tới nỗi khuya cũng không biết. Cháu cũng vậy, cháu cũng có thói quen đó hồi nào không hay.
– Cha cậu mất từ bao giờ ?
– Hôm nay là bảy ngày rồi. Trước khi mất, cha cháu cho biết là cháu có một người mẹ. Trước giờ cháu cứ tưởng cháu mất mẹ từ nhỏ. Cha cháu nói tên làng mẹ cháu ở, và tên mẹ cháu. Khi cái lễ thứ ba làm xong, cháu chạy thẳng tới đây. Mà mẹ cháu lại không còn trên đời nữa… Còn bác, bác biết rõ mẹ cháu chớ ?
– Dĩ nhiên… tôi nghĩ…, bây giờ… trong làng này chắc còn tôi là người duy nhất biết bà cụ. Bốn chục năm rồi đấy ! Khi tôi nghĩ tới ngày đó… ngay cả hôm nay…
– … Ngay cả hôm nay ? 
Bà goá phải cố gắng lắm để tiếp :
– Bà ấy rất đáng yêu.
– Tìm ngôi mộ có khó không bác ?
Bà cụ gật đầu trong bóng đêm :
– Dĩ nhiên… Bốn chục năm rồi… Còn con cái, cậu có mấy con ?
– Cháu có ba trai hai gái. Thằng con lớn đã bắt đầu làm việc năm nay, cháu nghĩ vậy là cha cháu cũng sắp được nghỉ ngơi chút đỉnh. Vậy mà cha cháu lại mất rồi. Cha cháu chỉ có cháu và tự giết mình bằng cách làm việc quần quật suốt đời.
Chỉ tới tảng sáng thì bà cụ mới ngủ được, một giấc ngủ đầy mộng mị. Mấy đứa cháu nội đông đúc như đàn ếch trong cánh đồng trước nhà, chúng nhảy múa vui vẻ chung quanh bà và la hét thật to như đàn ếch. Bà nội thoát được khỏi chúng và đi trốn, mặc dù trong thâm tâm lại không muốn rời xa chúng chút nào. Bà khóc vì mủi lòng và hối tiếc.
Buổi sáng khi bà sửa soạn bữa điểm tâm thì người khách trọ quét sân. Bà nài nỉ anh đừng làm nhưng anh cứ tiếp tục. Anh bảo là đó là việc anh làm mỗi ngày ở nhà, và anh không thể ngồi yên chẳng làm gì.
Rồi anh hỏi bà có muốn anh bỏ khoai nằm ở góc sân vào bao không. Anh lau từng cái một, gỡ đất còn dính rồi bỏ vào bao, xếp vào kho thóc. Bà không thể không nhìn, từ cửa bếp, người đàn ông bản tính tự tin này !
Khi anh sắp từ giã, bà biếu anh hai trái bầu buộc vào nhau bằng một băng vải. Thoạt tiên anh từ chối : anh không thể nhận quà của người mà anh chưa cám ơn đủ đã cho anh tá túc qua đêm. Nhưng vì bà cụ ép mãi, nói là mấy trái bầu tốt nhất hái từ năm ngoái phải ăn cho hết, anh đành nhận.
Lúc anh bước qua cánh cửa đan mắt cáo, bà gọi :
– À này !
Từ tối qua, bà muốn biết anh ta cư ngụ ở đâu. Nhưng khi anh ngừng bước và quay về phía bà, bà chỉ tiến tới gần và vuốt nhẹ lên lưng anh như phủi bụi. Rồi bà sửa lại ve áo khoác của anh.
Bất chợt anh la lên và nắm lấy tay bà :
– Trời đất ! Cha cháu nói là mẹ cháu cũng có ngón nhẫn bàn tay trái bị cắt !
Bà cụ run rẩy toàn thân, lấy hết can đảm chìa cho anh xem bàn tay kia.
– Ô, bác hy sinh luôn cả ngón nhẫn bàn tay phải… Hai tay bác cho thấy là đời sống bác thật không dễ chút nào !
Anh tự nhủ là nếu mẹ mình còn sống, hẳn cụ giống hệt bà cụ này.
Người khách quay nhìn lại nhiều lần, ngay cả khi đã ra khỏi làng. Xa hơn, anh còn dừng trên khúc đường ngoằn ngoèo dẫn tới đèo, còn ngoái nhìn lại.
Bà goá không còn sức đứng vững nữa, phải tựa người vào hàng dậu…
– Chị à, vâng, còn có một bà goá trẻ khác, bà goá trẻ như vậy đó. 
Hai bàn tay xe sợi – những bàn tay thiếu mất hai ngón – đơ ra một lát như bị đóng đinh.
Miệng hé mở, bà Hàn đã ngủ chỉ có trời mới biết tự lúc nào.

Bản dịch của Miêng

Dịch theo bản tiếng Pháp: «Une veuve», của Choi Mi-Kyung và Jean-Noel Juttet
Paris, Janvier 1998 – Aout 2000

HWANG Sun-Won (1915-2000)

Viết truyện, tiểu luận và làm thơ. Cùng với vài ba tác giả khác, Hwang Sun-Won được xem là cha đẻ của nền văn học Hàn Quốc hiện đại, và là tác giả đương đại duy nhất được đưa vào chương trình giáo dục. Du học ở Nhật, ông làm quen với Anh ngữ và văn học Tây Phương tại đại học Waseda ; cũng tại đây, ông bắt đầu viết những truyện ngắn đầu tay. Sinh trưởng ở miền Bắc, ông đã chọn sống ở miền Nam khi đất nước chia đôi. Là nhân chứng của lịch sử Hàn Quốc, từ thời Nhật thuộc, qua cuộc chiến tranh Nam Bắc, cho đến công cuộc kỹ nghệ hoá ngày nay, ông không tha thiết mấy với những vấn đề tư tưởng hay lịch sử, mà chỉ chú trọng đến cuộc sống của thường dân, theo ông có lẽ là nạn nhân hơn là tác nhân của lịch sử. Xuất thân là nông dân, tác phẩm của ông là trí nhớ của đời sống nông thôn, là tâm hồn của một Hàn Quốc muôn thuở đang trên đường lột xác. Tác phẩm của ông phần lớn đã đượç dịch sang Anh văn, một số ít sang tiếng Pháp («La Chienne de Moknomi», «Les Étoiles», «Le Vieux potier», «La Veuve», «L’Averse», «Ensemble», «Petite Ourse», «Le sacrifice du coq»…). Ông vừa tạ thế tại Séoul đêm 14 rạng 15-9-2000. 

Monday, September 23, 2019

CHỜ MÀ KHÔNG ĐỢI



Thuyên Huy



Mượn một số tình tiết có thật mà không thật, chuyện được viết bằng tưởng tượng


    Lấp lửng chiều, trời nóng vẫn nóng, từ ngã ba Tầm Long  về tỉnh, chưa thấy gì vội phải về nhà trọ, thủng thẳng ăn cơm trước rồi tính, cũng vừa lúc tan trường, học trò lớn nhỏ, tiểu học trung học từng tốp năm tốp ba, ồn ào qua cầu Quan, con đường Gia Long, phố chính rợp một trời áo trắng con gái con trai giữa nắng muộn hanh vàng, sông lặng lờ đứng im một chỗ, lác đác đâu đó phía khúc quanh ngó qua tòa hành chánh hai ba cái ghe câu nhỏ, lửng thửng chòng chành không lui cũng không tới, Thuận ngừng xe jeep, tấp đậu vào lề ngay quán Đông Đề, anh chọn cái bàn ngồi sát vĩa hè, ngó ra đường, gió từ hướng sông lùa lên mang theo hơi nước pha chút mùi bùn chưa đủ mát, cuốn theo bụi đường, không nhiều nhưng cũng làm phố xá vương chút màu sương sớm. 

    Dù nhất định sẽ không trở lại nhưng cuối cùng rồi Thuận cũng về Tây Ninh, cái thành phố buồn thỉu buồn thiu đã bỏ đi sau ngày rớt tú tài 2, ngày gia đình anh dọn về dưới An Tịnh, Trãng Bàng quê ngoại và cũng vì một lá thư . Vốn tính “mê chơi hơn ham học” cho nên thi ra trường đứng hạng gần áp chót, những tỉnh gần Sài Gòn hay tốt thì mấy người học giỏi đậu cao chọn hết rồi, chỉ còn lại Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Bình Dương coi như có vẻ gần, còn Cà Mau, An Giang , Quảng Trị, Phú Yên, Kontum Ban Mê Thuộc thì “đường dài sông nước gió núi mưa rừng” quá, suy đi nghĩ lại, tính tới tính lui, dù không muốn cũng đành “trôi theo dòng đời”, Thuận chọn Tây Ninh rồi tính gì thì tính, ít nhất cũng gần nhà. 
 
