Tuesday, August 4, 2020

Trong bán kính 50 cây số

Mây chiều nặng, sà xuống thấp. Ngã ba. Hai con đường đất giao nhau, vắng hoe, bụi đỏ bốc lên khi có gió tạt ngang. Cái bảng tên đường rỉ sét, gắn trên thanh gỗ, vẽ mũi tên chỉ về hai phía. Một mũi tên ghi Núi Thái, chỉ theo con đường chạy vào chân núi, khi hút tầm mắt, nó chạm vào sườn đá thì biến mất, đường cụt. Mũi tên còn lại chỉ một ngã dẫn vào xã Ðịnh Long – 5 km, ngã kia ghi Cao Cảnh – 3km, dẫn ra đường lộ lớn, đường trải nhựa, ra thị trấn, ra tỉnh, đi Hà Nội, đi Sài Gòn, qua Miên, qua Thái, có khi ra khỏi nước. Có khi tới Mỹ.
Hắn xuống xe ở lộ lớn, từ trưa. Xuống ở đó là ngẫu nhiên, hắn không chọn. Ðịnh mệnh chọn giùm. Khi thằng lơ hỏi hắn xuống ở đâu thì hắn bảo, “Ở đâu cũng được, mày cho tao xuống đâu thì tao xuống đó.”
“Ðm, ông nói ngang vậy? Ði xe đéo trả đủ tiền còn nói giọng cà chớn. Ðm, muốn chơi cha hả? Muốn gì? Ðm, xuống đây đi!” Thằng lơ la to với tài xế, “Ghé vô cho thằng này xuống đi anh Hải ơi.”
Hắn mở dây kéo cái túi xách đeo ở vai, thò tay vào, ngón tay chạm lưỡi dao sắc ngót, rồi lần xuống cái cán gỗ quấn dây dù, cầm sẵn, nhưng hắn kịp nghĩ lại, thấy mình vô lý, đã đi xe không trả đủ tiền thì sinh sự làm gì. Hắn nhảy xuống. Chiếc xe vù đi.
Ðứng tần ngần một lát, không còn chọn lựa nào khác, hắn từ từ đi bộ vào ngã ba này. Dọc đường không có quán xá. Mệt và buồn ngủ, hậu quả còn lại của bữa rượu tối qua. May trong xách tay còn khúc bánh mì, trái chuối và chai nước mà hắn đã mua ở bến xe. Và một xị rượu đế.
o O o
Từ trưa đến giờ chỉ có bốn chiếc xe chạy ngang. Một chiếc xe cày và một chiếc xe thùng gỗ chở phân làm bằng xác cá biển, hắn đứng ven đường vẫy tay xin nhưng cả hai xe đều không dừng lại. Chiếc xe chở phân để lại mùi tanh lợm giọng. Hai chiếc còn lại là xe gắn máy, nhưng khi nhác thấy hắn thì họ đều rồ tay ga, lạng ra giữa đường, phóng luôn, hắn không kịp phản ứng.
Ðm, giờ có chiếc nào đến thì mình sẽ đứng giữa đường chận lại chứ không đứng vẫy nữa. Hắn nghĩ thầm, rồi quyết định. Hắn đã quyết định.
Tao sẽ giết thằng đàn ông đầu tiên nào đi ngang đây mà tao thấy, bất kể già trẻ lớn bé, bất kể là ai!
Tao sẽ hiếp, rồi giết, bất cứ con đàn bà nào đi ngang đây mà tao thấy, bất kể già trẻ lớn bé, bất kể là ai!
Rồi sau đó thì sao?
Ðéo cần biết, tới đâu thì tới. 
Hắn lấy con dao trong xách tay ra. Lưỡi thép xám, dài hơn gang, cong cong theo dạng lá lúa, rất vừa tay và quen thuộc đến từng gờ thép. Hắn quấn cái áo thun bọc lưỡi dao rồi dắt sau lưng quần, kéo cái áo lính đang mặc xuống phủ chuôi dao lại.
o O o
Người kế tiếp không đi xe gắn máy mà đang đạp xe đạp. Không phải là đàn bà, cũng không phải là đàn ông, như hắn tính. Chiếc xe đạp sườn ngang cũ mèm, không có vè. Cái bánh sau được quấn lại bằng ruột xe.
Ông già nhảy xuống khi hắn vẫy tay chận lại.
“Mi muốn chi?”
“Tui lỡ đường. Chừ lạc…”
“Tên chi?”
“Dạ, Lộc.”
“Ở mô tới?”
“Dạ, ở trong nớ.”
“Trong nớ là chỗ mô?”
“Dạ, Sài Gòn.”
“Ở Sài Gòn răng nói tiếng ngoài ni?”
“Dạ, nhà tui ở Quảng, rồi vô Sài Gòn.”
“Chừ đi mô? Ðịnh Long hay Cao Cảnh?”
“Dạ, chưa tính đi mô. Chắc về…”
“Về mô? Chỗ ni chừ hết xe rồi.”
“Dạ, tui chờ xe từ trưa, mà không có chiếc nào dừng.” 
“Không có xe mô đón khách hay cho đi nhờ ở đây. Muốn đi thì phải đi chuyến sớm, ở sân vận động trong xã.”
Hắn ước lượng khoảng cách giữa hắn và ông già, xem liệu rút dao ra thì có kịp chồm tới để đâm không. Ðâm vào cổ, một nhát một thôi, chỗ những vằn gân xanh đang nổi lên, cho chắc ăn. Một nhát thôi. Chưa được, ông vẫn còn ngoài tầm tay, gượm chút nữa đã.
“Chừ tui phải mần răng đây?” Hắn hỏi.
“Thầy mô biết! Mi có giấy tờ chi?”
“Dạ, có. Có chứng minh nhân dân.”
“Có giấy chi nữa? Hộ khẩu ở mô?”
“Dạ, chỉ có vậy thôi. Không có hộ khẩu.”
“Rứa thì không được. Du kích xã sẽ giữ lại. Rồi mai sẽ giải ra ngoài huyện để xác minh.”
“Chừ mần răng?”
“Răng thầy biết được…”
“Hay là… ông cho tui trọ lại đêm nay đi? Ông giúp giùm…”
“Thầy biết mi là ai, quen biết chi mà giúp? Nửa đêm xã tới xét hộ khẩu thì nói năng làm răng?”
Hắn bước tới một bước, rồi hai bước. Ông già bước lui lại, kéo chiếc xe lết theo, một tay nắm ghi-đông một tay giữ trên yên xe. Thấy ông có vẻ thủ thế, hắn đứng sựng lại.
“Thầy là thầy tu, không có của cải chi mô. Muốn lấy cái xe thì thầy cho.” Ông già nói.
“Dạ, tui nào dám, tui có ý chi mô, chỉ xin ông cho ngủ nhờ.”
Ông già buông tay ở yên xe, chìa ra. “Ðưa dao đây!”
“Dạ…”
“Ðưa dao đây!” Ông già nói. 
Hắn lạnh lưng. Làm sao ông biết mình có dao? Rồi không kịp nghĩ gì thêm, hắn hất cái xách tay trên vai xuống đất, vòng tay ra sau lưng rút cây dao, cái áo thun quấn dao rớt xuống đất. Lưỡi dao lăm lăm chĩa về ông già. Hắn dấn tới một bước.
Ông già gằn giọng, “Ðứng lại đó. Ðưa dao đây. Ðưa chuôi dao đây!”
Hắn vung tay dao lên, nhưng khựng lại, trở tay kia cầm lưỡi dao, ngần ngừ, rồi chìa chuôi dao ra. Ông già gạt chống xe, chồm tới. Lúc này thì cổ ông ở vừa tầm dao, nếu hắn muốn, nhưng hắn bất động.
Ông già nhón tay cầm lấy chuôi dao, hắn buông lưỡi dao ra.
Ông già nâng con dao lên ngang tầm mắt ngó, đưa sát vào mũi ngửi, rồi xoay tay đưa chuôi dao lại phía hắn, nói thong thả, “Thôi, cất lại vô xách đi. Theo thầy về chùa, rồi tính.”
Hắn líu ríu nhận dao, cúi nhặt cái áo thun và túi xách lên, bỏ dao vào.
“Mi chở, thầy ngồi sau. Chùa cũng không xa, chừng ba cây số thôi. Về nhanh còn cơm nước nữa, kẻo tối.” Ông già đẩy nhẹ chiếc xe đạp cho hắn, nói tiếp, “Ðưa cái xách thầy cầm cho, không sợ mất đâu, có chi quý mô mà mất. Thầy phải ngồi sau lưng mi, kẻo có khi mi lại đổi ý.” Ông cười, rồi ngồi lên yên sau, lặp lại, “Về chùa rồi tính, thầy đổi nghề, đổi đời cho…”
“Dạ…”
Hắn lên xe, gò lưng đạp. Chiếc xe lảo đảo chạy về phía chân núi.
o O o
Bảy năm sau, sư phụ qua đời. Hắn lo được hộ khẩu, thừa hưởng cái chùa, từ chức sãi hắn lên chức hòa thượng. Nghề này có vẻ hạp. Hắn không phải đâm giết ai từ dạo đó.
Theo lời sư phụ dạy, hắn gói kỹ con dao trong mấy lớp bao ni-lon, bỏ vào một hộp thiếc cũ đựng bánh, rồi mang chôn dưới một trong những cái lu nước sau hậu liêu.
Tám năm kế tiếp, từ một cái nền chùa hoang vắng, mái xiêu vẹo, hắn trùng tu thành ngôi linh tự nguy nga, lúc nào khói hương cũng nghi ngút. Hắn nhận thêm vài đệ tử nhưng chưa có ý muốn truyền y bát cho ai.
Hắn nổi tiếng đạo cao đức trọng hơn cả sư phụ. Tín đồ trong vùng rất yêu quý và trọng vọng hắn. Nhất là những bà góa, những bà ngụ trong bán kính 50 cây số. 
Thận Nhiên 

