Monday, December 24, 2018

BỐN MƯƠI NĂM TRƯỚC



Nguyễn Đình Hoà



Lời giới thiệu:

"Giáo sư Nguyễn Đình Hoà, một nhân vật tên tuổi của ngành giáo dục và một tiếng nói có thẩm quyền lớn về ngôn ngữ học, là một thân hữu của Văn từ mấy chục năm về trước ở quê nhà. Nhưng bản văn dưới đây là bài viết đầu tiên ông gửi cho tạp chí. Một đoạn hồi ký trích trong Hồi Ký Học Trò Của Người Đình Hoà Họ Nguyễn. Viết được hồi ký hay trước hết phải có một trí nhớ tốt. Điểm này trí nhớ Nguyễn Đình Hoà tuyệt hảo. Nhờ vậy mà hồi ký Nguyễn Đình Hoà đã làm sống lại, trên từng chi tiết, cả một thời điểm quá khứ. Và làm xúc động những người cùng một lứa tuổi, cùng sống với tác giả thời điểm ấy, trong số có người bạn thân của tác giả là tôi." 
                                                                                    Mai Thảo

  
Một buổi sáng thượng tuần tháng giêng năm 1948. Giáo sư John.F.Embree, dáng người cao, đeo kính trắng áo sơ mi vàng, chiếc quần màu xám, đôi giày nâu kiểu bướm, từ trên gác đi xuống. Tôi chào ông và đưa ông coi bản báo cáo mà chiều hôm trước ông đã giao cho tôi đánh, bằng chiếc máy chữ hiệu Royal đặt trên chiếc bàn ăn to tướng trong phòng ăn.
Tiến sĩ Embree là một vị giáo sư nổi danh của Viện Đại học Yale của Mỹ, một nhà nhân loại học kiệt xuất đã có công trình khảo cứu về đời sống miền quê Nhật Bản, lúc đó được biệt phái sang Sài Gòn làm việc ở Phòng Thông Tin Hoa Kỳ (United States Information Service - USIS) với tư cách tuỳ viên văn hoá. Ông đã đáp máy bay ra Hà Nội để nghiên cứu xem có thể thiết lập một phòng thông tin của Mỹ ở đó hay không.
Ông tỏ vẻ hài lòng về tài liệu "đả tự" của tôi - thật ra đánh mổ cò bốn ngón. Sau khi hồi cư vào tháng 5 năm 1947, tôi có đi làm ít lâu cho một sở Pháp tên là Les Grands Travaux de Marseille, nhưng vì ông chủ Tây tính hách dịch và không có cảm tình với một thanh niên Việt Nam ít kinh nghiệm, nên tôi quyết định không đi làm cho Pháp, mà muốn tìm việc gì giúp tôi trau giồi Anh ngữ. Tôi bước thấp bước cao vào xin việc ở toà lãnh sự Mỹ, lúc bấy giờ đặt tạm tại toà nhà khá lớn của công ty Standard Vacuum Oil Company.
Nhờ sự giới thiệu của hai vị linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, là Cha Đạo (Leroy) và cha Marquis, cả hai là người Canada, tôi được một chân thư ký trong toà lãnh sự Mỹ, mà về sau dọn đến ngôi nhà ở số 19 đại lộ Rollandes. Công việc của tôi là thư ký thông dịch viên. Lúc đầu làm việc dưới quyền các ông James L. O'Sullivan, Edwin C. Rendall và Jack C. Feigal. Hai ông trên là nhân viên ngoại giao, cấp Phó Lãnh Sự, còn ông thứ ba thì thuộc ngạch tham sự ngoại giao. Hàng tháng, tôi còn phải làm cả việc kế toán, lo sổ lương cho cả nhân viên Mỹ lẫn nhân viên phù động địa phương (gồm có tôi, ông tuỳ phái tên là Kế, ông tài xế tên là Mỹ, và ông làm vườn mà tôi đã quên tên), cùng là gửi ngân phiếu sang trả tiền nhà cho công ty Rondon bên Hương Cảng.
       