    Mấy năm không về, Tây Ninh vẫn vậy, cái cầu chia đôi bờ vẫn một màu vôi bạc, loang lỡ, chợ tỉnh vẫn bao nhiêu đó người, cái công viên ngay dốc ngã ba, ngỏ đi Núi Bà, ngỏ về Long Hoa Tòa thánh, ngỏ dọc theo sông xe đò chạy Tây Ninh – Sài Gòn ngang qua trường trung học tỉnh, trước khi qua Giếng Mạch, ra Mít Một cũng khẳng khiu lưa thưa thiếu hoa thiếu lá như ngày nào.

    Cám ơn cậu con trai bán hàng bưng đồ ăn ra, sửa lại thế ngồi, chưa kịp so đôi đủa cái thấp cái cao, một nhóm năm sáu cô, tay cặp tay sách, áo dài cái trắng cái xanh, miệng nói miệng cười, “cô cô em em” bước vào phía góc quán bên trong, vui vẻ kéo ghế ngồi quanh cái bàn tròn lớn, quán còn vắng vì mới vừa tan sở và chợ chiều cũng chưa nhóm, thấy người ta vui, lòng bất chợt vui lây,  ngồ ngộ, Thuận quay vào nhìn, vừa lúc cô áo màu xanh lá mạ trong nhóm ngó ra, khoảng cách hai người không xa, thấy tương đối rõ, Thuận giựt mình chưng hửng nói thầm “Nguyệt đó sao”, chưa kịp phản ứng gì thì cô nàng đã đứng bật dậy, cả nhóm bổng dưng im bặt nhìn theo ngạc nhiên chờ, Nguyệt đúng là Nguyệt, con gái ông chủ ruộng của ba Thuận trước đây, gọi “anh Thuận, trời ơi không ngờ có ngày gặp lại”, Thuận cũng đứng dậy gật đầu mà không nói gì, mấy cô học trò nhỏ ngờ ngợ hỏi “ai vậy cô, ai vậy cô”, cả nhóm đứng lên, Nguyệt nhìn qua hướng Thuận trả lời “bạn cũ của cô, lâu lắm rồi không gặp”, trời dịu mát hơn,  nắng chia đôi con phố hai màu, một mờ mờ xám một vàng vàng hanh, ba bốn người khách bước vào, ngồi che hơi khuất, Thuận cười lơi, làm dấu chỉ xuống bàn, ăn vội ăn vàng tô hủ tiếu vừa đủ nguội, thở dài “trời ơi người đâu gặp lại làm chi”. 

    Ăn xong, thấy không thể và cũng không tránh được, Thuận bước qua chào mọi người, Nguyệt và đám học trò đứng dậy theo ra cửa, Thuận lên xe, quay nhìn vào quán lần nữa cùng lúc ông chủ Đông Đề, đi đâu đó về, biết Thuận vì thường đến ăn, mặt mày hớn hở, đứng gần Nguyệt, hỏi lớn “ông Phó ăn chưa, về sớm vậy”, Thuận gật đầu cười rồi lái xe chạy đi, nghe kêu hai tiếng “ông Phó” Nguyệt ngạc nhiên ngó ông chủ quán Đông Đề “bộ bác biết người đó hả bác”, ông chủ nhanh nhẩu “ổng là ông Phó quận trưởng Phước Ninh đó” rồi lửng thửng bỏ đi vào, Nguyệt đứng nhìn theo hướng xe Thuận khuất trên đầu dốc tòa hành chánh chết trân.
                                                        *
 
    Ở ấp Bảo, không xa Tân Lập bao nhiêu, nhà Thuận nghèo như cái nghèo của cả hàng chục gia đình khác, quanh năm chưa ra khỏi làng, cày thuê, cấy mướn, cứ như vậy mà sống, an phận với con rạch con sông hai mùa nước ròng nước lớn. Gia đình may hơn một chút, năm Thuận lên bốn, nhờ có người quen xa bên nội ở Tây Ninh làm gì đó trong tòa thánh giới thiệu, ba Thuận mướn được chừng năm sáu mẫu ruộng ở Long Hòa, gần con rạch nhỏ đủ nước của ông bà Thịnh, nghe nói lại, ông bà còn cả mấy chục mẫu nữa bên Long Giang, gần biên giới Miên, nhà là một căn biệt thự thời Tây có vườn hoa trước sân, nằm trên đầu dốc đường Võ Tánh, có cơ sở làm ăn gì đó ở Sài Gòn, mấy năm qua, không giỏi giang nhưng nhờ cần cù lam lũ ba mẹ Thuận đủ sống, dư chút đỉnh mua sách mua vở, lo áo quần lành lặn cho con đi học trường làng, trường ấp.


 

Cuối năm lớp nhất, Thuận may mắn thi đậu vào lớp đệ thất trường trung học tỉnh, cả nhà mừng không biết bao nhiêu mà nói, hàng xóm quanh bờ mương con đê cũng tới cũng lui chúc mừng, đám bạn cùng lớp, chân đất chân bùn không còn ai tiếp tục học nữa, hình như đứa nào cũng bằng lòng an phận với cảnh đời trời định. Ba mẹ Thuận mừng  thì có mà lo cũng có, lên trên tỉnh thì ở đâu đây, có ai quen đâu, còn nhỏ xíu ăn ngủ làm sao, hai người cứ hỏi nhau, bàn nhau hết ngày này qua ngày nọ, cơm chiều cơm sáng, mà chưa biết tính như thế nào. Gần một tháng trước ngày nhập học, như cứ đánh liều, ông dẫn Thuận ra Bến Cầu, đón tàu lớn tới Cẫm Giang, theo xe đò lên nhà ông bà Thịnh trên tỉnh, thử hỏi xin cho Thuận được ở trọ đi học vài năm, thấy thằng nhỏ dễ thương, trạc tuổi Nguyệt, con gái út của mình, lại cùng lớp đệ thất năm nay và dù gì thì gia đình Thuận cũng là người quen cho nên, ông bà mau mắn nhận lời,  ba Thuận ngồi nghe mà mừng muốn khóc, theo lời ông, Thuận vòng tay cúi sát đầu, hai cha con cám ơn không biết bao nhiêu lần, ra về ông bà đưa ra tới cổng, nhắc nhớ lên kịp ngày đi học. 

    Thuận được sắp ở trong cái nhà nhỏ cũng tường gạch cửa nẻo hẳn hoi, phía sân sau, gần giếng nước, mái nối liền với nhà trước, cách bậc tam cấp ra cửa sau không hơn một thước, chỗ này là chỗ ở của chị An, chừng hơn hai mươi mấy, là người ở trong nhà, lo chuyện quét dọn lau chùi, nấu nướng giặt giũ, chị là cháu của bà Thịnh đâu đó dưới miệt Long An. Ngoài cái gường ngủ bằng gỗ nâu kê sát một bên vách phòng của chị An, ông bà còn đặt cho Thuận cái bàn học cũ nhưng còn tốt thêm cái ghế cao và cái kệ hai ba ngăn để sách vở, quần áo  không có bao nhiêu, thì đựng trong cái rương cây mà ba Thuận đã ra chợ Bến Cầu mua trước ngày lên tỉnh nhập học.
 