Nguồn: baotreonline.com 

Giỡn mặt chính quyền

Cáp Kim (Ha Jin – 哈金ra đời ở Liêu Ninh, Trung Quốc. Ông gia nhập Quân đội Giải phóng Nhân dân, vào năm 1969, trong thời Cách mạng Văn hóa. Năm 1981, ông tốt nghiệp Cử nhân ngành tiếng Anh, rồi ba năm sau lấy bằng Thạc sĩ về văn học Anh-Mỹ.
Cáp Kim được học bổng tại đại học Brandeis khi biến cố Thiên An Môn năm 1989 xảy ra. Ông được một số giải thưởng văn chương. Nhiều truyện ngắn của ông in trong các tuyển tập truyện ngắn hay nhất của Mỹ và những tạp chí văn chương đương đại.
Ông hiện đang dạy ở đại học Boston.
Cáp Kim
Sau cùng thì hai tay cà rỡn kể chuyện tiếu lâm bị tóm cổ. Họ chưa biết an ninh đang truy tìm mình nên mò vào thành phố mà không ngờ vực gì. Ngay khi vừa bước vào cửa hàng Kim khí Ðiện máy thì một nhóm công an lao tới, đè nghiến họ xuống nền xi-măng rồi còng tay ra sau lưng. Hai gương mặt lấm lem mạt cưa sững sờ, họ la hoảng, “Bắt nhầm người rồi, các đồng chí công an ơi! Bầy tui có chôm chỉa chi mô!”
“Câm mồm lại!”
“Hự…”
Công an nhét mấy miếng giẻ lau nhặt trong chậu vào miệng họ, rồi lôi xềnh xệch ra chiếc xe tải trắng đang chờ ngoài đường.
Ở đồn công an, cuộc thẩm vấn bắt đầu ngay lập tức. Tuy nhiên, nó diễn ra không được suôn sẻ vì hai anh nông dân cứ chối đây đẩy rằng họ không loan truyền câu chuyện phản động nào cả. Trưởng công an – một tên mặt rỗ chằng rỗ chịt, đeo kính cận — nhắc lại với họ câu chuyện tiếu lâm mà họ đã kể. Mọi người kinh ngạc, khi anh nông dân cao nhòng hỏi tay trưởng công an, “Ðặng Tiểu Bình là ai vậy? Tui chưa từng gặp ổng.” Rồi quay sang anh bạn, “Mày có gặp chả chưa?”
“Ờ, ờ, tao đoán ổng là một ông tướng hay một ông cán bộ cỡ bự.” Anh nông dân lùn đáp.
“Ðừng giả nai nữa!” Trưởng công an nạt, “Ðồng chí Ðặng Tiểu Bình là chủ tịch của đảng ta và đất nước ta.”
“Thật vậy sao?” Anh nông dân cao hỏi, “Ðồng chí nói rằng giờ ổng là số một lận à?”
“Ðúng vậy.”
“Còn Mao Chủ tịch thì sao? Bầy tui chỉ biết Mao Chủ tịch thôi à.” 
“Ðồng chí ấy qua đời sáu năm rồi. Bọn mày không biết à?”
“Thật vậy sao?” Anh lùn khóc òa, “Tui đâu biết đồng chí ấy tiêu rồi. Ổng là Hoàng đế của bầy tui – à không, như là một ông cố nội thì đúng hơn. Hình của đồng chí ấy tui vẫn còn treo trên vách ở nhà.”
gion-mat-chinh-quyen
Bọn công an cố ghìm để khỏi bật cười. Sếp của chúng trầm ngâm suy nghĩ. Trước khi thẩm vấn, gã nghĩ rằng mình sẽ dễ dàng khuất phục hai thằng nhà quê này. Giờ thì rõ ràng chúng là những thằng rất láu cá, chúng đang giả ngu để tránh bị buộc tội. Gã nghĩ hôm nay nên tạm buông chúng ra — giờ cũng đã chiều rồi – rồi gã sẽ tìm ra cách buộc chúng thú tội. Gã ra lệnh cho lính mang nhốt hai thằng vào nhà giam đã.
BẢY TUẦN TRƯỚC, hai anh nông dân bước vào cửa hàng mậu dịch Dương Quang trên đường Hòa Bình. “Cho bầy tui ngó cái đôi dép nhựa kia cái đi?” Ðứng ở quầy hàng, anh cao gõ những ngón tay to bè lên mặt kính.
Ba cô bán hàng đang ngồi ở rìa cánh cửa sổ rộng, trông ra những ánh đèn giao thông trên con đường. Các cô dừng nói chuyện, rồi một cô đứng dậy bước tới. “Số mấy?” Cô hỏi.
“Bốn mươi hai.” Anh cao đáp. 
Cô trao anh một đôi. Chỉ vào miếng giấy ghi giá, cô nói, “Năm – năm mươi.”
“Cái gì?” Anh lùn la lớn. “Tháng rồi nó chỉ có năm quan một đôi thôi. Sao giờ lại năm quan năm mươi? Lạm phát mười phần trăm trong một tháng lận à? Thiệt là điên không chứ!”
“Năm quan năm mươi.” Cô gái phát cáu. Cô nhăn mũi lại, cánh mũi có dạng của một múi tỏi to đùng.
“Quá đắt với lão gia rồi.” Anh cao nói, anh đâu chỉ chừng mới trên ba lăm. Anh dằn đôi dép xuống quầy cái thịch.
Khi hai người đi ra, anh cao đập tay xuống sàn nhà và nói lớn với bạn, “Mẹ kiếp, giá món gì cũng lên vùn vụt – mà chủ tịch của mình thì chẳng bao giờ chịu lớn.”
Anh lùn cười khì khì, đía vào, “Ðúng vậy, cái thằng còi ấy chẳng chịu thay đổi chút nào.”
Nghe họ nói, ba cô bán hàng cùng bật cười rúc rích. Hai anh nông dân quay lại, giở hai cái mũ xanh trên đầu ra vẫy và cười với các cô, nụ cười như dấu ngoặc to chảng trên hai gương mặt đen nhẻm.
Chỉ trong một giờ, câu chuyện tiếu lâm xoáy tung không khí cửa hàng: “Giá món gì cũng lên vùn vụt – chỉ chủ tịch Ðặng Tiểu Bình thì chẳng bao giờ chịu lớn.”
Chỉ trong một ngày, hàng ngàn người dân trong thành phố nghe câu chuyện tiếu lâm. Như trò ma quỷ, chẳng mấy chốc nó bắt đầu ám vào mọi văn phòng, cơ xưởng, nhà hàng, rạp hát, nhà tắm, ngách hẻm, làng xóm, nhà ga.
HAI ANH NÔNG DÂN ngủ khò khò trong nhà giam, sung sướng thưởng thức cháo mạch và bí ngô hầm miễn phí, nhưng họ vẫn chưa hình dung ra mình đã phạm trọng tội gì. 9 giờ sáng, ba cô nhân viên cửa hàng mậu dịch đến đồn công an. Một cô được lệnh kể lại mình đã nghe hai anh nông dân nói những gì. Cô chỉ vào gương mặt lẽm của anh cao và cung khai, “Ảnh nói, ‘Giá món gì cũng lên vùn vụt – chỉ chủ tịch Ðặng Tiểu Bình thì chẳng bao giờ chịu lớn.”
“Con mẹ nó!” Anh cao gào lên và vỗ vỗ đầu gối, đôi mắt xếch lóe lên. “Tui chưa từng nghe gì về ổng. Làm sao tui có thể xạo xự văng ra cái tên kỳ cục đó chứ?”
Anh lùn đía vào. “Bầy tui có nhắc nhở gì đồng chí ấy bao giờ đâu. Bầy tui nói là, ‘Chủ tịch của mình thì sẽ chẳng bao giờ thay đổi.’” 
“Chính xác là chúng mày đã nói gì?” Tay công an hói đầu, sếp của cả nhóm trinh sát hỏi.
Anh nông dân cao đáp, “‘Giá món gì cũng lên vùn vụt, mà chủ tịch của mình thì chẳng bao giờ chịu lớn.’ Ý tui muốn nói là ông Lư Chủ tịch của bầy tui – ở cái xã của bầy tui.”
Anh nông dân lùn đía vào, “Lư Còi là thằng cha khó chịu thấy mẹ. Ai cũng ghét hắn như ghét cứt. Hắn không chịu trả cho bầy tui nhiều hơn một quan rưỡi cho một ngày công, bởi vì hắn muốn dùng tiền để xây cái hồ nuôi cá trê và cá chép đầu bự. Thứ tôm tép như bầy tui thì hưởng được đéo gì từ cái hồ cá đó chứ? Cứt cá cũng đéo có chứ nói gì cá. Ai cũng biết rốt cục thì cá mú gì cũng chui tuốt vào bụng mấy cha cán bộ. Nếu không tin thì ông đi kiểm tra xem có phải Lư Chủ tịch là một thằng quỷ còi cọc hay không thì biết.” Anh ngoác miệng cười hềnh hệch, chìa hàm răng sâu ra.
Vài người, đàn ông lẫn đàn bà, cười khúc khích, nhưng họ vội nín bặt khi thấy mấy bộ mặt hắc ám của bọn nhân viên điều tra.
Tay sếp an ninh buộc các cô mậu dịch nhớ lại chính xác những lời nguyên thủy trong câu chuyện. Gã hoang mang tột độ khi họ đều nhớ rằng anh nông dân cao đúng là đã nói “mà chủ tịch của mình thì chẳng bao giờ chịu lớn.” Ðúng vậy thiệt, khi họ kể lại các lời nói ấy với người khác thì họ cũng không nhắc nhở gì tới Ðặng Tiểu Bình. Một cách nào đó trong tiến trình phổ biến, thì câu chuyện tiếu lâm đã thay đổi thành cái hình trạng ghê gớm hiện nay của nó. Có thể nào mọi chuyện này đã hình thành từ một sự diễn dịch sai lạc?  Có lẽ vậy, mà cũng có lẽ không như vậy.
Bọn điều tra viên lúng túng như gà mắc tóc. Làm sao chúng có thể xác quyết khi nào và ở đâu mà câu chuyện tiếu lâm đã đưa ra sự nhập nhằng nguyên thủy và mang cái ý nghĩa cuối cùng của nó chứ? Ðã chắc gì các vị lãnh đạo của chúng sẽ chấp nhận sự diễn dịch sai lạc là câu giải thích cho chuyện đã xảy ra. Trọng án là sự việc đã rồi. Và làm sao có thể có một trọng án mà không có thủ phạm cơ chứ? Ngay cả khi người ta chẳng bao giờ phát hiện ra sự diễn dịch sai lạc được tính toán rất kỹ này, thì vẫn phải có một kẻ nào đó chịu trách nhiệm cho cái văn bản cuối cùng của câu chuyện tiếu lâm. Thế thì, chúng nên tiến hành cuộc thẩm vấn như thế nào đây?
Tay sếp an ninh lại ra lệnh đưa hai anh nông dân về phòng giam. Rồi gã điều một chiếc xe jeep tới cái xã tìm Lư Chủ tịch mang về đây. 
MỌI NGƯỜI ÐỀU CÓ ẤN TƯỢNG với vẻ đẹp trai của Lư Chủ tịch: vầng trán rộng, hàm răng vàng ngà, lông mày xoăn, đôi mắt to được che dưới hàng mi mảnh. Gã có gương mặt đẹp trai và thông minh quá cỡ! Nếu gã không cao chỉ 97 cen-ti-met thì người ta dễ dàng cho rằng gã là một tài tử điện ảnh. Thêm nữa, gã có những tác phong cao đạo, và một giọng nói thanh nhã cho tới nỗi ai cũng cho rằng gã là một kẻ có học. Chẳng lạ gì khi với một thể chất dị dạng như vậy mà gã vẫn cai quản được một cái xã lớn. Vào buổi trưa gã gặp tay sếp an ninh và nói, “Này, Ðồng chí Trưởng ban, ông phải trừng trị hai thằng du côn đó nhé, dạy cho chúng một bài học nhớ đời. Nếu không thì làm sao tôi có thể quản ba mươi mốt ngàn dân được chứ? Ở nông thôn không có vị lãnh đạo nào có thể cam tâm chịu làm trò cười cho chúng chế nhạo.”
“Tôi rất thông cảm với điều đó,” Tay sếp an ninh nói. “Thật ra, tuần rồi ông chủ tịch tỉnh đã gọi cho thành phố chúng tôi hỏi về vụ này. Hẳn Bắc kinh cũng biết chuyện này rồi.”
Vào 2:10 chiều cuộc thẩm vấn bắt đầu lại. Sau vài phút ngồi trong phòng, hai anh nông dân nằng nặc cho rằng họ bị oan và đáng được phóng thích. Họ trình bày rằng cả hai đều xuất thân trong gia đình bần cố nông và luôn yêu Ðảng và quê hương xã hội chủ nghĩa, mặc dù họ chưa nhiệt thành trong việc học tập chính trị và xao lãng những sự kiện hiện hành. Họ hứa với tay sếp rằng họ sẽ bỏ công sức để tự học tập và sẽ không bao giờ gây chuyện phiền nhiễu nữa. Họ hứa, việc đầu tiên mà họ sẽ làm ngay sau khi được thả là đi mua một cái ra-đi-ô hầu có thể theo dõi tin tức.
Tay sếp an ninh xua tay cắt lời họ. “Bọn mày vẫn không chịu nhận trách nhiệm về chuyện phỉ báng Ðặng Chủ tịch hả? Vậy thì làm sao tao có thể thả bọn mày được chứ? Thái độ của bọn mày không đúng chút nào.”
“Trời ơi!” Anh nông dân lùn rên rỉ. “Ðây là chuyện hiểu lầm. Ðồng chí Công an ơi, làm ơn làm phước…”
“Ðiều đó không thích đáng,” tên sếp nói. “Hãy xem xét sự việc như vầy nghen. Giả dụ rằng có một câu trong một cuốn sách có thể được đọc bằng nhiều cách khác nhau, và từ nó mà có kẻ chế nó thành tư tưởng phản động. Vậy thì, ai là người sẽ phải chịu trách nhiệm cho việc đọc đó – người viết sách hay người đọc sách?”
“Ừmmmm… chắc là người viết sách quá,” Anh cao nói.
“Chính xác. Mọi chứng cứ đều chỉ ra rằng hai thằng mày đồng tác giả cái chuyện phỉ báng, vậy thì tụi mày phải chịu tội cho tất cả mọi hậu quả.”
“Vậy có nghĩa là ông không thả cho bầy tui về nhà hả?” Anh lùn hỏi. 
“Ðúng vậy.”
“Ông bỏ tù bầy tui bao lâu chứ?”
“Chuyện này còn tùy – có thể một tháng, có thể suốt đời.”
“Cái gì?” Anh cao la lên. “Tui chưa lợp cái mái nhà cho mùa đông sắp tới mà. Mấy đứa con của tui sẽ chết cóng nếu ông bắt bỏ tù tui…”
“Chú mày vẫn không chịu hiểu gì ráo!” Lư Chủ tịch gầm lên và đập bàn tay nung núc thịt xuống mặt bàn. “Cả hai đứa tụi mày nên lấy làm may mắn là tụi mày vẫn còn sống. Có bao nhiêu đứa đã bị tử hình vì chúng loan truyền tin đồn phản cách mạng rồi? Hãy ngồi tù ở đây mà ăn năn hối cải để thành con người mới. Tao sẽ báo cho gia đình tụi mày biết chỗ nào để gởi áo quần lót, nếu tụi mày có cái nào.”
Mọi người kinh ngạc quay nhìn gã đàn ông bé choắt đang đứng trên cái ghế bọc da. Không giày, hai bàn chân to bè trong đôi vớ len màu tím.
Tay sếp an ninh ra lệnh cho lính gác, “Giải chúng tới trại giam thành phố và nhốt chung với bọn chính trị phạm.” Gã tháo kính xuống, nhếch mép cười rồi chùi tròng kính lên tay áo. Thật vậy, gã không thể thông qua một bản án dứt điểm cho hai gã cà rỡn khoái kể chuyện tiếu lâm này, bởi vì chiều dài của án tù còn tùy thuộc vào thời gian bao lâu chính quyền tỉnh còn quan tâm tới vụ này.
“Lư Chủ tịch ơi, làm ơn làm phước xin tha cho em út giùm đi,” Anh cao nài xin.
Lư Chủ tịch nói, “Ðáng đời mày. Ðể xem tụi mày còn dám chế bậy chế bạ nữa không cho biết.”
“Tao chế cho tổ tiên loắt choắt nhà mày, thằng quỷ Lư còi kia!” Anh nông dân lùn gào lên, giậm chân thình thịch xuống sàn nhà. Bốn tay công an bước tới, chụp tay hai phạm nhân rồi lôi họ đi.
CK
Thận Nhiên dịch từ nguyên tác “A bad joke” trong New Sudden Fiction của nxb W.W NORTON & COMPANY.