Giáo sư Embree gọi tôi sang phòng khách lớn, là chỗ mà ông được sử dụng làm văn phòng làm việc tạm ít ngày theo kiểu TDY (temporary duty). Ông mời tôi ngồi và bắt đầu "phỏng vấn" tôi về gia thế, về bối cảnh giáo dục. Tôi kể lại là lúc trước tôi học trường Bưởi, tên Pháp của trường là Lycée du Protectorat (Trung học Bảo hộ), bảy năm liền từ 1937 đến 1944. Và sau khi đỗ bằng tú tài Triết học Văn chương, lên học đại học Luật khoa ở đường Bobillot. Năm học đó bị dở dang vì cuộc đảo chánh của Nhật hồi tháng ba năm 1945.
Sau đó, vì tự cho là mình có chút vốn tiếng Anh nên tôi liều dự kỳ thi tuyển giáo sư sinh ngữ của Nha Trung học vụ, lúc ấy do giáo sư Ngụy Như Kontum phụ trách. Trong hai năm học bậc tú tài (năm thứ hai và năm thứ nhất, nói theo kiểu Pháp) tôi được phần thưởng về Anh ngữ, nhưng thật sự chỉ biết dịch từ Anh sang Pháp và từ Pháp sang Anh. Cũng như thuộc lòng những mẹo luật về Anh ngữ đã được vị giáo sư khả kính của tôi là thầy Carjat dạy trong hai năm bậc "trung học đệ nhị cấp" mà thôi. Còn nghe và nói thì không được dịp thực hành, vả lại cũng chỉ quen có giọng của giáo sư Carjat người Pháp mà thôi. Lớp B của tôi vẫn cho rằng mình học đúng giọng Anh, chứ lớp A bên cạnh "nói giọng Mỹ" vì giáo sư của họ là một vị mục sư Tin Lành, hình như thuộc quốc tịch Anh hay Mỹ, tên là Gockler.
Tôi cũng cần vạch rõ là mùa thu năm ấy, lúc chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà mới được thành lập, thì những thanh niên cở tuổi tôi, ai nấy đều hăng hái muốn góp phần xây dựng một nước Việt Nam độc lập vừa thoát khỏi ách nô lệ do Pháp áp đặt từ bao năm. Kỳ thi tuyển giáo sư trung học dạy tiếng Pháp và tiếng Anh năm ấy do một mình giáo sư Phạm Duy Khiêm chấm, gồm cả bài thi viết (có dịch và luận) lẫn bài vấn đáp. Tôi may mắn đỗ đầu nên được bổ nhiệm vào dạy ở trường trung học Chu Văn An, mà tiền thân chính là ngôi trường thân yêu bên bờ Hồ Tây thơ mộng, nơi tôi mài đũng quần luôn bảy năm trời, chốn học đường đầy kỷ niệm tuyệt vời về thầy yêu và bạn quí.
   