   Mấy ngày đầu, vừa bỡ ngỡ lạ chỗ vừa rụt rè, nhớ nhà, Thuận cứ thúc thít khóc hoài, chị An thấy tội nghiệp đêm nào cũng vỗ về an ủi, biết thân biết phận ít khi nào Thuận dám lên nhà trên và thường ăn cơm sau chung với chị An, thay vì lên nhà trên ngồi với cả nhà ông bà Thịnh, vậy mà thấy đở ngại hơn, sáng đi học thì đi ngả sau vòng quanh qua hông nhà ra cổng. Ông bà Thịnh có hai người con gái, Ngọc là chị lớn học lớp đệ tứ, hiền ít nói, Nguyệt, con út, bằng tuổi Thuận và cùng học đệ thất nhưng khác lớp, là con gái thị thành có khác, một hai hôm đầu mới gặp đã nhanh nhẫu, tía lia hỏi này hỏi nọ, chạy lên chạy xuống, chỉ chỗ này chỗ kia, từ nhà trước tới nhà sau, nhờ vậy mà Thuận cảm thấy bớt tủi thân. Bên kia đường, đối dện với nhà ông bà Thịnh là căn nhà gạch khá lớn của Liêm, bạn chung lớp với Thuận, có ba làm trưởng ty gì đó trong tòa hành chánh tỉnh, trở thành bạn với nhau sau vài tuần vào học, từ đó sáng nào cũng vậy, Liêm qua trước cổng chờ, hai chị em Nguyệt đi trước, hai thằng bên nhau thủng thẳng phía sau đến trường, chiều về thì chạy qua chạy lại rủ ren chơi cái này cái nọ. 

    Dần dà rồi cũng quen cái quen nước, Thuận nói năng nhiều hơn, nhỏ nhẹ, dạ thưa, học lại giỏi, ai nấy trong nhà đều đem lòng thương mến, nhất là chị An, mỗi lần giặt quần áo là giặt luôn cả đồ của Thuận, ăn cơm cũng chừa miếng thịt miếng cá cho. Sáng thứ bảy cuối tuần nào cũng như tuần nấy, Thuận nôn nóng thức sớm, khi cả nhà còn ngủ, chào chị An, rồi xách cái túi vải cũ lội bộ ngang qua trường, xuống khu S, chỗ có nhà máy nước đá, cùng với thằng bạn chung lớp tên Long, nhà ở chợ Cẫm Giang đón chuyến xe sớm nhất Tây Ninh – Gò Dầu, Long xuống đầu chợ, Thuận xuống bến tàu, về Bến Cầu. Trưa chủ nhật, Long cũng chờ Thuận ngay bến tàu rồi lên tỉnh lại, hai người cứ như vậy suốt gần hơn nửa năm đệ thất, sau đó quen đường quen xá rồi, có khi thì chờ nhau có khi thì mạnh ai nấy đi, xe ai nấy đón.

    Tuy nói rồi cũng quen nhưng cái phận con nhà nghèo vẫn cứ là con nhà nghèo, ngày tháng qua, lớn thêm một chút, suy nghĩ nhiều hơn một chút, có những đêm, ngồi trên thềm giếng nước sân sau nhìn vô nhà trên, trong phòng khách, tường vôi trắng và những tấm hình, chị em Nguyệt cùng ông bà Thịnh quây quần bên nhau, nói cười ngặt nghẽo, lòng Thuận buồn ray buồn rứt, buồn cái gì đó chắc chỉ có riêng mình hiểu. Hết hè, trước ngày vào học năm lên đệ ngủ, hai cha con từ Tân Lập lên tỉnh, gặp ông bà Thịnh lần nữa, trước để cám ơn ông bà thương tình đã cho phép Thuận được tá túc đi học trong hai năm qua, sau báo tin đã tìm được chỗ ở mới, có mấy đứa bạn chung lớp, gần quê, xin phép dọn đi, trước khi ra về, Thuận cầm tay chị An mà nước mắt ròng ròng, hai chị em Nguyệt coi vậy mà mắt cũng rươm rướm đỏ. 

    Ở khu S, căn nhà Thuận ở có Long, hai người khác quê Gò Dầu cùng đệ ngủ nhưng khác lớp và anh Thìn, người Bến Kéo học đệ tam, là căn nhà dư  gần bìa lề đường, không xa trường của bà cô Hạnh tu tại gia, ăn chay trường ngoài ngã ba chợ Mới, không biết quen biết ra sao, bà giao nhà cho anh Thìn giữ, cho học trò ở mà không tính tiền gì hết, thỉnh thoảng trên đường đi lễ ra chùa  Gò Kén bà còn ghé tạt qua thăm, cho chút tiền nho nhỏ mua nước mắm nước tương cho cơm trưa cơm chiều có thêm chút mặn mòi. 


    Từ đó, sáng vào lớp chiều tan trường, đi về hai ngả rẽ, nhiều đêm ngồi học bài, nhìn ra ngoài sân, bỗng dưng Thuận thấy mình nhớ nhớ cái gì đó là lạ, nhớ thoáng qua rồi thôi, đôi khi tan học Thuận không về liền mà tới ngã ba đầu cổng con gái ra, đứng chờ hai chị em Nguyệt ở bên này đường, vẫy vẫy tay chào, hỏi vọng qua hai ba câu, không đầu không đuôi, rồi đứng chờ đến khi hai chị em khuất dạng cuối đường, chỉ như vậy, nụ cười nửa miệng của Nguyệt, chừng đó cũng đủ cho Thuận vui trên đường về,  đêm thôi còn thao thức và cũng từ sau mùa hè năm đó, Thuận đã biết thương nhưng thương thầm, thương chỉ để mà thương thôi vậy thôi, cái thương của tuổi mới biết buồn, buồn theo nắng mưa bất chợt. 

    Sau tết, qua giữa năm đệ nhất, hôm bữa tiệc chia tay trước mùa thi tú tài 2, do nhà trường tổ chức sớm, chừng một tháng để học trò có thời giờ lo bài vở lần cuối cùng, Thuận đưa cho Nguyệt cái thư mà anh đã lần lựa, nghĩ tới nghĩ lui rồi mới viết, viết với tất cả nổi niềm ôm ấp từ mấy năm qua, cô ta vui vẻ nhận, hứa sẽ đọc và đọc thật kỹ, tan tiệc, về nhà trọ, hôm đó có thể gọi là một ngày vui nhất trong đời, vì Thuận đã nói ra được những gì ẩn chứa, canh cánh trong lòng, mặc dù không chắc là có được toại nguyện như mình mong không nhưng Thuận vẫn cứ ngóng ngóng trông trông thư Nguyệt trả lời. 

    Rớt tú tài 2, Thuận lặng lẽ bỏ Tây Ninh đi, chuyện chờ Nguyệt thư trả lời là chuyện không còn dám nghĩ tới, sau ngày đó, bao nhiêu năm rồi chưa có lần nào trở lại. 

                                                                   *

    Trời chiều xuống chậm hơn thường ngày, Thuận từ trên quận về sớm, hối hả vào bệnh viện tỉnh thăm chị Hạnh, thư ký của văn phòng quận bị sốt viêm phổi sao đó, nghỉ làm mấy ngày nay, không ngờ gặp lại chị Nhiên, bạn chung lớp đệ nhất với Nguyệt, chung lớp nhưng lớn hơn hai ba tuổi gì đó, đang đi với một cô y tá tới phòng bệnh, mừng quá, hai người rủ nhau ra cái quán cốc che tấm bạt ni – lông xanh xế cổng bệnh viện, cặp một bên tường vôi bạc màu vàng của quân y viện hỏi nhau chuyện xưa chuyện cũ, chị Nhiên tốt nghiệp cán sự điều dưỡng, về làm ở đây hai ba năm rồi, Nguyệt cũng như Liêm thi đậu, vào đại học Sư Phạm, ra trường, cùng về dạy ở trung học Tây Ninh, trường cũ, chừng năm sáu tháng sau Liêm ngỏ ý muốn xin hỏi cưới Nguyệt nhưng rồi có lẽ là định mạng, Nguyệt cứ hẹn lần hẹn lựa, trả lời chưa muốn lập gia đình lúc này, ông bà Thịnh không giận không buồn, không hối thúc, hơn một năm sau đó, có lẽ cũng nản chí vì biết Nguyệt không yêu mình, nên thôi, Liêm kết hôn với Ngọc Hương, dược sĩ, học trước đám Nguyệt và Liêm, Thuận một năm, có nhà thuốc tây trên phố Gia long, con gái lớn của ông bà chủ tịch Hội Đồng Tỉnh, bạn bè thường qua lại với gia đình Liêm, vậy cũng êm đẹp đôi đàng. Đám bạn cũ lần lượt bỏ Tây Ninh đi hết, chị chưa lập gia đình, giờ gặp Nguyệt rất thường, hễ thấy mặt nhau thì cứ nhắc chuyện này chuyện kia cả “một trời tâm sự”, chị Nhiên cũng nhắc tới chuyện cái thư mà Thuận đưa Nguyệt hôm tiệc chia tay lớp đệ nhất, có viết thư trả lời, chờ sau mùa thi, đưa cho Thuận nhưng anh đã không về lại đây nữa và chị lắc đầu “Nguyệt vẫn chưa chịu nói là viết gì trong đó”, trở vào bệnh viện, chị Hạnh đang ngủ mê, Thuận từ giã ra về, đưa Thuận ra cổng, chị nhắc chỗ nhà mình, cũng chỗ cũ, ngay cái đường đất nhỏ có hàng ô môi, bên hông trường tư thục Văn Thanh, bảo anh nếu rãnh thứ bảy tuần tới ghé qua chơi, vì chị Nhiên được nghỉ phiên trực, Thuận gật đầu hẹn sẽ tới, bước qua bên kia đường rồi quay lại, chị mĩm cười nói vói theo “nhớ nghe ông Phó”.