Nguồn: baotreonline.com 

Monday, August 3, 2020

Chiếc Lá Cuối Cùng – The Last Leaf 

O. Henry

Chiếc Lá Cuối Cùng – The Last Leaf – O. Henry
In a little district west of Washington Square, the streets have run crazy and broken themselves into small strips called “places.” These “places” make strange angles and curves. One Street crosses itself a time or two. An artist once discovered a valuable possibility in this street. Suppose a collector with a bill for paints, paper and canvas should, in traversing this route, suddenly meet himself coming back, without a cent having been paid on account! 

So, to quaint old Greenwich Village the art people soon came prowling, hunting for north windows and eighteenth-century gables and Dutch attics and low rents. Then they imported some pewter mugs and a chafing dish or two from Sixth Avenue, and became a “colony.” 

At the top of a squatty, three-story brick Sue and Johnsy had their studio. “Johnsy” was familiar for Joanna. One was from Maine; the other from California. They had met at the table d’hôte of an Eighth Street “Delmonico’s,” and found their tastes in art, chicory salad and bishop sleeves so congenial that the joint studio resulted. 

That was in May. In November a cold, unseen stranger, whom the doctors called Pneumonia, stalked about the colony, touching one here and there with his icy fingers. Over on the east side this ravager strode boldly, smiting his victims by scores, but his feet trod slowly through the maze of the narrow and moss-grown “places.” 

Mr. Pneumonia was not what you would call a chivalric old gentleman. A mite of a little woman with blood thinned by California zephyrs was hardly fair game for the red-fisted, short-breathed old duffer. But Johnsy he smote; and she lay, scarcely moving, on her painted iron bedstead, looking through the small Dutch window-panes at the blank side of the next brick house. 

One morning the busy doctor invited Sue into the hallway with a shaggy, grey eyebrow. 

“She has one chance in – let us say, ten,” he said, as he shook down the mercury in his clinical thermometer. ” And that chance is for her to want to live. This way people have of lining-u on the side of the undertaker makes the entire pharmacopoeia look silly. Your little lady has made up her mind that she’s not going to get well. Has she anything on her mind?” 

“She – she wanted to paint the Bay of Naples some day.” said Sue.  

“Paint? – bosh! Has she anything on her mind worth thinking twice – a man for instance?”    

“A man?” said Sue, with a jew’s-harp twang in her voice. “Is a man worth – but, no, doctor; there is nothing of the kind.” 

“Well, it is the weakness, then,” said the doctor. “I will do all that science, so far as it may filter through my efforts, can accomplish. But whenever my patient begins to count the carriages in her funeral procession I subtract 50 per cent from the curative power of medicines. If you will get her to ask one question about the new winter styles in cloak sleeves I will promise you a one-in-five chance for her, instead of one in ten.” 

After the doctor had gone Sue went into the workroom and cried a Japanese napkin to a pulp. Then she swaggered into Johnsy’s room with her drawing board, whistling ragtime. 

Johnsy lay, scarcely making a ripple under the bedclothes, with her face toward the window. Sue stopped whistling, thinking she was asleep. 
She arranged her board and began a pen-and-ink drawing to illustrate a magazine story. Young artists must pave their way to Art by drawing pictures for magazine stories that young authors write to pave their way to Literature. 

As Sue was sketching a pair of elegant horseshow riding trousers and a monocle of the figure of the hero, an Idaho cowboy, she heard a low sound, several times repeated. She went quickly to the bedside. 

Johnsy’s eyes were open wide. She was looking out the window and counting – counting backward. 

“Twelve,” she said, and little later “eleven”; and then “ten,” and “nine”; and then “eight” and “seven”, almost together. 

Sue look solicitously out of the window. What was there to count? There was only a bare, dreary yard to be seen, and the blank side of the brick house twenty feet away. An old, old ivy vine, gnarled and decayed at the roots, climbed half way up the brick wall. The cold breath of autumn had stricken its leaves from the vine until its skeleton branches clung, almost bare, to the crumbling bricks. 

“What is it, dear?” asked Sue. 

“Six,” said Johnsy, in almost a whisper. “They’re falling faster now. Three days ago there were almost a hundred. It made my head ache to count them. But now it’s easy. There goes another one. There are only five left now.” 

“Five what, dear? Tell your Sudie.” 

“Leaves. On the ivy vine. When the last one falls I must go, too. I’ve known that for three days. Didn’t the doctor tell you?” 

“Oh, I never heard of such nonsense,” complained Sue, with magnificent scorn. “What have old ivy leaves to do with your getting well? And you used to love that vine so, you naughty girl. Don’t be a goosey. Why, the doctor told me this morning that your chances for getting well real soon were – let’s see exactly what he said – he said the chances were ten to one! Why, that’s almost as good a chance as we have in New York when we ride on the street cars or walk past a new building. Try to take some broth now, and let Sudie go back to her drawing, so she can sell the editor man with it, and buy port wine for her sick child, and pork chops for her greedy self.” 
“You needn’t get any more wine,” said Johnsy, keeping her eyes fixed out the window. “There goes another. No, I don’t want any broth. That leaves just four. I want to see the last one fall before it gets dark. Then I’ll go, too.” 
“Johnsy, dear,” said Sue, bending over her, “will you promise me to keep your eyes closed, and not look out the window until I am done working? I must hand those drawings in by to-morrow. I need the light, or I would draw the shade down.”  

“Couldn’t you draw in the other room?” asked Johnsy, coldly.  “I’d rather be here by you,” said Sue. “Beside, I don’t want you to keep looking at those silly ivy leaves.” 

“Tell me as soon as you have finished,” said Johnsy, closing her eyes, and lying white and still as fallen statue, “because I want to see the last one fall. I’m tired of waiting. I’m tired of thinking. I want to turn loose my hold on everything, and go sailing down, down, just like one of those poor, tired leaves.” 

“Try to sleep,” said Sue. “I must call Behrman up to be my model for the old hermit miner. I’ll not be gone a minute. Don’t try to move ’til I come back.” 
Old Behrman was a painter who lived on the ground floor beneath them. He was past sixty and had a Michael Angelo’s Moses beard curling down from the head of a satyr along with the body of an imp. Behrman was a failure in art. Forty years he had wielded the brush without getting near enough to touch the hem of his Mistress’s robe. He had been always about to paint a masterpiece, but had never yet begun it. For several years he had painted nothing except now and then a daub in the line of commerce or advertising. He earned a little by serving as a model to those young artists in the colony who could not pay the price of a professional. He drank gin to excess, and still talked of his coming masterpiece. For the rest he was a fierce little old man, who scoffed terribly at softness in any one, and who regarded himself as especial mastiff-in-waiting to protect the two young artists in the studio above. 

Sue found Behrman smelling strongly of juniper berries in his dimly lighted den below. In one corner was a blank canvas on an easel that had been waiting there for twenty-five years to receive the first line of the masterpiece. She told him of Johnsy’s fancy, and how she feared she would, indeed, light and fragile as a leaf herself, float away, when her slight hold upon the world grew weaker. 