Điểm đặc biệt là chữ của giáo sư Embree viết  rất khó đọc, cho nên ông lấy làm lạ là sao tôi có thể đọc được chữ viết của ông để mà nhận ra câu nọ câu kia, rồi đánh máy trình bày sạch sẽ. Sau khi hỏi vài câu về gia cảnh của tôi - con thứ mười trong một gia đình công chức thanh bạch- ông hỏi:
"Anh có muốn sang Mỹ du học không".
Tôi giật nẩy người trả lời ngay: "Thưa giáo sư, có chứ ạ!"
Vài hôm sau khi ông trở vào Sài Gòn, giáo sư Embree gửi cho tôi, qua tín hàm ngoại giao, một xấp những mẫu đơn xin học bỗng, kèm theo một thư ngắn (vẫn bằng lối "chữ đốc tờ" thật khó đọc đối với người Việt Nam). Nói rằng "Bây giờ đã muộn rồi, song anh hãy cứ điền hết những mẫu đơn cần thiết, rồi gửi vào cho tôi để tôi chuyển về Mỹ cho Viện Giáo Dục Quốc Tế (Institute of International Education) ở New York ".
Bẵng đi một thời gian mấy tháng, tôi cũng chẳng nghĩ đến chuyện xin đi học bên nước Mỹ xa xôi, mà tôi mới được thấy trong phim ảnh thôi. Chuyện đi  du học ngoại quốc, nói chung, đã là chuyện khá xa vời, mà nghe phong thanh thì chỉ thấy có nhiều sinh viên con nhà quyền thế được "quan Tây" cấp học bỗng sang Pháp du học mà thôi. Ngoài ra, cả đời (năm đó tôi mới hai mươi bốn tuổi đầu) tôi chưa bao giờ đi xa thành phố Hà Nội, nơi tôi sinh trưởng, trừ những dịp may được về "nhà quê", nghĩa là được về chơi ở làng mẹ tôi, làng bà vú nuôi tôi (u Hoà), hay làng bà thím tôi (thuộc tỉnh Hải Dương), hoặc lên tỉnh lỵ Phúc Yên ở chơi nhà một bà chị, hay lên Tuyên Quang dự việc chôn cất một ông chú. Rồi thì những tháng tản cư tránh bom Nhật, tránh bom Mỹ, tránh tàu bay Pháp bắn phá - trường hợp sau đúng là lang thang lánh nạn về mấy làng thuộc tỉnh Hà Đông mà thôi, chứ đâu có óc du lịch như cái ông trong sách Quốc văn Giáo khoa thư.
   
Tháng sáu năm 1948, tôi nhận được một bức điện tín của Viện Giáo Dục Quốc Tế gửi qua toà Lãnh Sự của Hoa Kỳ ở Hà Nội, vắn tắt có vài lời như sau:
"Union College awards Nguyen Dinh Hoa tuition scholarship. Delta Upsilon Fraternity provides room and board. Letter follows".
(Đại học Union cấp học phí cho Nguyễn Đình Hoà. Hữu xã Delta Upsilon đài thọ tiền ăn ở. Sẽ có thư sau).
Tôi mừng quá! Đạp xe đạp về nhà hôm đó trong niềm phấn khởi (mộng làm giáo sư tiếng Anh sắp thành sự thực rồi), báo tin cho các anh, các chị tôi. Riêng cha tôi thì phản ứng hơi khác, ông hạ mấy lời làm tôi hơi nản:
"Đi đâu? Tiền đâu mà đi! Mà sở Công an liên bang đời nào cho nó đi?"
Hoá ra ông công chức đầy kinh nghiệm đã nghĩ đúng, được học bỗng là một chuyện, còn phải xin phép Sở Mật thám Tây cho phép và cấp thông hành thì mới xuất ngoại được. Rồi thì đào đâu ra tiền lộ phí để mà di chuyển từ Hà Nội sang tận Hoa Kỳ ở mãi tận bên kia địa cầu.