     Sáng thứ bảy Thuận đến nhà chị Nhiên như đã hẹn, nói chuyện qua loa một chút, đi đâu đó ăn sáng rồi nhờ chị đi theo đến thăm ông bà Thịnh, mới về đây vài tháng, công việc trên quận còn lu bu, nên chưa sắp xếp lúc nào được, hôm nay may quá, sẳn dịp “một công hai việc”, vã lại có thêm người theo cũng đở ngại hơn. Thuận đậu xe jeep bên lề đường ngay cửa nhà, không biết chị Nhiên có nói năng gì trước với Nguyệt không, hai người chưa kịp xuống xe thì cô ta đã ra tới cổng, chị nhanh miệng ngó qua Thuận “gặp nhau rồi mà”, Nguyệt cười, không nói gì, chờ hai người cùng đi vào nhà, vừa đi cô nàng vừa nói vọng vào trong “ba mẹ ơi, có anh Thuận tới”. Trong phòng khách, cũng bộ ghế sa – lông da, cũng những tấm hình đen trắng chụp nguyên gia đình cũ ngày trước, Thuận chợt thấy lòng có chút xao xuyến, bâng khuâng trước “người xưa cảnh cũ”, hai tiếng cám ơn lại một lần nữa được nghe, ngồi bên Thuận, ông Thịnh cười, ít nói, bà Thịnh hỏi han nhiều hơn đôi chút nhưng một hai cứ gọi Thuận “ông Phó, ông Phó”, Thuận lắc đầu cười “dạ ông bà cứ kêu thằng Thuận như hồi đó được rồi”, trong khi đó, ở một góc phòng sau nhìn lên, Nguyệt, chị Nhiên và chị An, ba người tụm đầu thì thầm nhỏ to gì đó. Thuận ra xe về một mình, chị Nhiên ở nán lại, hai người theo ra tới cổng, chào nhau nhưng không hẹn chừng nào gặp nữa.


        Từ Gò Nổi, Bến Cầu về, trời cũng đã lấp xấp quá trưa, đi lối sau vào tới văn phòng, chị Hạnh thư ký đưa cho Thuận cái thư ngắn, viết vội mấy chữ của chị Nhiên, nhắn chiều nay nếu có về lại tỉnh thì ghé qua nhà ăn cơm, bác gái mẹ chị mời, đã nhờ chị Hạnh đưa lại giùm, hỏi ra mới biết, nhớ mấy ngày nằm bệnh viện tỉnh, chị được chị Nhiên săn sóc tận tình nên sáng nay, trước khi đi làm, chị có ghé nhà mang theo mấy trái xoài, trái măng cụt, vài ba hộp bánh gọi là chút quà nhỏ cám ơn. 

    Chị Nhiên lấy xe Honda đi đâu đó về cũng vừa lúc Thuận đến, vào nhà, bác gái vồn vã mời nước mời trà, hỏi đủ thứ chuyện, rồi bỏ đi xuống bếp, ngồi nói ba chuyện xưa chuyện nay qua loa chút xíu rồi chị nhắc chuyện đến bây giờ Nguyệt mới chịu nói ra là đã viết gì trong thư trả lời cho Thuận, hỏi Thuận thấy sao, thật ra, cho tới bây giờ, những gì mà anh đã viết cho Nguyệt ngày đó, anh vẫn còn nhớ rõ, đôi khi ngồi một mình, bỗng chợt một trời vương vương vấn vấn bừng sống lại trong lòng, có lúc như một cơn mưa cuồng thác lũ, Thuận cố nén nhưng cứ ray rứt nhớ, lại sợ hai tiếng “muộn rồi”, Thuận nhìn chị lắc đầu “coi vậy mà quên không được”, cả hai phá lên cười, bác gái từ dưới nhà đi lên hỏi lớn “cái gì mà hai đứa cười dữ vậy”.

     Chuông tan học chiều, chị Nhiên tới đón Nguyệt trước cổng ra con gái, Thuận đậu xe jeep xa đầu ngã ba, ngồi chờ, học trò từng tốp túa nhau ra về, từ xa nhìn, hai người băng qua đường đi về hướng Thuận, chị Nhiên nói gì đó, Nguyệt ngó quanh ngó quất, hai ba đứa học trò đẩy xe đạp qua ngang, cúi đầu “chào cô”, cô ta quên mất chào lại, tới chỗ xe đậu, chị Nhiên cười hỏi đùa “ai đây”, tim đập liên hồi, Nguyệt ngập ngừng  muốn khóc “anh Thuận”. 

                                                     *

    Cơm nước xong, bữa cơm cười nhiều hơn là ăn,  chiều xuống thấp thật thấp bên kia sông, mặt trời lơ lửng đỏ màu hoa phượng, trời chưa chịu tối, nắng vẫn còn nằm vắt ngang trên đường sáng rực, Thuận lái xe ngang qua bệnh viện, bỏ chị Nhiên xuống, kịp phiên trực đêm nay trên đường đưa Nguyệt về, tới nhà, ông bà Thịnh đi qua đi lại trước cửa, hai người vừa xuống xe thì cũng vừa lúc từ nhà bên kia, ông trưởng ty, ba của Liêm đẩy xe vết – pa ra, gật đầu chào “ông Phó”,  Nguyệt cúi đầu chào lại rồi đi vào trước, Thuận bước qua bên đường, bắt tay ông, hai người cười cười hỏi qua hỏi lại gì đó, rồi ông lái xe chạy đi, ông bà Thịnh và Nguyệt vẫn còn đứng trước hiên nhà chờ. Ra về, đêm nay đường phố Tây Ninh lên đèn muộn, cả nhà theo ra tới cổng, Nguyệt rươm rướm nước mắt “anh tới đón em ở trường hả”, Thuận nắm tay cô nàng, cái nắm tay đầu của một cuộc tình muộn, rồi gật đầu, ông bà Thịnh đứng cạnh bên nghe, cùng vui thầm trong lòng, họ vẫn ở đó thật lâu, nhìn theo bóng xe Thuận khuất dần dưới dốc đường, rưng rưng nước mắt. Thuận lái xe chầm chậm về nhà trọ, đếm từng ngọn đèn đường đi qua, mĩm cười một mình, cuối cùng sau những năm dài, dài như con số đèn đường vừa đếm, anh không còn chờ cái thư trả lời mà anh đã cố quên nhưng cứ nhớ. 

Thuyên Huy
Canberra cuối hạ 2019 
Để nhớ đám bạn cùng lớp cùng trường và cùng rớt mùa thi năm đó, năm 1969.


-------
Nguồn: Hoài Niệm Tây Ninh.  



Thursday, September 19, 2019




Bốn tháng trên đảo Hoàng Sa

Posted: 20/09/2019 in Hoa NghiêmTùy Bút / Tản Mạn / Bút Ký
Hoa Nghiêm
Ồn
Hồi ký “Bốn tháng trên đảo Hoàng Sa” được đăng trên bán nguyệt san Thời Nay số 284, xuất bản ở Miền Nam năm 1972. Tôi có duyên mua được số báo này tại một nhà sách cũ ở Sài Gòn gần đây. Thời Nay nguyên là một tạp chí tư nhân nổi tiếng, chuyên viết về văn hoá – lịch sử, thành lập từ năm 1959 ở Sài Gòn, chủ bút là ông Nguyễn Văn Thái.