Old Behrman, with his red eyes plainly streaming, shouted his contempt and derision for such idiotic imaginings. 

“Vass!” he cried. “Is dere people in de world mit der foolishness to die because leafs dey drop off from a confounded vine? I haf not heard of such a thing. No, I will not bose as a model for your fool hermit-dunderhead. Vy do you allow dot silly pusiness to come in der brain of her? Ach, dot poor leetle Miss Yohnsy.” 

“She is very ill and weak,” said Sue, “and the fever has left her mind morbid and full of strange fancies. Very well, Mr. Behrman, if you do not care to pose for me, you needn’t. But I think you are a horrid old – old flibbertigibbet.” 

“You are just like a woman!” yelled Behrman. “Who said I will not bose? Go on. I come mit you. For half an hour I haf peen trying to say dot I am ready to bose. Gott! dis is not any blace in which one so goot as Miss Yohnsy shall lie sick. Some day I vill baint a masterpiece, and ve shall all go away. Gott! yes.” 

Johnsy was sleeping when they went upstairs. Sue pulled the shade down to the window-sill, and motioned Behrman into the other room. In there they peered out the window fearfully at the ivy vine. Then they looked at each other for a moment without speaking. A persistent, cold rain was falling, mingled with snow. Behrman, in his old blue shirt, took his seat as the hermit miner on an upturned kettle for a rock. 

When Sue awoke from an hour’s sleep the next morning she found Johnsy with dull, wide-open eyes staring at the drawn green shade. 

“Pull it up; I want to see,” she ordered, in a whisper. 

Wearily Sue obeyed.  

But, lo! after the beating rain and fierce gusts of wind that had endured through the livelong night, there yet stood out against the brick wall one ivy leaf. It was the last one on the vine. Still dark green near its stem, with its serrated edges tinted with the yellow of dissolution and decay, it hung bravely from the branch some twenty feet above the ground. 

“It is the last one,” said Johnsy. “I thought it would surely fall during the night. I heard the wind. It will fall to-day, and I shall die at the same time.” 
“Dear, dear!” said Sue, leaning her worn face down to the pillow, “think of me, if you won’t think of yourself. What would I do?” 

But Johnsy did not answer. The lonesomest thing in all the world is a soul when it is making ready to go on its mysterious, far journey. The fancy seemed to possess her more strongly as one by one the ties that bound her to friendship and to earth were loosed. 

The day wore away, and even through the twilight they could see the lone ivy leaf clinging to its stem against the wall. And then, with the coming of the night the north wind was again loosed, while the rain still beat against the windows and pattered down from the low Dutch eaves. 

When it was light enough Johnsy, the merciless, commanded that the shade be raised. 

The ivy leaf was still there. 

Johnsy lay for a long time looking at it. And then she called to Sue, who was stirring her chicken broth over the gas stove. 

“I’ve been a bad girl, Sudie,” said Johnsy. “Something has made that last leaf stay there to show me how wicked I was. It is a sin to want to die. You may bring a me a little broth now, and some milk with a little port in it, and – no; bring me a hand-mirror first, and then pack some pillows about me, and I will sit up and watch you cook.” 

And hour later she said:  “Sudie, some day I hope to paint the Bay of Naples.” 

The doctor came in the afternoon, and Sue had an excuse to go into the hallway as he left. 

“Even chances,” said the doctor, taking Sue’s thin, shaking hand in his. 

“With good nursing you’ll win.” And now I must see another case I have downstairs. Behrman, his name is – some kind of an artist, I believe. Pneumonia, too. He is an old, weak man, and the attack is acute. There is no hope for him; but he goes to the hospital to-day to be made more comfortable.” 

The next day the doctor said to Sue: “She’s out of danger. You won. Nutrition and care now – that’s all.” 

And that afternoon Sue came to the bed where Johnsy lay, contentedly knitting a very blue and very useless woollen shoulder scarf, and put one arm around her, pillows and all. 

“I have something to tell you, white mouse,” she said. “Mr. Behrman died of pneumonia to-day in the hospital. He was ill only two days. The janitor found him the morning of the first day in his room downstairs helpless with pain. His shoes and clothing were wet through and icy cold. They couldn’t imagine where he had been on such a dreadful night. And then they found a lantern, still lighted, and a ladder that had been dragged from its place, and some scattered brushes, and a palette with green and yellow colours mixed on it, and – look out the window, dear, at the last ivy leaf on the wall. Didn’t you wonder why it never fluttered or moved when the wind blew? Ah, darling, it’s Behrman’s masterpiece – he painted it there the night that the last leaf fell.” 

O. Henry***Chiếc Lá Cuối Cùng – Nguyên Trần Dịch 
Trơ vơ chiếc lá cuối cùngTừ ta với lá mang chung ni niềm Ngoài trời lạnh buốt buồng tim Sắc hương phai nhạt đắm chìm phong ba 
Ở một quận nhỏ phía Tây công trường Hoa Thịnh Đốn, nơi các con đường chạy ngoằn ngoèo một cách điên rồ. Đã vậy, chúng còn bị cắt đứt từng dải nhỏ gọi là “vùng”. Những vùng nầy tự tạo nên góc độ và đường cong kỳ lạ. Thậm chí, có một con đường bị cắt ngang bởi chính nó một hoặc hai lần.
Một họa sĩ đã từng phát giác ra rằng con đường nầy trong tương lai có thể rất có gíá. Chẳng hạn như một thu ngân viên cầm hóa đơn tiền những mẫu vẽ, giấy và vải vẽ mà cứ đi qua đi lại hoài chẳng thu một xu nào cả và người ta sẽ phải quy hoạch lại cả khu.
Vì thế chẳng bao lâu sau, các chằng họa sĩ đã ào ạt kéo đến ngôi làng Greenwich cổ kính được xem như chỗ làm ăn được. Họ rình rập săn lùng những phòng cho thuê có cửa sổ hướng về phía bắc, nóc nhà kiến trúc kiểu thế kỷ 18, căn gác kiểu Hòa Lan và giá thuê lại rẻ. Tiếp theo, họ mang vào vài cái ly thiếc, một hai cái dĩa bị nứt từ đại lộ số 6.
Từ đó một “đoàn dân thiên cư” hình thành.
Ở trên đỉnh của một tòa nhà gạch ba tầng lụp xụp mà Sue và Johnsy thuê để làm xưởng vẽ. “Johnsy” quá thân thiết với Sue. Một người đến từ Maine; người kia đến từ California. Họ đã gặp nhau tại một quán ăn trên đường số 8 “Delmonico’s”, và tìm thấy họ có đồng sở thích trong nghệ thuật, cùng ưa món rau diếp xoắn trộn dấm và chuộng thời trang tay áo giám mục. Thế là họ cùng thuê chung một căn phòng bắt đầu vào tháng Năm. Tới tháng 11, có một người lạ mặt vô hình, mang theo cái rét mướt mà các bác sĩ gọi đó là ông Viêm phổi, đã rình rập khu dân thiên cư với móng vuốt giá băng chạm đến mọi nơi. Ở phía đông, kẻ phá hoại này sải bước táo bạo, hạ gục các nạn nhân của anh ta như một thành tích, nhưng đôi chân anh ta chầm chậm bước qua mê lộ của những ” vùng chật hẹp” phủ đầy rêu.  Ông Viêm Phổi không phải là một vị lão thành hào hiệp. Tḥa vậy, nét mảnh khảnh tội nghiệp của một người con gái nhỏ vốn thiếu máu vì những cơn gió ở California thì quả là không công bằng để tên du côn già với móng vuốt đỏ, khó thể quan tâm đến. Nhưng hắn ta đã áp đảo Johnsy khiến cô nằm cô nằm lả người trên chiếc giường sắt phai màu. Cô chỉ biết nhìn qua các ô cửa sổ nhỏ kiểu Hòa Lan để thấy bờ tường trơ trụi của ngôi nhà gạch kế bên.
Một buổi sáng, vị bác sĩ bận rộn với đôi lông mày rậm rạp, xám xịt, mời Sue bước ra hành lang rồi nói: “Cơ may của cô ấy chỉ có một phần mười thôi” . 
Ông vẩy cái nhiệt kế đo lường để mực thủy ngân trong đó hạ xuống. “Và cơ hội đó là do chính cô ấy muốn sống hay không? Chớ còn cái cách mà mọi ngưới chỉ đứng chở công ty mai táng thì toàn bộ thuốc men đều vô dụng. Cô bạn bé nhỏ của cô cứ ám ảnh rằng cô ấy sẽ không qua khỏi. Cô ấy có suy nghĩ gì khác không? ” “Cô ấy – cô ấy muốn vẽ cảnh trí Vịnh Naples một ngày nào đó” Sue nói.  -Sơn ! Ơi Trời! Cô ấy có bất cứ điều gì trong tâm tư để đáng suy nghĩ hai lần hay không? – chẳng hạn như một người đàn ông?”  -Một người đàn ông?” Sue kêu lên với giọng nói khàn khàn “một người đàn ông xứng đáng như vậy không- nhưng không, thưa bác sĩ; Johnsy không thuộc loại đó đâu.” “Chà! Như vậy là cô ấy quá yếu rồi” bác sĩ nói.   
“Tôi sẽ làm tất cả những gì trên phương diện khoa học, cho tới bây giờ nó có thể lược qua những cô gắng của tôi và hy vọng đạt được kết quả. Nhưng bất cứ khi nào cô bệnh nhân của tôi bắt đầu đếm số xe trong tang lễ của cô ấy thì hiệu lực thuốc men chỉ còn phân nừa. Nếu cô khiến được cô ấy hỏi một câu về phong cách mùa đông mới với tay áo choàng thì tôi hứa với cô, cơ may sẽ là một phần năm cho cô ấy, thay vì một phần mười như trước đây” Sau khi bác sĩ đi, Sue đi vào phòng vẽ và khóc trong khi miệng cắn chặt một chiếc khăn ăn Nhật Bản cho tới khi nó tơi tả thành từng mảnh vụn. Sau đó, cô thất thểu đi vào phòng của Johnsy với bảng vẽ của mình, miệng huýt́ sáo một bản nhạc buồn.
Johnsy nằm, hiếm khi tạo ra một nếp nhăn trên lớp drap trải giường, mặt cô hướng về phía cửa sổ. Sue ngừng huýt sáo, nghĩ rằng Johnsy đã ngủ.
Cô sắp xếp bảng vẽ của mình và bắt đầu dùng bút mực để minh họa một câu chuyện trên tạp chí. Các nghệ sĩ trẻ phải mở đường đến với nghệ thuật bằng cách vẽ tranh cho các câu chuyện trên tạp chí do các tác giả trẻ viết với giá rẻ để mở đường đến Văn Học Nghệ Thuật.
Khi Sue đang phác họa một cái quần cỡi ngựa trang nhã và cái kiếng một tròng thanh lịch từ nhân dáng anh hùng của một chàng cao bồi miền Viễn Tây Idaho, bỗng cô nghe một âm thanh nhỏ lập lại nhiều lần. Cô đi thật nhanh tới cạnh giường. 
Đôi mắt của Johnsy mở to nhìn ra cửa sổ và đếm-đếm ngược:“Mười hai,” cô nói, và ít lâu sau “mười một”; và sau đó “mười,” và “chín”; và sau đó “tám” và “bảy”, gần như tuần tự lớp lang. Sue thắc mắc nhìn ra ngoài cửa sổ. Có gì để mà đếm? Chỉ có một khoảng sân trống trải, buồn tẻ và bức tường của ngôi nhà gạch xa xa, cách đó sáu thước. Một dây nho già cỗi, vặn vẹo gốc mục nát, leo lên đến nửa bức tường gạch. Làn gió heo may lạnh lẽo của mùa thu làn rơi rụng đám lá ra khỏi thân dây để các nhánh gần như trơ trụi bám chặt vào những mảnh gạch vụn vỡ. Sue hỏi: “Chuyện gì vậy em yêu?” “Sáu,” Johnsy nói, gần như thì thầm. “Bây giờ, chúng đang rơi nhanh hơn. 
Mới ba ngày trước còn gần một trăm. Làm em đếm tới nhức đầu. Nhưng bây giờ thì dễ dàng. Và một chiếc nữa vừa rơi. Bây giờ chỉ còn năm.” “Năm gì, em yêu? Hãy nói cho chị Sudie của em biết.” -“Lá. Trên dây nho. Khi chiếc lá cuối cùng rơi thbì em cũng phải ra đi. Em đã biết điều đó trong ba ngày nay rồi. Bác sĩ không nói với chị sao Sudie?”-“Ồ hay! chị chưa bao giờ nghe những điều vô nghĩa như vậy.” Sue càu nhàu. “Cái dây nho già cỗi đó thì có tác dụng gì với việc em khỏe mạnh đâu? Và em đã từng yêu cây nho đó mà, cô bé nghịch ngợm ơi! Đừng có ngớ ngẩn như thế. Tại sao vậy? Sáng nay bác sĩ nói với chị rằng cơ hội để em chóng khỏe lại là sớm thôi – hãy xem chính xác những gì ông ấy nói – cơ hội là mười trên một! Đó gần như là một cơ hội tốt như chúng ta đã từng có ở New York khi đáp tàu điện hoặc đi ngang qua một tòa nhà mới. Bây giờ, em hãy ăn một ít nước súp và chị quay lại bảng vẽ của mình để có thể bán tranh cho người biên tập hầu mua rượu vang cho đứa em bệnh tật, và sườn heo cho bụng đang đói meo của chị.” – “Chị không cần lấy thêm rượu nữa,” Johnsy nói, mắt không rời khung cửa sổ. “Có một thứ khác cần quan tâm hơn. Không, em không muốn nước súp. Lá chỉ còn lại bốn. Em muốn nhìn thấy chiếc lá cuối cùng rơi trước khi trời tối. Và rồi em cũng sẽ ra đi.” -“Johnsy, em yêu,” Sue nói vừa cúi xuống sát người Johnsy, “em hứa với chị là hãy nhắm mắt lại, và đừng nhìn ra ngoài cửa sổ cho đến khi chị làm việc xong? Chị phải giao những bức vẽ đó vào ngày mai, chị cần ánh sáng nếu không chị chị sẽ vẽ trong bóng mờ.”   
-“Chị không thể vẽ trong phòng khác được sao?” Johnsy lạnh lùng hỏi. -“Chị muốn ở đây bên cạnh em,” Sue nói. “Ngoài ra, chị không muốn em cứ tiếp tục nhìn vào những chiếc lá nho tệ hại đó.” -“Hãy nói với em ngay khi chị vừa hoàn thành bức vẽ nha” Johnsy nói, nhắm mắt lại, nằm dã dượi giống như bức tượng vừa sụp đổ, “bởi vì em muốn nhìn thấy chiếc lá cuối cùng rơi xuống. Em quá mệt mỏi vì phải chờ đợi. Em cũng rã rời vì suy nghĩ. Em muốn buông bỏ mọi thứ và thả trôi xuống, xuống nữa giống như một trong những chiếc lá đáng thương mệt mỏi kia.”
“Cố gắng ngủ đi,” Sue nói. “Chị phải đi gọi Behrman lên làm người mẫu để chị vẽ người thợ mỏ già đơn độc. Chị chỉ đi trong một phút thôi. Hãy cố gắng nằm yên cho đến khi chi trở lại.”
Ông già Behrman là một họa sĩ sống ở tầng trệt bên dưới họ. Ông đã ngoài sáu mươi tuổi và có một bộ râu rậm dài xuống tới ngực giống như ông Moses trên bức tượng của nhà điêu khắc Michael Angelo. Behrman là một hiện thân của thất bại trong nghệ thuật. Bốn mươi năm ông đã múa may chiếc cọ mà không đụng được vào gấu áo choàng của tình nhân. Ông luôn muốn vẽ một kiệt tác, nhưng chưa bao giờ bắt đầu nó. Trong nhiều năm, ông đã không vẽ gì ngoại trừ thỉnh thoảng vài hàng nguệch ngoạc trên tấm bảng thương mại hoặc quảng cáo. Ông kiếm tiền chút đỉnh bằng cách làm người mẫu cho những nghệ sĩ trẻ ở trong chung cư vì họ không thể trả giá cho người mẫu chuyên nghiệp. Ông uống rượu gin đến mức quá độ, và vẫn oang oang nói về kiệt tác sắp tới của ông. Sau cùng, ông là một ông già nhỏ bé nhưng hung dữ, người đã chế giễu mọi người mềm yếu, và đậc biệt ông tự coi mình như là bậc thầy bảo vệ hai nghệ sĩ trẻ trong xưởng vẽ ở tầng trên.
Sue tìm thấy Behrman khi ông đang nồng nặc mùi rượu dâu ngửi trong căn phòng sáng lờ mờ bên dưới. Ở một góc là một tấm bạt trống trơn đặt trên giá vẽ đã nằm ì ở đó trong suốt hai mươi lăm năm để chờ đợi mộ̉t kiệt tác đầu tiên. Sue nói cho Behrman nghe về sự ảo tưởng của Johnsy, và việc cô ta sợ và quả thật cô ta nhẹ hửng và mong manh như một chiếc lá trôi đi, khi sự bám víu của cô ấy đối với cuộc sống ngày càng yếu dần.
Ông già Behrman, với đôi mắt đỏ ngầu, hét lên sự khinh bỉ và dè bỉu những tưởng tượng ngu ngốc như vậy. ” Ôi Trời!” Ông ta la lên. “Sao ở đời có ngưởi huỡn đải ngu ngốc muốn chết vì mấy cái lá nho rơi rụng vô nghĩa như vậy. Tôi chưa bao giờ nghe thấy một điều phi lý đến thế. Không, Không, tôi sẽ không làm người mẫu cho cô bạn ngốc nghếch đâu. Tại sao cô lại để cho những tư tưởng khùng điên ấy đi vào đầu óc cô ta.Thiệt là ội nghiệp cho cô Johnsy”.  
-“Em ấy rất bệnh và yếu,” Sue nói, “và cơn sốt đã khiến tâm trí em trở nên bệnh hoạn và hoang tưởng những chuyện lạ lùng. Được rồi, ông Behrman, nếu ông không muốn làm người mẫu cho tôi cũng được. Nhưng nếu vậy thì tôi nghĩ rằng ông là một người già xấu tính, một người ba hoa”.
-“Cô đúng là thứ đàn bà!” Behrman hét lên. “Ai bảo là tôi không chịu làm người mẫu? Tiếp tục đi. Tôi sẽ tới chỗ của cô. Tôi đã sẵn sàng từ cả nửa tiếng đồng hồ rồi mà. Ngoài ra, đây không phải là chỗ tốt mà Johnsy nằm dưỡng bệnh. Một ngày nào đó, tôi sẽ hoàn thành một kiệt tác, và chúng ta sẽ dời đi. Thiệt đó” Johnsy đang ngủ khi họ đi lên lầu. Sue buông rèm cửa sổ xuống và ra hiệu cho Behrman đi qua phòng khác và từ đó, họ nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy dây nho trong nỗi lo sợ. Rồi họ nhìn nhau một lúc mà không nói.  Một cơn mưa dai dẳng, lạnh lẽo hòa lẫn với tuyết đang rơi. Behrman, trong chiếc áo sơ mi màu xanh cũ, qua vị trí người thợ mỏ ẩn cư ngồi trên chiếc ấm lật ngược như mốt tảng đá. Khi Sue thức dậy sau một giờ ngủ vào sáng hôm sau, cô thấy Johnsy mở to đôi mắt buồn tẻ nhìn chằm chằm vào bức rèm màu xanh lá cây đã buông xuống. -“Kéo nó lên, em muốn xem cảnh bên ngoài,” cô ra lệnh bằng giọng thì thầm. Sue mệt mỏi làm theo. Nhưng xem kìa! Sau trận mưa ào ạt và cơn lốc xoáy dữ dội suốt đêm, vẫn còn một chiếc lá nho lơ lửng trên bức tường gạch. Đó là chiếc lá cuối cùng trên dây nho. Cả thân và cuống vẫn mang màu xanh thẫm, nhưng cũng không dấu được cạnh te tua úa vàng của sự phân hủy.  
Chiếc lá vẫn hiên ngang bám vào thân dây nho cao cách mặt đất độ 6 m. -“Đây là chiếc lá cuối cùng,” Johnsy nói. “Em nghĩ rằng nó chắc chắn sẽ rơi trong đêm. Em nghe tiếng gió. Nó sẽ rơi vào ngày hôm nay, và em sẽ chết cùng một lúc.” -“Cưng yêu, Cưng yêu ơi!” Sue nói vừa mệt mỏi cúi mặt xuống gối, “Hãy nghĩ tới chị ngay cả nếu em không nghĩ đến bản thân em. Chị sẽ làm gì được đây?” Nhưng Johnsy không trả lời. Nỗi cô đơn nhất trên thế gian nầy là cho một linh hồn đang sẵn sàng để đi trên hành trình xa xôi bí ẩn. Điều ảo tưởng dường như đã ám ảnh cô mạnh mẽ hơn khi từng mối quan hệ ràng buộc cô với tình bạn và trần thế bị buông lỏng. Ngày trôi đi lạnh lùng, và thậm chí qua ánh hoàng hôn, người ta có thể nhìn thấy chiếc lá nho đơn độc bám trên cuống lá dựa vào bức tường. Và sau đó, khi màn đêm buông xuống, gió bắc lại thổi nhẹ nhàng trong khi cơn mưa vẫn đập vào cửa sổ và ào ạt chảy xuống từ những máng xối trên mái hiên thấp kiểu Hòa Lan. Khi có đủ ánh sáng ban mai, Johnsy bỗng trở nên vô cảm, ra lệnh kéo rèm lên. Chếc lá nho vẫn còn đó. Thế là cô vẫn còn sống Johnsy nằm một lúc lâu nhìn nó. Và rồi cô gọi Sue, người đang khuấy nước súp gà cho cô trên bếp ga.   – “Em đã từng là một cô gái hư, chị Sudie à” Johnsy nói. – “Một cái gì đó đã làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó để cho em thấy em hung dữ như thế nào. Thật là tội lỗi khi muốn chết. Chị có thể mang cho em một ít nước súp bây giờ, và một ít sữa có pha chút rượu porto trong đó. Và…không… mang trước cho em một chiếc gương cầm tay, sau đó tấn vài chiếc gối quanh em để em ngồi xem chị nấu ăn.” Và một tiếng đồng hồ sau, cô nói: – “Chị Sudie ơi! một ngày nào đó em hy vọng sẽ vẽ được Vịnh Naples” Bác sĩ đến vào buổi chiều, và Sue viện cớ đi ra hành lang theo ông ta khi ông ta rời đi.
– “Cơ may đã quân bình” Bác sĩ vừa nói vừa nắm lấy bàn tay gầy gò, run rẩy của Sue: “Với việc chăm sóc tốt, cô đã thành công. Và bây giờ tôi phải khám một bệnh nhân khác ở tầng dưới.Tên ông ta là Behrman, một người nghệ sĩ. Cũng bị viêm phổi. Ông ta là một người đàn ông già yếu nên căn bệnh trở nên cấp tính và không có hy vọng gì nhưng ông ấy đến bệnh viện hàng ngày để được thoải mái hơn. 
Ngày hôm sau, bác sĩ báo tin vui với Sue: “Johnsy đã thoát khỏi nguy hiểm. Cô đã thắng. Bây giờ thì chỉ có dinh dưỡng và chăm sóc – Chỉ vậy thôi.” 
Và chiều hôm đó, Sue đến giường nơi Johnsy đang vừa nằm vừa hân hoan đan một chiếc khăn len choàng vai màu xanh và xem ra không cần thiết. Sue đặt một cánh tay quanh cô và mấy chiếc gối.
Cô nói :-“Chị có điều muốn nói với em, chuột bạch dễ thương! ông Behrman đã mới chết trong bệnh viện hôm nay vì viêm phổi. Ông ta chỉ bị bệnh có hai ngày. Người lao công tìm thấy ông ta vào buổi sáng ngày đầu tiên trong phòng ở tầng dưới trong tuyệt vọng vì đau đớn. Giày và quần áo của ông ta ướt sũng và lạnh. Họ không thể hình dung được ông đã ở đâu trong một đêm kinh hoàng mưa dầm giá buốt như vậy. Và rồi sau cùng, họ tìm thấy một chiếc đèn lồng vẫn còn sáng, và một chiếc thang được kéo khỏi vị trí của nó từ nhà kho, thêm một số cây cọ vẽ rải rác, và hai thùng sơn màu xanh lá cây và màu vàng – Hãy ngó ra ngoài cửa sổ, cưng yêu – khi nhìn thấy hình chiếc lá cuối cùng đang lơ lửng trên tường là em còn cơ hội sống sót. Nhưng sao em không thắc mắc tại sao chiếc lá không bao giờ bay hay rụng khi gió thổi hay sao? Ah, em cưng, vì đó chính là kiệt tác của Behrman – chính ông ấy đã vẽ trong ̣đêm giá buốt hình chiếc lá để thay thế chiếc lá cuối cùng đã rơi xuống”. 
Có nghĩa là ông Behrman đã hy sinh mạng sống của mình để cứu em….
Toronto 22/9/2019