Ngày 19/1/1974, Trung Quốc đã bất ngờ đổ quân đánh chiếm đảo Hoàng Sa của Việt Nam (Hải chiến Hoàng Sa). Mặc dù những người lính phía Việt Nam Cộng Hoà đã anh dũng chiến đấu hy sinh, nhưng do yếu thế hơn về tương quan lực lượng, nên chúng ta đã mất Hoàng Sa từ ngày ấy. Cũng từ ấy đã không còn dấu chân người Việt đi tuần tra trên đảo Hoàng Sa như trong hồi ký này nữa. Gần 50 năm đã trôi qua, ngày nay bọn Trung Quốc đã xây dựng sân bay, bến tàu và thành lập “thành phố” ở đảo Hoàng Sa và đang dã tâm thực hiện tham vọng bành trướng chiếm gần trọn biển Đông, bao gồm toàn bộ quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Liệu chúng ta có quyền hy vọng một ngày nào đó con cháu đời sau sẽ lấy lại được Hoàng Sa về với đất mẹ? (Ls Trần Hồng Phong)
Đại đội chúng tôi còn năm hôm nữa sẽ xuống tàu ra đồn trú ở đảo Hoàng Sa. Đơn vị chúng tôi là đại đội tiếp lực đóng tại Vĩnh Điện thuộc Tiểu đoàn X. Sau những năm dài vào sinh ra tử chiến đấu cam go, nay có dịp xả hơi nên tuy phải đổi ra một đảo hoang vắng mọi người đều có vẻ thoải mái. Ngay từ khi mới nhận được lệnh, chúng tôi liền gởi thư báo tin cho người nhà biết và mua sắm các loại vật dụng cùng thực phẩm cần thiết.