Nguyên Trần Dịch

Đây là một trong những câu truyện đầy tì̀nh yêu thương nhăn bản nhất mà tôi được đọc. 

Nguồn: tvvn.org 


 Người Rơm


Tâm Thanh 


Khi mùa đông but giá tt đ  đây, tôi biết nơi xa xôi bên kia là mùa xuân. Người nhc nh tôi điu này không phi cha m tôi (ông bà chết trên đường vượt biên t Hi Phòng sang Hng-công, lúc tôi năm tui), mà mt cô giáo người Thy-đin, cô Anita. Nhưng t ngày tôi b hc, xa cô, tôi không biết khi nào là mùa xuân  bên kia. Nhiu ln tôi mi mt ngh ăn cp, đnh v thăm cô. Nhưng năm nay li xy ra nhiu chuyn.
Là đa duy nht trong băng có quc tch, và có cái xe ôtô con, tôi chuyên vic cm vôlăng trong các chuyếăn cp 'butích', được gi nghiêm túc là 'đi ch. Địa bàn hot đng ca chúng tôi chyếu là các thành ph min đông Thy-đin như Stockholm, Uppsala, nhưng nếu có mi b béo chúng tôi có th đi sang min tây như Gưteborg, BohusĐược hai năm, hình như gn ba năm, cnh sát thuc lòng s xe ca tôi và nhn mt c bn sáu đa, nhiu khi chúng tôi vào cây xăng mua cái xúc-xích cũng b theo dõi. Chúng tôi phi tìm đng c bên nước láng ging Na-uy. Sang Na-uy mi biết viđi ch thanh nhàn như đi ăn đám gi. Thng Tư đi huynh, nói "Chng trách Liên Hip Quc xếp đây là nước sng sướng nht thế gii, năm năm lin." Trong chuyếđi chbên Na-uy, tôi gp Tuyết Anh.