Biết rằng Hoàng Sa là một quần đảo hoang vu không có dân cư, để chuẩn bị thức ăn tươi, ngoài số quân nhu vật thực do đơn vị đảm trách, các trung đội họp nhau vạch kế hoạch chung tiền mua hạt giống ra củ, đậu cà, mua gà con, heo giống đem theo nuôi, người ta còn mua cả lưỡi câu, lưới, chỉ, ny lông để bắt cá. Riêng cá nhân mỗi người đều sắm sửa mang theo nào tiêu, ớt, hành, tỏi, dầu, đường, bột mì. Người thì mang theo thuốc lá, cà phê hộp, sữa, sách, truyện, có người mang theo cả chó con, mèo và cả chim sáo nữa. Chúng tôi chuẩn bị sống cuộc đời của nhân vật tiểu thuyết Lỗ Bình Sơn trên hoang đảo.
Vào lúc 5 giờ chiều, con tàu chở đại đội chúng tôi rời bến Đà Nẵng rẽ sóng về hướng đông. Chúng tôi vui nhộn khi xuống tàu nhưng độ vài giờ sau một phần lớn anh em không quen sóng đã nằm dã dượi khắp sàn tàu. Anh hạ sỹ Duệ đã tiên liệu sẵn cho mấy hộp thuốc trừ mửa nautamine nhưng không đủ để phân phát cho tất cả mọi người, chỉ biếu cho trường hợp các bạn say sóng quá nặng. Chiều hôm đó không ai dám ăn cơm no, có nhiều người đành chịu nhịn đói. Hai ngày ảm đạm chỉ thấy trời nước mênh mông chậm chạp trôi qua. Đến sáng ngày thứ ba thì tàu cập bến trước sự vui mừng chờ đợi của anh em binh sỹ đại đội trú đóng lâu nay trên đảo đang mong đợi ngày trở về quê nhà …
Hoàng Sa là một hòn đảo của biển Đông, giữ một vị trí chiến lược rất quan trọng ở Thái Bình Dương, nằm về phía đông nam của đảo Hải Nam được người Pháp trú đóng năm 1938. Sau đó thì bị quân đội Nhật chiếm cứ và sau này vào năm 1947 thì Trung Hoa cũng muốn dành, lạm nhận là thuộc hải phận đảo Hải Nam.
Đảo Hoàng Sa nơi chúng tôi trú đóng hình hơi thuân thuẫn dài khoảng 2 cây số và rộng độ 1 cây số. Lên đảo chúng tôi đi qua một đoạn đường cát vàng rộng chừng 20m, kế đến là một loại rừng thưa mọc toàn một loại cây lá to bằng bàn tay màu xanh lá chuối non mà tôi chưa hề gặp trong đất liền. Thân cây cứng và cao độ vài thước, lá mềm, người ta gọi là cây Trăng. Trong rừng thưa có đường sá ngang dọc lát đá hẳn hoi, dẫn đến trung tâm của đảo là nơi quy tụ những nhà cửa bằng gạch làm nơi đồn trú cho những đơn vị quân sự.
Nhà cửa ở đây đều xây bằng gạch, lợp ngói, khá đầy đủ tiện nghi, ngăn nắp, có nhà bếp, nhà vệ sinh, chuồng nuôi heo, nuôi gà, có bể đựng nước, có giếng, có chuồng ủ phân trồng cây … Người ta bảo rằng các cơ sở này do Pháp xây cất ngày trước để dự bị trong kỳ Thế chiến II không cho người nước khác chiếm, đặc biệt là người Nhật. Cách không xa nơi quân đội đóng là đài thiên văn do một nhóm 5 chuyên viên phụ trách với rất nhiều máy móc phức tạp để hằng ngày đo gió, đo nước mưa, tiên đoán thời tiết … Đây cũng là tổng đài vô tuyến điện mà đơn vị chúng tôi phải nhờ mỗi khi muốn liên lạc với đất liền.
Vắng thú rừng
Nhiệm vụ của đơn vị chúng tôi là cố thủ bảo vệ đảo này và kiểm soát mọi tàu bè ghe buồm đi vào hải phận thuộc đảo. Chung quanh đảo là một giải cát viền quanh, rải rác có tám toà pháo đài kiên cố xây mặt ra biển. Tuy vậy ban đêm chúng tôi không canh gác ở phá đài mà chỉ thay phiên nhau chia từng tiểu đội đi tuần tra dọc bờ biển bao quanh đảo.
Ban ngày sau khi tập thể thao buổi sáng sớm, ngoài ban hoả đầu quân lo việc cơm nước cho đơn vị, chúng tôi phân công chia nhau toán thì tập dượt văn nghệ để thỉnh thoảng ban đêm trình diễn giải trí cho anh em, toán thì đi câu cá, câu mực, đi bắt cua, còng, sò, toán thì cuốc xới đất đai để trồng trọt các loại rau ớt, hàng, ngò, toán thì phụ trách chăn nuôi heo gà, toán thì đi kiếm củi, múc nước đem về nấu nướng…
Thảo mộc trên đảo đa số chỉ ròng rặc một loại cây Trăng lá to bằng bàn tay màu lá chuối non. Sai với điều tôi lầm tưởng là ở đảo có lẽ có nhiều dừa lắm nhưng ở đây chẳng thấy bóng dáng một cây nào cả. Gần các cơ sở xây cất có một cây vông nem khá lớn trổ hoa đỏ hoét là thứ hoa duy nhất mà chúng tôi gặp suốt bốn tháng trời trú ngụ trên đảo. Rải rác gần đài thiên văn có năm bảy cây dương liễu là thứ cây quen thuộc khi còn ở quê nhà. Cây vông và các cây dương liễu kia theo người ta nói là do người Pháp đã trồng trước đây. Để ý quan sát các loại rau cỏ dại tôi nhận thấy có loại rau muống biển mọc gần bờ biển, còn rải rác trên đảo thì có loại rau sam, rau dềnh, rau trai. Có thì có cỏ chi, cỏ cú, cỏ may…
Trên đảo vắng thú rừng, chỉ có vài con heo hoang nghe đâu hồi trước được nuôi nhưng đã xổng chuồng chạy vào rừng luôn. Trên bờ bể thì có loại còng như bở bể ở đất liền. Đặc biệt ở đảo này có loại cua vỏ màu xanh lục sanh sản rất nhiều, nuôi sống bằng lá cây Trăng thổ sản trên đảo. Thứ cua này bò chậm chạp dễ bắt nhưng lại leo cây rất giỏi và chúng thường làm ổ trong các bọng cây hoặc đào hang ở dưới gốc cây. Cua này quá nhiều ở khắp rừng trên đảo chứ không thấy xuống nước. Ban đầu chúng tôi còn bắt nấu cả con để ăn nhưng nhiều người chê bụng cua hôi mùi lá cây nên về sau chỉ bắt bẻ lấy hai càng cho nhiều thịt, còn cua thì thả đi. Không rõ về sau chúng có mọc càng khác hay không hoặc sống chết thế nào.
Ban đêm thì có những con vích to bằng mặt bàn từ dưới biển bò lên ven rừng thưa cạnh bờ cát để đào cát đẻ trứng. Vích là một loại rùa biển vỏ màu xám mà mềm hơn mua rùa đất, cũng chia làm mười ba mảnh, rất khoẻ mạnh, một người cưỡi trên lưng vẫn chạy như không. Thường đêm chúng từ biển sâu lên bờ đến ven rừng bới cát đẻ trứng. Chúng đẻ xong lấp cát lại như cũ, mỗi ổ có thể sắp đến một thùng rưỡi dầu hoả trứng. Trứng to hơn trứng gà nhưng vỏ mềm, luộc chín thì lòng đỏ đông cứng lại, còn lòng trắng thì cứ bầy nhầy chứ không rắn lại như trứng gà. Vích ban ngày lặn xuống biển sâu, ban đêm mới lên bờ đẻ. Chúng tôi thường rình bắt trong lúc chúng đang nằm đẻ bằng cách thình lình đến lật ngửa chúng ra và hè nhau khiêng về hạ thịt.
Đêm đầu tiên ra đảo chúng tôi bị một phen hoảng vía vì đang đêm bỗng được toán tuần tiễu báo cáo có nghe tiếng đào cát và tiếng thở hổn hển. Đơn vị tôi liền được cấp chỉ huy một mặt cho bắn bích kích pháo ngăn chặn quanh đảo, một mặt dùng vũ khí cá nhân bắn tưới hột sen vào các vị trí nghi ngờ. Nghe tiếng súng dữ dội, các nhân viên thiên văn đài chạy sang hỏi và sau khi được nghe kể lại như trên, các bạn ấy nói rằng đấy có thể là tiếng vích bới cát để đẻ trứng vì họ ở đây đã lâu nên đã nhiều lần nghe như vậy và đã có nhiều đơn vị trước đây cũng đã lầm như chúng tôi. Trung uý đại đội trưởng ra lệnh ngưng bắn, cho đi quan sát lại và quả nhiên tìm thấy có bảy tám con vích đang đào cát đẻ trứng. Từ đấy ban đêm chúng tôi chia nhau đi bắt vích, tính suốt thời gian trú đóng trên đảo bắt có đến bảy tám chục con.
Chung quanh bờ bể dưới nước không phải là bãi cát lài mà là một vòng đai san hô rộng khoảng 500 mét trên mặt sóng đánh phẳng lì. San hô mọc không đều nên khi nước thuỷ triều hạ xuống, có những vũng nước lớn như những cái đìa cạm bẫy chứa nào cá, mực, tôm, chình chưa kịp rút lui bị mắc kẹt. Chúng tôi chỉ việc lấy vợt xúc hoặc lấy rìu sắt đâm, đập đem về nấu nướng không phải dùng đến lưới bủa gì cả. Hải sản ở đây gồm đủ loại cá trên đất liền như các trích, cá ngừ, cá thu, cá chuồn, cá sòng, mực nang, mực ống, bạch tuộc …vv, tôm, hải săm, sao biển, sứa cũng không thiếu gì. Hơi xa bờ biển một chút thì có cá heo, cá bò, cá mập. Một lần chúng tôi chèo ghe ra xa suýt bị đắm vì bầy cá heo bơi lượn chung quanh để đùa với chúng tôi.