Tuyết Anh là tên ghi trong th đăng ký t nn do cnh sát Na-uy cp, đương nhiên là tên gi. Tên tht ca nó chc phi đp hơn — đy, c coi nước da trng như thế, đôi mt to như thế, và b ngc căng như thế! Nó ch có mi mt cái khó coi là cao, cao hơn tôi cái đu, cng li dài; hôm đi gii thiu các đa đim làm ăn vi nó, tôi phi chy mi kp. Nó t quê Qung Ninh, đi xe la sang Trung Quc, t Trung Quc sang Ukraina,  Ukraina chng sáu tháng thì được ch bng xe thùng qua nhiu nước, cui cùng ti Na-uy. y là nó k vi tôi như vy, như đã khai vi cnh sát, nhưng tôi biết trong mười điu nó nói có by điu di. Nó là 'người rơm' mà! Mt người đàn ông Vit Nam nhưng tên Jon cho nó  nh min phí trong cái bung mười hai mét vuông. Khi chúng tôi sang, ông nhét chung vào đó luôn. Chúng tôi ngăn bung thành hai chung, bng tm vi nha, chung đc đt hai tm nm cho bn thng đc — Tư, H, Long và tôi; chung cái vi mt tm nm, cho Tuyết và Nam. Chung đc có mt đài tivi và máy chơi điviđi, chuyên chơi phim ln. Thnh thong chúng tôi có chơi phim đng và phim hình s đ trau di nghip v
Hôm nay ngh ch vì my đa kia có vic v Thy-đin, trong phòng ch còn li hai đa. Tuyết ktiếp v chuyến đi ca nó, sau tm màn:
"Thng dch v tch thu hết giy t ri mi th em xung mt cái siêu th, bo vào ăn cp cái gì thìt đng được nhp tri."
"Vy là em có duyên vi ngh đi ch ngay t thu ban đu," tôi ngt li. Tuyết không bình phm câu nói lng nhách ca tôi, tiếp:
 "Em làm y như nó bo — ăn cp cái xì-líp, cnh sát ti bt, em xin t nn. Thế là nó ch em vbót, lăn tay, chp hình, làm vic, ri ch vào tri t nn. y, trước khi đn em ra khi xe, thng dch v nó còn khám người em…"
 Tôi li ngt li:
"Nó khám nhng ch nào?"
Tuyết vn không đ ý li tôi, tiếp:
"Nó thy tm hình m em chp chung vi hai ch em em và hình thng bn giai, chi ra thm tri bt xé đi luôn."
“Sao vy?"
 "Đã bo là người rơm mà l, làm gì được có b m!"
 Nhưng thng dch v và Tuyết vn h hênh — cnh sát di trú khám túi qun con Tuyết, thy cái vé xe la khi hành t Mnchen biết nó đã tng xin tm trú  Đức, nên đưa nó vào tri Tanum giam lng, ch xác nhn lý lch vi cnh sát Đức và thu xếp gii giao v Đức. Nó trn tri, gia nhp bn tôi. Trong lúc đi ch, nó ít b bn an ninh nghi ng, nh v lành thánh.
"Thng cnh sát nó khám qun em làm sao?" tôi hi.
"Thì nó bt tt ra. Mt con, không phi thng… Anh hi linh tinh thế!"
"Thì… thì bây gi không linh tinh na: Ti sao không b tr v Trung Quc hay Ukraina?"
"Vit Nam còn không nhn người rơm, hung h my nước kia. Ch có my thng tư bn nó nhn," nó đáp. "Vn là linh tinh." 
Ngi mùi nước hoa, tôi ngi dy hi:
"Anh sang bên đó thăm em nhá?"
"Không! Em đang thay đ." 
Nếu đó là con Nam, tôi đã ghé mt vào cái l đc bng thuc lá đ dòm, nhưng không hiu ti sao đi vi con Tuyết, tôi không dám. T hôm gp nó, ban đêm tôi hay nm mơ v nó, và ln ln nét mt ca nó vi cô Anita. Tôi nm tr li, úp cun Playboy lên bng. 
"Bn giai em tên gì?" tôi hi.
"Hi làm gì?" nó hi li. Tôi tưởng tượng nó đang ngi trên đm thoa son phn, vú cơi ra ngoài cái singlet, như tm hình trong Playboy.
"Hi cho biết…" tôi tr li, chc là v vn lm; cha m nó còn phi tang, ti sao nó li khai tên bca nó cho tôi. Để đ phn v vn, tôi thêm: "H, chng nên hi."
Có tiếng gõ ca mnh và ca m ra ngay, không ch ai mi vào gì c — ai có đ tư cách như thếngoài ông ch nhà? Ông Jon là con người đy bí mt, không ai biết ông tin rng bc bin hay làkh rách áo ôm chuyên ngh git hi, ai là v con ông ta; không ai biết ông gc Vit, Tu hay Căm-bt. Thng H nói thy ông cp kè vi đào nhí trong quán nhy Phi Thuy Sài Gòn tun trước, thng Tư th là cùng ngày đó thy ông đng trước khách sn Radisson gia Oslo. C hai thng đu c quyết mình không th nhm người được, c hai cùng thy mt người phì nn đi mũpht, đeo kính râm và hút tu. 
"Tuyết Anh đâu?" ông Jon hi. Nghe ging hơi xc, tôi không tr li, ch ht hàm sang chung bên, nói to:
"Em nghe ri đy nhá!"
"Nghe. Tôi ra ngay!" Tuyết nói.
Tuyết vch màn đi ra. Áo lông gu đen, ging đen, lng ly. 
"Đi lut sư lo vic t nn!" ông nói vi Tuyết, nhưng tôi có cm giác ông phân trn vi tôi. Vic đéo gì phi phân trn, tôi nghĩ thm trong đu. 
Tuyết không nhìn tôi, ưỡn ngc theo ông Jon xung lu, đ li cho tôi mùi nước hoa. Tôi bt bình,đng thi cm thy mình bt xng, bt lc. Ti, tôi ti Vin tm hơi Alibaba  s 3427C đường Tronheim ch v mt con Thái-lan đ gii ta ba cái 'bt' kia, và cái mùi nước hoa ca con Tuyết. Mt đêm bay hết 'tin ch' ca tôi, hết luôn my trăm l ti nó giao tôi đi mua hai chc cái 'Norgespakken'. Cái thùng giy có cái tên rt hách đó — 'Hp Na-uy', đúng là siêu k, bên Thy-đin không có, ch có Bưu đin Na-uy biết chế ra, khoe rng rt bn chc, rt tin li, li in tem sn, nhét bao nhiêu tùy ý, đng quá mười kilô. Nhưng còn mt đim tinh vi mà chính người sáng chế cũng không biết hay không ng: nó cn được mt thn; hàng hóa đ bên trong, máy rà quy tính tin và ca ra không phát hin được. Tuy chưa được đăng ký bng sáng chế, tht sngười đu tiên trên thế gii khám phá ra kh năng tuyt vi ca cái Norgespakken là lão chú con Nam. Lão bán bn quyn sn phm trí tu cho chúng tôi vi ba chc ngàn kroner, theo giá tình nghĩa vi con cháu. Đáng tin, bi vì vic đi ch t đó tr nên vô cùng gin đơn, ch hai ln đã đvn. Trước kia chúng tôi b bt lia chia, t ngày có cái thùng, trong vòng ba tháng ch b bt bn ln. Tt nhiên, my thng gác ca hiu bt, giao cho cnh sát, cnh sát gii v bót, hi my câu vvn ri li th
Phiên hp trong chung đc. Thng Tư cn nhn tôi trong lúc c bn hút cn sa, cui cùng nóvn thy cho tôi năm trăm.
"Đi mua thùng đi, đ con kh!" nó nói. "Mua  hai ba nơi khác nhau y, b đ ý ri đy."
"Đéo! Để ý thì làm đéo gì?" con Nam sa. Nó cà lăm, nhưng l lm, h đm 'đ.' vào thì bt càlăm. Tôi nhìn nhanh con Tuyết đang ngi ôm cái gi đen in hình ch th vàng ca tôi. Nó không hút.
"Câm mm!" thng Tư quát con Nam.
"Cũng phi biết đ đ phòng," Tôi trm ging. "Mày nói đi, Tư!"
"H, Long Tro thy mình bt đu khm khá, đã nhn khéo đòi bo v. Li còn báo chí na, nóđăng rm lên ri. Chúng mày đéo chu đc báo gì c." C bn cười hô h.
"Mày làm như mày biết đc báo," thng H nói. 
"Thôi, không nói linh tinh na," Tư vo tròn. "Đánh vài ln na, đ tin v Vit Nam mi đa cưới con v, ri tm ngh."
"Tao cưới v Vit Nam ra tin, ch đi nào li tn tin!" thng Long thêm.
"Nht là tin m hôi nước mt," thng H nht trí. 
Hôm nay Thng Tư và con Nam, hai đa có tay ngh cao, đi 'siêu th'. Còn tôi, Tuyết và thng Hchơi đ tm thường như dao co râu Gillette, son phn Max Factor, nước hoa Elisabeth Eden, bút chì k lông mày Mascaca, du cá do Na-uy chế to. Được bao nhiêu, tôi li ch đi giao cho 'chNăm', bao nhiêu m cũng cân tt. M làm gì vi nhng th đó, qu tình tôi không biết.
Con Tuyết và thng H vào tim, thng H đng mt ch vi cái thùng, con Thuyết đi lượm đ cht vào thùng, lưng thùng thì thng H ly mt xp băng v sinh 'siêu mng siêu thm' (tôi hc được câu qung cáo trong đài Vit Nam) ph lên trên, hai đa cùng ra quy tính tin. Trong khi con Tuyết móc tin, thng H làm b h thn vì phi dính ti cái đ đàn bà con gái, nói  tiếng Thy-đin "Ba cái…" và ch vào xp băng v sinh nm trên, con ngi két thy ch có mt xp màkhách hàng nói ba thì tin là khách quá thành tht, không m thùng ra coi, hoan h tính tin ba xp băng, Tuyết tr tin, hai 'v chng' ung dung ra xe ôtô tôi ch sn. Còi báo đng ng im thin thít.
Nhưng tôi va m máy xe thì mt xe cnh sát lao ti chn ngay trước đu xe tôi. B bt là chuyn thường, nhưng ln này Hip hi nhà buôn đã nhân danh ba mươi tám ca hàng t cáo mt tchăn cp làm thit hi hàng triu bc ca h. Khi m thông dch đc cho tôi nghe li t cáo đó, tôi thy mình oan vô cùng.
"Làm gì nhiu như thế!" tôi nói.
"Vy là bao nhiêu?" thng cnh sát honh li.
"Đéo biết bao nhiêu," tôi nói vi m thông dch. "Ch dch li cho nó nghe như thế, nhá."
Ra tòa, cnh sát cóc tìm được bng chng v nhng v trước, nên thng cha chánh án ch pht mi đa 15 ngày tù hoc pht v 5000 kroner, mun chn đàng nào thì chn. Chúng tôi chn trtin thay vì ngi tù. Xong, nó tng chúng tôi lên xe bít bùng ch v Thy-đin. Tr con Tuyết. 
Tôi đi ôtô, quay li Na-uy, âm thm, không cho my đa bn biết. Không phi đ đi ch, mà đi tìm con Tuyết. Thú tht: tôi thích nó mt ri.
Mobil ca nó đóng, sáng trưa chiu ti, lúc nào cũng phát ra mt câu đáng ghét 'Đin thoi tt ho ngoài tm.' Ngoài tm, hai ch đó tôi nghe thường, nhưng bây gi cm thy đau xót. Nókhông còn  nhà ông Jon  Toeyen na, không  tri tm trú Tanum, không  tri tm trúGardermoen, không  nhà chính ca ông Jon  Vika. Vy nó đã b tr v Đức ri. Nó  ngoài tm. Tôi bun bã ti nhà tm hơi tìm con Thái điu ngh hôm trước, tên Lili.
"Lili bn, mày ch được không?" m cai gà béo tr li.
"Ch bao lâu?" tôi hi và th người xung sopha, làm như sn sàng ch bao lâu cũng được. Oslo này tôi không có nơi nào đ v; bên Thy-đin, xã hi đã đòi li căn h vì tôi không chu bán ôtô đ tr tin nhà. 
M béo m s hn coi, có đin thoi reo, m tr li vn tt. Xong quay li vi cun s to như cun s hn bác sĩ, tr li:
"Có th khuya !"
Tôi không tr li, ngonh mt ra ca s có treo cái đèn ông sao. Qua ca kính tôi thy cây thông hình chóp  sân sau lp ló đèn xanh đ trong tuyết. Tôi biết sp ti l Giáng Sinh. Tôi nghiêng đu nhìn thy mt khonh tri đen kt. Tôi nhìn đng h, mi ba gi chiu. Giáng Sinh, thiên h li sp lên cơn st. Phn tôi rt dng dưng. Tôi ch cm thy hơi nh cô giáo Anita, người đã tng tôi cái mũ len đan tay mu nâu, "Để hp vi mt Con", cô nói. Còn gia đình nuôi, tôi na nh na gin. Đã ba bn Giáng Sinh tôi không tr v gia đình đó, không biết con Linda ln ti đâu. Tôi hay bóp vú nó, nó không chng c, nhưng mt ln tôi bóp nó  b sui, b m nuôi bt gp, đui tôi. Tôi vào nhà tp th  chung vi bn Tây con, Tây con cũng không chơi vi tôi. Đủ mười tám tui, tôi đòi xã hi cho ra  riêng. Nhưng  riêng tôi càng thy cô đc hơn. Người Vit gc Hoa không chơi vi tôi, người Sài Gòn cũng không chơi vi tôi.
Tôi ra ngoài, đng dưới cây thông châm điếu cn sa. Sương đc, tôi thy mình như con gà b vt lông chưa ct tiết, đng trong cái t lnh đang bc hàn khí, xung quanh là bn bc tường cao, ca s đèn m, mà tôi tưởng tượng thành nhng ngăn t đng cà chua thi, trng gà thi, xà-lách thi, phô-mai mc. Hút xong điếu thuc, tôi mt hng, đnh đi ra.
Đi sao? Chơi đ con kia được không? Tôi đoán m béo nói vy khi m ht hàm theo mt đa con gái đang đi lên cu thang. M nói tiếp cái gì đó, tôi bt được hai ch 'Thái-lan.'
Nhìn cái áo lông gu đen, tôi nghĩ ti con Tuyết, vi vàng nói:
"Ok, ok…"
Đứa con gái quay li — Á đông, nhưng không phi Tuyết! Nhưng đã l, tôi bước li cu thang, tính theo lên lu. Nhưng nó nhìn tôi t đu ti chân, lc đu nói gì đó vi m béo mà tôi hiu là nó t chi đi vi tôi. Qua ánh mt hai con đàn bà, tôi đc thy s khinh th. Nói xong con đĩ quay đi, không thèm nhìn tôi. Máu nóng trào lên đu, tôi rút con dao bm, bt lưỡi ra, chĩa vào con điếng trên cao.
"Địt mĐĩ mà đòi khinh người h?" tôi quát. Bng tiếng Vit.
Con điếm thi dng bước và quay li, ngơ ngác. Con m béo há hc mm. Con điếm đng trên cu thang, trông càng cao hơn, như mt con gu đen. Tôi ước có th san bng nhng bc thang, đ con điếm lăn xung, nm dưới chân tôi, rên r. Tôi bước lên, vn chĩa mũi dao v phía trước. Tiếng quát tháo t hng tôi tuôn ra t nhiên bng tiếng Vit trơn tru. Còn bn năm bc na thì nóquay đu chy, hô cu cu. Mt thng bo v khnh khng đi ra, đá bay con dao trên tay tôi, vàkhóa tay tôi li. My phút sau có còi h xe cnh sát. 
Đồng h đã b tch thu, cùng vi con dao và cái bóp, tôi không biết my gi. Tôi nm trên đm tri thng trên sàn ximăng, s tôi nm đm nhiu hơn nm giường. T nhiên tôi mun t t. Tôi t tđ cho my thng cnh sát mang ti đi x thô bo vi tôi, cho m mp và con điếm mang ti kinh r tôi, cho báo chí loan m lên rng tôi b c hiếp. Tôi nhìn lên trn xà lim cao và bn bc tường xi măng phng lì, không có mt cái đà, cái móc đ treo dây thòng lng. Lao đu vào cái ca st srt đau đn mà chưa chc chết, li thành trò cười cho chúng nó — hóa ra c đi tôi làm trò cười! Có nên viết mt lá thư tuyt mnh không? Hin gi trên mình không có bút giy, tôi có th đp ca xin con m gác; tôi cũng có th viết bng máu lên tường. Nhưng tôi s viết gì? Tôi đc nhng ch viết sn trên tường ca nhng thng tù… tin nhim, hiu được mt chĐỊT! Có l tôi cũng s viết ch đó — vn tt, đy đ. Nhưng, như nhng thư tuyt mnh thê thm khác, tôi cũng phi nhn nh thế nhân điu gì. Câu trước tiên tôi nghĩ ti là ' đi đng bao gi ht hi ai.' Câu này có yếu đui không? Không. Khi nó đi kèm vi cái chết thì không th gi là yếu đui được. Dù sao nó không n vi tôi, vì nó t cáo tôi mang chút mc cm. Tôi nghĩ ra ri, mt câu không mc cm mà oai hơn, đó là 'Không ai có quyn xét x tôi!' Lâu lm tôi không đc sách, cun sách cui cùng tôi đc là cun hc b, tôi đc khi còn  vi gia đình nuôi, nhưng tôi đc có mt trang thì b, vì viết d quá; bi vy, ai nói cái câu khí phách kia, tôi quên mt; nhưng hôm nay viết vào thưtuyt mnh thì rt hp. Tôi tưởng tượng trưa th hai, khi thng chánh án ngi chm ch trên ghếgia tòa, bên dưới, tay phi là thng kim sát đng đng sát khí, bên phi là con m lut sư vôtích s, ch mãi không thy tôi, cui cùng thng gác tù hong ht chy vào báo cáo "Thng bcáo chết ri!" Thng chánh án nn búa tuyên b "Trng án!"
"Ngt quá!" tiếng rên t phòng giam bên cnh. Tôi lng tai ch đi xem có phi mình nghe tiếng người hay ch tiếng rít ca bn l, tiếng di cu xí, hay tiếng tưởng tượng. Tôi nghe tiếng rên tiếp:
"Ngt quá! Hãm li, cho tôi ra ngoài…" Tiếng thét đàn bà, bng tiếng Vit. Tôi đp rm rm vào ca phòng giam, tôi đnh hô to 'Có người chết ngt! M ca mau!" nhưng tôi không biết 'chết ngt' tiếng Thy-đin là gì, hung h tiếng Na-uy. Thay cho ngôn ng, tôi tiếp tc đp mnh vào cánh ca st đ gi lính gác. Nhưng ca st dy quá, tôi đp ti rát bàn tay mà ch nghe tiếng bèn bt. Kết qu, ch có tiếng cn nhn t bung đi din ca mt thng b nht cùng mt lúc vi tôi, thng Na-uy mt mày sưng vêu, chc là đánh ln. Tiếng rên cũng im luôn.
"Ai bên đó đy?" tôi lên tiếng. Gi ba ln, mi ln ln hơn, cui cùng bên đy hi li:
"Ai đy?"
"Vit Nam!" tôi đáp. 
"Đây cũng Vit Nam."
 "Nghe đng y than b ngt. Ngt th?"
 "Có than à?" 
 "Nghe đng y rên."
 "Tht à! Có rên… rên to thế cơ à?"
 "… Này, nghe ging quen quen… Có phi Tuyết Anh đy không?"
 "Cn, phi không?"
 "Cn đây," tôi vui mng đáp. "Không r mà vào đây c lút. Bên đy ngt à?"
 "Anh nói em mi đ ý, trong này hơi ngt ngt. Nhưng em không rên đâu, chc em nm mơ đy."
 "Mơ cái gì?"
 "Ác mng…"
 "K li nghe."
 "Thôi."
 "Em nói gì? Nói to lên tí na. "
 "Em nói thôi, không k làm gì na."
 "C k cho anh nghe! Trong này toàn Tây c, có ma nào hiu mình nói gì đâu mà s nào."
 Tuyết ho, tôi xót rut. Ho xong, nó nói:
 "Em mơ còn nm trong cái xe thùng ch em sang đây. Đứa con gái nm ngay bên cnh em chết ngt."
 "Chết!?"
 "Chết. B nht trong thùng xe hai ngày hai đêm. Khi bn đu gu m ca xe ra, thy bn người chết t bao gi. Con y thân vi em nht. Chúng em đã tng chia phiên nhau k mũi vào cái lnh đ th. Thương hi nó hay nhường cho em th lâu hơn. Dc đường nó c đòi v, không mun đi na. Nhưng em biết v thế nào được vi bn đường dây. Nó mà sng sót cũng b đường giây hành ti chết v cái ti đòi v… Anh có nghe không đy?"
 "Nghe rõ c."
 "Nó nói kh đu quanh năm chu được, dn vào mt ngày thì chết. Anh nghĩ có đúng không?"
 "Chc đúng." 
 "M nó bán rung, bán vườn đ chung tin cho nó đi, c mong nó mang đôla v chuc đt, xây nhà như nhng người có thân nhân Vit kiu. Bây gi nó chết, chưa kp nhìn thy t đôla xanh. Trước khi chết nó ta vai em lm bm 'M ơi! Con không mun làm Vit kiu. Con mun v nhà. Con mun cơ c nhà vi m sut đi.' Ging nó như đa tr con ba tui."
"Cô y my tui?"
"Tui rơm, ai hi làm gì!"
"Còn em? Em có mun v không?"
"Không, thà chết!" Tuyết nói không do d. Chc nó đã cân nhc k ri.
"Nht trí!" tôi nói, h hi. 
Tôi không hiu ti sao tôi li h hi như thế. Mươi phút sau, bn gác gác tù mang nó đi đâu, tôi không biết. Nó không tr li.
Tôi b pht tù ba mươi mt ngày v ti mang vũ khí và toan hành hung. Tr chín ngày tm giam, tôi ch còn phi ngi tù ba tun,  mt nhà tù khác, cũng gn bót cnh sát. Ra tù tôi b gii thng v Thy-đin. Như cóc b đĩa, ba hôm sau tôi li sang Na-uy tìm Tuyết. Tôi hy vng nó vn kiên đnh lp trường hôm trước 'thà chết không v.' Tôi c tìm nó trước khi nó đi ý hoc có tai ương gìxy ra cho nó. Cũng mt hơn mt tháng tôi mi truy ra nó đang ngi trong nhà tù n  Rdvedt. Vìnó khai t c vô thân, không ai được phép thăm nó. Vì vy tôi phi gi mc sư đi thăm tù. Đó làmt ngày sau l Nôen, mt tri xung thp, chiếu thng vào mt, lái xe c như là đâm vào nhng mũi tên la, không nhìn thy xe ngược chiu. Mt ngày th tư, ngày thăm tù thường xuyên ca các thượng ta Pht giáo, mc sư Tin lành, linh mc Công giáo, giáo sĩ Hi giáo. Tôi bo là điu may, vì cnh sát không hi linh tinh gì c. May na là nhng nă trong gia đình nuôi, tôi đãhc được cách cm và m Thánh Kinh. Nhưng cái không may là tôi gp mt bà Vit Nam trong phòng đi.
"Chào cha," bà cung kính, "cha cũng đi thăm tù ?"
"Chào bà," tôi đáp, và t nh ch có văng tc. Trong đi cũng phi có mt ngày ăn nói lch s văn minh.
"Con là xơ, thưa cha," bà đáp.
"Đ… , xin li, con… tôi là mc sư, không phi cha."
"Hân hnh gp mc sư. Mc sư có biết mc sư Trn Trung Trinh không?"
Chán tht, b m rut mà có người còn không biết tên, hung h ông Trn Trung Trinh trơi đt h đâu y, tôi nghĩ trong đu, nhưng ming nói ba: 
"Có biết sơ, nhưng chúng tôi không quan h nhiu. Tôi … Phn Lan sang. Còn ma xơ có biết giáo hoàng Giăng Bôn không ?"
"D, Ngài qua đi ri!" Mt bà xơ xu xung, không biết bà bun thương v giáo hoàng quá c hay tht vng vì tôi. Nếu bà tht vng, tôi phi làm cho bà biết tôi không đến ni t lm, tôi nói:
"Ngài Giăng Bôn Hai qua đi ri, tôi biết ch, xơ. Người tôi mun nói đây là v giáo hoàng mi, ngài Giăng Bôn Ba y…" Sau này tôi mi biết l ra tôi không nên khoe khoang nhiu quá v kiến thc tôn giáo ca tôi.
Cũng may, cuc giao lưu tôn giáo sp ti hi cung lưu thì mt m gác tù m ca vào, hi chuyn bà xơ, chc hi đi thăm ai. Nhân tin, tôi nh bà xơ thông dch giùm tôi đi thăm mt n tù nhân tên Tuyết Anh. Bà xơ giúp tôi xong, cht nh ra điu gì, tươi cười nói:
"Không biết lát na có gp li nhau không, xin chúc mng năm mi mc sư!"
Tuyết mc cái áo len cao c, dy, màu tím rm, váy trng có thêu ren  gu, dài ti gót chân. Nógy, hai mt qung thâm, ngước lên nhìn tôi. Nó cao hơn tôi, mun to ra cái v ngước lên đó, nóphi cong lưng xung, tay chng cm. Nó c ý làm như vy, hay t nhiên như thế, tôi đu thy làthanh cao và tôi biếơn.
"Chúc mng năm mi Tuyết Anh!" tôi nói.
"Tết ri h anh? Em không biết! Hôm nay mùng my, anh?"
"Anh cũng không biết na. Ban nãy gp mt bà xơ Vit Nam ngoài phòng đi, bà y chúc Tết, nên anh đoán hôm nay Tết ta. Tho nào, tim Vit Nam có bán bánh chưng, anh li tưởng h gói bánh chưng quanh năm, không ng ngày Tết. Không Mng Mt thì ngày Rm." 
"Vy em mng tui anh," Tuyết nói, chp hai bàn tay kp vào đùi như mt đa tr l phép. Cái lưng dài vn cong, như c con nai ung nước.
" cng nó gi cái ví tin vi cái đin thoi, không thì bây gi anh có th lì-xì tin mng tui cho em…" 
"Anh không cn mng tui em. Anh ti thăm em, nhc em ngày Tết là quí ri, anh ."
Tuyết càng du dàng, tôi càng lo âu. Biết đâu ln sau ti đây không thy Tuyết na. Đã ngoài tm.
"Tình trng em bây gi ra sao?" tôi hi. 
"Em s b tr v Đức."
"Cái đó anh biết ri."
 "Nhưng Đức chưa xác nhn."
  "NếĐức không xác nhn thì sao, có b tr v Vit Nam không?"
 Tôi hy vng Tuyết đượ li Na-uy. Đêm qua, trong lúc tuyết đ trng xóa tri đt, tôi nghĩ tôi cóth xin cưới Tuyết và bo lãnh cho nó vào Thy-đin. Cùng lm là tôi ước hn vi Tuyết, đ nó vVit Nam, ri tôi làm th tc kết hôn và đoàn t sau. Chúng tôi s lp li cuc đi, s sng lương thin bên nhau. Ti sao tôi ly Tuyết mà không v Vit Nam ly v như thng Tư, thng H, cho gin tin? Đó là vì tôi mun được sng tht. Tôi mun lp li cuc đi vi mt người cũng có quákh đen ti như tôi, biết tôi bê bi chng nào, tng nhìn tôi ăn cp vt, thy tôi nm dưới đáy xãhi. Tôi không cn nói di có bng k sư, phó tiến sĩ. Không cn đóng kch mc sư.
"H không tr em v Vit Nam được đâu," Tuyết nói. "Em không đượ Đức thì cũng đượ Na-uy." Nó đt tay lên bng: "Tùy theo cái thai này ca ai…"
Câu tr li ca Tuyết làm cho tôi lnh người t đu ti chân. Thế là người rơm cũng ngoài tm tôi.
Bên ngoài nhà tù, nng phn chiếu trên tuyết sáng lòa, lnh ngt. Tôi bơ vơ nheo mt nhìn quanh. Ngn tháp nhà th gn đó nhc tôi nh ti mt nơi nào, rt xa. Tôi c đng yên lc li kýc. Bng nh ra ngôi trường trung h Uppsala, nơi tôi hc hành chng ra gì, mt ngày mùa đông đy nng, cô Anita nói vi tôi trong gi chơi "Con ơi! Hôm nay là Tết Vit Nam, cô chúc mng Con." Cô không đc được tên Cn ca tôi, nhưng tôi thích nghe cái ch không b du ca cô trong mt bui sáng nng thp. Cô là người đã khóc khi tôi báo tin b hc.
Tôi quyết đnh tr v Uppsala gp cô Anita. Ri tính sau.  
Tâm Thanh


Nguồn: diendantheky.net