Nhưng hải sản làm cho chúng tôi lưu tâm hơn cả là những con sò khổng lổ gồm hai mảnh vỏ to như hai chiếc nón lá Huế úp lại cũng rải rác nằm trong vòng đai san hô quanh đảo, vô phước ai dẫm chân lọt vào mồm nó mà nó ngậm lại thì nhất định là đứt nghiến cả ống chân. Ban đầu chúng tôi bắt loài sò này về nấu nướng cả con làm nhiều món ăn rất thích thú. Nhưng về sau nhiều quá ăn chán chúng tôi không ăn thịt cả con nữa mà chỉ bắt khiêng về dùng dao bén xẻo lấy hai sợi gân khổng lồ khép mở miệng sò to bằng bắp tay thái mỏng thành tấm theo kiểu máy gọt gỗ bút chì phơ khô để dành đem về biếu bạn bè nhắm rượu.
Ngôi đền thiêng
Nói đến những con sò khổng lồ này tôi không khỏi nhớ đến cái chết của anh Tế, một bạn đồng đội hiền lành mà đến nay vẫn còn là một nghi vấn trong đầu óc mọi người.
Nguyên gần bến tàu trên đảo có một cái đền tục danh gọi là Đền Đức Bà. Bên tàu nầy xây ở phía nam của đảo Hoàng Sa để tránh gió Bắc những khi biển động. Đền là một toà nhà xây rất kiên cố, lợp ngói, nhìn kiến trúc bên ngoài khi mới đến chúng tôi không ngờ đấy là một ngôi đền. Cạnh đền có một bảng lớn bằng mặt bàn một bên khắc chữ nho, một bên khắc chữ Pháp ghi sự tích người đầu tiên khám phá ra đảo nầy. Trong đền, trên bệ thờ là một bức tượng đồng đen đúc và trạm trổ một nữ thần đầu đội mũ giống như nơi tượng đài Địa Tạng Bồ Tát, một tay cầm một vật giống như gậy tích trượng, một tay để trên đùi. Người ta không biết gốc tích pho tượng này ở đâu chỉ nghe rằng người Pháp trước đây đã nhiều lần dự định chuyên chở đi nơi khác nhưng không thành công vì không xê dịch nổi hoặc khi thì xảy ra tai nạn ghe tàu, khi thì người chủ trương bị chết thảm…
Trước những hiện tượng siêu nhiên, cuối cùng người Pháp cũng đành nhượng bộ lập đền thờ pho tượng này ở cách bến tàu không xa. Các đơn vị lúc đến đồn trú hay trước khi rời đảo ra đi đều có làm heo gà tế lễ rất trọng thể xem như vị thần bảo hộ cho đảo. Rằm, mồng một hàng tháng các đơn vị đều có cắt người hương khói trang nghiêm.
Người ta nói rằng trước đây ngay cả người Pháp cũng thường thắp hương cúng thần tượng trong đền này khi đến cũng như lúc ra đi. Dưới bờ biển, ngay trước đền có một đầm nước khá sâu giữa đám san hô, trong đầm này mỗi khi nước rút người ta thường thấy rất nhiều tôm cá, đặc biệt là có một cặp mực nang dài hơn một thước và thật nhiều con sò khổng lồ to lớn hơn những nơi khác rất xa nhưng không ai dám bắt vì e ngại khi nghe người ta bàn tán với nhau rằng đó là cặp ngựa của ngài và những con sò linh thiêng chầu hầu Đức Bà.
Trong trung đội tôi có anh Tế có tiếng là bạo gan, một hôm rắn mắt xuống bắt mấy con sò thật to đưa về cắt gân đem phơi. Từ đó anh đau èo ọp và đâu độ 20 hôm sau thì anh ta chết, ngày nay mộ anh vẫn còn cô quạnh trên đảo vắng.
Người ta bàn tán với nhau là anh bị Đức Bà phạt, nhưng thực ra trong lúc anh đau thì trong đại đội tôi đã có đến mười người dần dần lâm bệnh có triệu chứng như anh, uống thuốc đem theo thứ gì cũng thấy không thuyên giảm. Chúng tôi từ độ ấy sáng nào cũng chăm tập thể thao, nhiều bạn lại rất siêng năng hương khói Đền Đức Bà và cũng từ đấy chúng tôi sống trong phập phồng lo ngại…
Ba tháng vui vẻ trôi qua nhưng chúng tôi đã sống trong sự ảm đạm và ái ngại từ ngày một số anh em đồng đội chúng tôi lần lượt ngã bệnh. Anh Hương, anh Oanh không còn vui vẻ kể chuyện khôi hài sau các bữa ăn. Anh Minh, anh Lương và anh Thuận biếng đánh đàn, thổi sáo. Anh Đức, một người nhiệt tâm tỉ mỉ sưu tầm công phu các loại vỏ sò, ốc không còn thơ thẩn ven bể nhặt những mẩu vỏ sò, có màu sắc rực rỡ như ngày nào. Anh Hinh, anh Mít chuyên viên đi tìm ổ trứng vích trên cát chán nản suốt ngày nằm lên nằm xuống dã dượi.
Anh Tấn, anh Liệu bị bệnh nặng hơn cả, hai chân tê bại, hai ống chân các các ngón chân không cử động được chút nào mặc dù trước đấy đã cố gắng tìm cách ngăn ngừa bằng thể dục, tắm nắng, xoa bóp. Hai anh buồn tủi sống trong tuyệt vọng, vẫn thường nuốt lệ khóc thầm. Anh Hoan, anh Bình, anh Hách hai chân phù thủng, tiểu tiện ít đi. Anh Lân, anh Hiền trước đây là những lực sỹ có hạng lại nổi tiếng là giỏi võ Bình Định một mình địch nổi 10 người nay bỗng mắc chứng nhọc mệt, hồi hộp. Mỗi khi gắng sức làm việc gì là tim đập mạnh, đau ở ngực, thỉnh thoảng còn đau nhói ở tim, dùng đủ mọi thứ thuốc đau tim, bổ tim của ban y tế đại đội mang theo nhưng hoàn toàn vô hiệu. Một số khoảng 20 anh em khác thì sức khoẻ suy nhược, ăn mất ngon, gầy trông thấy hoặc mê mệt ngồi đâu ngủ đấy.
Có một điều lạ là bầy gà còn lại hơn bốn trăm con của chúng tôi trước kia khoẻ mạnh dong dảy nay cũng thấy nhiều con mắc bệnh biếng ăn thường nằm tựa mình vào thành chuồng như thể chân bị đau, cánh xệ, nếu xua đuổi làm cho chúng hoảng sợ chúng run rẩy đứng dậy đi vòng quanh chuồng loạng quạng và xiêu té. Năm bảy hôm sau những con gà ấy bị tê liệt không đi được nữa và chẳng bao lâu thì chết.
Chúng tôi bàn tán với nhau có lẽ khí hậu trên đảo không hạp với người ở đất liền và khắc khoải trông đợi cho chóng đến ngày trở về Đà Nẵng.
Phần II: NGƯỜI KHÁCH LẠ KỲ DỊ
Ngày nối ngày lặng lẽ trôi cho đến một buổi trưa kia có một chiếc ghe buồm cỡ nhỏ cập bến. Thuỷ thủ và khách khách vỏn vẹn chỉ có một người trạc độ 40, mặt mày thông minh và rắn rỏi. Ông ta trình giấy tờ và tự giới thiệu bằng tiếng Việt ông ta tên Kimura, một nhà nghiên cứu về hải tảo học, có bằng Tiến sỹ vạn vật học, hằng năm thường đi khắp các đảo ở Thái Bình Dương để khảo sát liên quan giữa khí hậu và sự nảy nở các loài rong biển.
Ông ta cho biết hồi năm 1943 ông ta đã từng trú ngụ 3 năm tại Đông Dương để nghiên cứu về thảo mộc ở đây. Sau khi xem xét giấy tờ và kiểm soát ghe buồm chúng tôi hân hoan tiếp nhận người khách ngoại quốc mới.
Ngoài những giờ nghiên cứu rong rêu chung quanh đảo ông ta sống gần gũi thân mật với chúng tôi nhưng có một điều mời ông ta ăn chung với chúng tôi thì ông ta nhã nhặn từ chối và hằng ngày tự kiếm củi rồi xuống ghe lấy gạo lên thổi cơm ăn lấy một mình với một vài món ăn rất thanh đạm như rau cỏ hoang hái trong rừng hoặc rong bể nhặt ở quanh đảo xào với dầu và muối hoặc luộc ăn với tương hoặc sì dầu gì đó. Những món gà vịt hoặc tôm cá bắt được chúng tôi biếu ông ta thỉnh thoảng chỉ ăn chút ít thôi.
Một buổi sáng nọ, nhân lúc đưa ông ta đến xem trại chăn nuôi của chúng tôi, thiếu uý Hoan than phiền khí hậu ở trên đảo không được tốt lành, gà vịt và người ta ở lâu đều dần dần bị nhiễm khí độc của phong thổ rồi ngã bệnh. Ông ta nghe vậy tỏ vẻ đặc biệt lưu ý đến những con gà bệnh và sau một hồi xem xét kỹ lưỡng bệnh trạng từng con một, thức ăn và phân của chúng, ông ta ngỏ ý muốn chữa bệnh cho đàn gà xơ xác hiện có nhiều con dở sống dở chết vì chứng lơ ăn, thủng và bại. Dĩ nhiên là chúng tôi vui vẻ nhận lời, thêm vào đó óc tò mò muốn xem thử thuốc men của Nhật thần hiệu đến mức nào? Ông ta chọn ngay 10 con gà lớn có, nhỏ có, bệnh tình trầm trọng nhất, nhốt riêng một nơi và vội vã xuống ghe mang lên một chiếc hộp giấy bên trong có chừng 3 lon gạo bốc từng nắm nhỏ cho lồng gà bệnh nặng đó ăn dần cho đến khi no. Chúng tôi đợi ông ta cho gà uống thuốc xem thử thuốc gì nhưng chẳng thấy ông ta làm gì khác hơn.
Chúng tôi hỏi thì ông ta chỉ mỉm cười trả lời đây là thứ gạo đặc biệt được chế luyện sẵn thuốc bên trong rồi. Chúng tôi động hiếu kỳ xúm nhau vốc mỗi người một ít để quan sát thì thấy đấy chỉ là một thứ gạo đen điu chưa giã, ngửi xem thì cũng chẳng thấy có mùi thuốc men gì lạ, có người đánh bạo mum ít bột nếm thử cũng không thấy hương vị cay đắng chi đặc biệt.
– Xin các bạn yên lòng đợi kết quả, sớm thì độ 4,5 giờ sau, mà có chậm lắm thì một hai hôm là cùng. Ông Kimura hình như nhận thấy sự hoài nghi trong thái độ của chúng tôi nên đã nói với chúng tôi như vậy.
Chúng tôi giải tán chờ xem kết quả, còn ông khách Nhật thì mang số gạo còn dư lủi thủi xuống ghe.
Trưa hôm ấy tôi đang ngủ ngon giấc thì anh thượng sỹ Đính đến gọi giật giọng đánh thức tôi dậy:
– Ê, Hùng dậy xem! Có lẽ thằng cha Nhật đó khai gian nghề nghiệp rồi.
Tôi giật bắn mình ngồi dậy hốt hoảng hỏi:
– Gián điệp hả? Đến dọ thám đơn vị ta à? Tóm được tài liệu rồi sao?
Anh Đính chậm rãi đáp:
– Không phải vậy. Thằng cha Nhật đó có lẽ là bác sỹ thú y. Mới hồi sáng đến giờ mà mấy con gà mạnh cả rồi, chỉ có mấy tiếng đồng hồ sau khi ăn gạo của ông ta, các con gà đau gần chết bây giờ đều đứng dậy chạy quanh chuồng bằng chính cặp chân đã tê liệt bại xuội mấy hôm nay.
– Chỉ có thế mà làm người ta hoảng hồn!
Tôi theo anh Đính xuống chuồng gà và tuy đã nghe nói trước vẫn không khỏi ngạc nhiên thấy bầy gà liệt nhược xơ xác hồi sáng bây giờ bỗng trở nên tươi tỉnh và đi lại xung xăng quanh lồng. Thế rồi người này gọi người kia, chẳng bao lâu gần hết cả đại đội tôi đều đổ xô xúm đến xem phép lạ. Mọi người bàn tán rất nhiều mỗi người một câu ca tụng người Nhật thông minh hơn Tây và thuốc Nhật thần diệu! Trung uý đại đội trưởng ngỏ ý mua thêm một ít gạo quý giá kia để dự trữ và chữa cho những con gà khác đang đau. Ông Kimura vui vẻ tặng một bao lớn khẳn kín trong giấy ny lông và ba hôm sau thì tất cả những con gà bệnh đều lần lượt lành mạnh lại hết.
Nhớ lại câu chuyện ấy về sau hồi năm 1969, tôi có nuôi mấy chục con gà Mỹ cứ bệnh chết dần cho uống thuốc trụ sinh đủ thứ mà không bớt. Sau tôi thử dùng thứ gạo này thì quả nhiên một số lớn được cứu sống.
Bệnh quỷ thuốc tiên
Trong bữa ăn thân mật tổ chức để tỏ lòng cám ơn, lúc truyện trò anh Đờn đã kể tình trạng bệnh tật đang bành trướng trong đơn vị chúng tôi và hỏi ý kiến ông Kimura về cách chữa trị. Sau một hồi suy nghĩ, ông ta xin đến thăm các bệnh nhân và ngỏ ý nhận chữa những anh em nào tình nguyện chịu chữa theo phương pháp đặc biệt của ông ta. Trung uý đại đội trưởng ban đầu có đôi chút đắn đo về trách nhiệm nhưng sau đó thì đổi ý vui vẻ nhận lời. Anh Tấn và anh Liệu bị tê bại đang sống trong tuyệt vọng nghe vậy giơ tay tình nguyện lập tức, anh Bình, anh Hiền sau một phút do dự hỏi ý kiến nhau cũng xin chữa trị.
Ông Kimura lại xuống ghe và lễ mễ mang lên một bao gạo chừng 10 kí lô, một gói mè và một chai tương nhỏ. Chúng tôi bu quanh để xem ông trị bệnh.
– Trưa hôm nay tôi phải nấu và ăn ở đây một bữa để các bạn tập nấu và tập ăn cho đúng cách. Đây là lối thực tập để trị bệnh cho đúng phép.
– Ăn mà cũng phải tập nữa sao bác sỹ? Chắc sau khi ăn bác sỹ còn châm cứu cho bệnh nhân?
– Cần lắm chứ, người ta sở dĩ bệnh tật là vì cẩu thả trong cách ăn uống. Tôi không dùng đến khoa châm cứu để trị bệnh ở đây.
Thế rồi ông ta đong ba lon gạo, đích thân vo gạo, đổ nước bắc lên bếp. Ông giảng giải: “Gạo này vì không giã, nấu hơi lâu chín nên phải đổ nước nhiều hơn”. Lúc cơm sôi một chốc ông đổ vào một muỗng muối sống. Cơm cạn ông đậy nắp thật kín, bớt lửa, gạt than và để trên bếp hơn nửa giờ sau mới duông xuống. Thức ăn thì có muối mè, một nhúm rau luộc chấm với nước tương. Trước khi ăn ông giải thích: “Điều quan trọng nhất trong cách ăn để chữa bệnh này là phải nhai thật kỹ, nhai 100 lần một búng cơm, chờ cơm biến ra nước hồ mới nuốt”. Và bữa cơm thực tập đó bắt đầu, tuy thức ăn đạm bạc nhưng bốn bệnh nhân vui vẻ vì có ông khách bác học kia cùng tham dự, chung quanh lại có bạn bè tò mò lại xem. Cơm ít lại lạ miệng người nào cũng khen ngọt, béo ngon và ăn xong vẫn thấy còn thèm ăn nữa. Trước khi ra về ông Kimura dặn kỹ là ngoài bữa ăn không được ăn bất cứ thức gì khác và trong những bữa ăn sau không được ăn quá no dù là nhai kỹ…
Ba ngày trôi qua, phép lạ đã xuất hiện, hai chân anh Bình đã hết thủng; đến ngay thứ năm thì anh Hiền vui vẻ trở lại không còn mệt nhọc và hồi hộp nữa. Sáng hôm đó anh thử đi lại một bài quyền và cảm thấy đã bắt đầu phục hồi phong độ cũ. Mọi người đều có nhận xét như nhau là đi đại tiện rất tốt và ngủ rất ngon giấc. Anh Liên tê bại xem mòi bệnh trạng nặng hơn cả nhưng đến ngày thứ 7 thì cũng đã đứng dậy đi lại nhúc nhắc trong phòng, anh Tấn như được khuyến khích, đến sáng ngày thứ 9 cũng bắt đầu cử động được các ngón chân và đến chiều thì anh sung sướng đứng dậy nốt. Kết quả trọn vẹn xảy ra như một phép lạ.
Chúng tôi trong thâm tâm ai cũng muốn hỏi cách tẩm luyện thứ gạo huyền diệu này nhưng nghĩ rằng người ta ai lại dại gì mà chịu truyền bí quyết quý giá đó nên không hỏi nữa. Gạo quý chỉ còn độ 3 kí lô. Anh Hoan, anh Hách, anh Luân và độ 20 anh em khác sững sờ lo âu và hối tiếc bỏ mất dịp may. Ngày mốt ông Kimura sẽ từ biệt để đến khảo cứu các thứ rong biển lạ ở đảo Lô be cách đảo này chừng 2 hải lý về phía Tây Nam. Vị cứu tinh đi rồi, ai sẽ cứu chữa cho các người bạn chúng tôi đang đau?
Trước khi ra đi, trong lúc dự bữa tiệc tiễn đưa, ông Kimura mới tiết lộ cho chúng tôi biết rằng thứ gạo quý giá trị bệnh lâu nay không hề có tẩm luyện thuốc men gì cả. Nó chỉ được tẩm luyện bằng khí âm dương của Trời Đất, nó là thứ gạo thiên nhiên nguyên vẹn, không giã bỏ phần cám bên ngoài, nó là gạo lứt. Chúng tôi há hốc mồm ngạc nhiên, nhưng ông mỉm cười cho chúng tôi biết rằng đây là phương pháp trị bệnh do một vị thánh y Nhật tên Ohsawa phát minh, có khả năng chữa lành tất cả mọi bệnh nan y như ung thư, đau tim, phong cùi, huyết áp cao, lao, điên…v.v.
Những bệnh các bạn tôi hiện mắc chỉ là những bệnh rất tầm thường mà người Nhật gọi là bệnh Kakke mà tại các trại binh, nhà tù, cô nhi viện, ký túc xá học sinh thường mắc phải. Và ông kết luận một cách rất buồn bã rằng từ ngày hấp thụ văn minh Âu – Mỹ, ở Á Đông ta đã đi trái thiên nhiên vì vô ý thức ăn gạo máy cho nên bao nhiêu trẻ sơ sinh đã chết bất thình lình trong vòng tay người mẹ, bao người trẻ trung mắc những bệnh nan y và người già cả bị phù thủng hay tê liệt hoặc mắc ác bệnh do tê liệt thần kinh vì đã dại dột không biết mà bỏ lớp vỏ lụa quý giá bên ngoài của hạt gạo làm khiếm khuyết sự toàn thể của hạt gạo thiên nhiên, và làm chênh lệch mức quân bình âm dương của thức ăn quý giá Trời đã ban cho loài người.
Ông lại biếu cho đơn vị chúng tôi thêm 50 ki lô gạo lứt để chữa nốt cho những anh em đang bệnh và từ giã đảo trước sự luyến tiếc của chúng tôi, nhưng hình ảnh vĩnh viễn ghi sâu trong tâm khảm chúng tôi từ ngày ấy.
Ngày về
Nửa tháng sau, tất cả anh em trong đơn vị chúng tôi đều được khoẻ mạnh, gạo lứt cũng vừa hết và hai hôm nữa thì đúng bốn tháng là ngày chúng tôi xuống tàu trở về Đà Nẵng, tiếp tục cuộc đời chinh chiến, nhường đảo lại cho một đơn vị bạn tạm dừng bước nghỉ ngơi…
Kỷ niệm xưa mờ trong ký ức dày đặc khói lửa chiến tranh. Mới đây nhân tình cờ xem tác phẩm “Zen và Dưỡng sinh” nói về phương pháp ăn gạo lứt của giáo sư Ohsawa, lại nhân xem bản báo cáo đăng trên tạp chí California Tomorrow công bố dưới nhan đề “Tàn phá Đông Dương – di sản của sự có mặt của chúng ta” của một phái đoàn bác học thuộc Đại học đường Stanford tuyên bố rằng đất đai Việt Nam bị chai cứng trong nhiều năm vì thuốc khai quang. Bản báo cáo còn cho biết: “Khi chiến tranh kết thúc, sự khắc khổ mới chỉ bắt đầu”. Tôi sực nhớ lại những ngày thân thương trên đảo vắng, hy vọng nếu có đọc giả quân nhân nào có dịp đi trú đóng dài hạn ở đảo Hoàng Sa hoặc một chốn xa xăm nào nhiều lam sơn chướng khí nên nhớ mang theo một ít gạo lứt của quê hương để phòng thân khỏi lo ốm đau khi xa người thân quyến./.
Hoa Nghiêm
Nguồn: Thời Nay số 284, 285 (1972); Sưu tập trên Blog Bình Luận Án