Bức thư của Viện Giáo Dục Quốc Tế (tiếng Anh viết tắt là HE) đến sau đó đã giải thích thêm  về chi tiết. Trường Union College ở thành phố Schenectady, thuộc tiểu bằng New York, là một trường đại học nhỏ, thành lập năm 1795, chuyên đào tạo kỹ sư về cơ khí và điện học cùng các ngành khác. (Trong thành phố đó có hai công ty lớn là hãng làm các máy điện General Electric và hãng làm đầu máy xe lửa là American Locomotive). Các bộ môn văn khoa cũng rất tốt, và nhà trường được xếp vào loại những trường đại học bốn năm gọi là Liberal Arts College có tiếng trong nước.
Đặc biệt là trường ấy là trường đầu tiên thành lập những nhà hội huynh đệ, gọi là hữu xã, đặt tên theo tiếng Hy Lạp. Hữu xã là một cơ chế đặc sắc của nền giáo dục cao đẳng tại Mỹ: vài chục sinh viên gia nhập một hội anh em như là vào hội kín, có mục đích giúp nhau học hành và tu dưỡng về ba phương diện trí dục, thể dục và đức dục. Sau một vài thử thách về tư cách con người, thì một sinh viên năm thứ nhất mới được tiếp nạp vào làm hội viên của hữu xã mình muốn gia nhập, tuy vẫn còn ở trong phòng trọ ký túc xá, chứ chưa dọn vào nhà hội.
Mỗi hữu xã có nội quy riêng: mọi người gọi nhau và coi nhau như anh em một gia đình. Thật vậy, tiêu ngữ của nhà trường là câu tiếng Pháp "Sous les Lois de Minerve, nous devenons tous frères" (Dưới luật lệ của thần Minerve, tất cả chúng ta trở nên anh em một nhà). Ăn ở chung với nhau trong một toà nhà rộng rãi, đầy đủ tiện nghi, họ dìu dắt nhau trên con đường học vấn. Họ có đầu óc quốc tế.  Chẳng hạn, theo phương án gọi là HELP (Higher Education for Lasting Peace), tạm dịch là "Giáo dục cao đẳng để tiến tới một nền hoà bình vĩnh  cửu".
Mỗi nhà trong số mười hữu xã trong trường, bảo trợ một sinh viên từ nước ngoài đến học, bằng cách hàng  tháng góp mỗi người vài ba đô la để bao cho anh sinh viên ngoại quốc ăn ở không mất tiền - trong khi nhà trường cấp học bỗng về học phí, nghĩa là cho miễn tiền học, năm ấy (1948-49), chỉ khoảng năm trăm đô la mỗi năm mà thôi.

Có người mách tôi làm đơn xin chính phủ Việt Nam tiền lộ phí. Quả nhiên, ông Thủ hiến Bắc phần Nghiêm Xuân Thiện đã chấp thuận lá đơn của tôi và cấp mười lăm nghìn bạc Đông dương, cho tôi có tiền mua vé máy bay của hãng Air France đi từ Hà Nội sang New York qua ngã Sài Gòn và Paris. Sở Liêm Phóng Liên Bằng của Pháp, lúc cấp giấy phép cho tôi xuất ngoại và thông hành "Liên hiệp Pháp" (Union Francaise), còn bắt đóng một số tiền ký quỹ để nếu "lơ tơ mơ" làm điều gì xằng bậy, thì họ dùng số tiền đó để giao trả mình về nguyên quán bằng tàu thủy.

Bắt đầu từ năm 1950, rồi về sau nữa, sinh viên Việt Nam sang Mỹ du học bằng học bỗng của những trường tư (công giáo) hay của chính phủ Mỹ đều được tiền sách, tiền tiêu vặt. Chứ năm 1948, tôi không được ai cấp cho những khoản đó. May thay tôi được cả ông xếp tôi lả ông Edwin C. Rendall lẫn giáo sư John F. Embree giúp đỡ. Ngay khi chắc chắn là tôi nhận học bỗng để qua học ở Schenectady, thì ông Rendall cho phép tôi được lãnh một phần lương bằng tiền đô la, rồi mỗi kỳ lương (hai tuần phát một lần) gửi sang cho ông cụ thân sinh ra ông, để vào ngân hàng ở Morrison, Illinois cho tôi. Giáo sư Embree thì còn làm một việc cảm động hơn nữa. Khi đã trở lại dạy học ở New Heaven, tiểu bang Connecticut, ông viết thư cho tôi và ông xếp tôi, nói là đã liên lạc với một số kiều bào Việt Nam ở vùng Nữu Ước để yêu cầu họ giúp tôi. Đồng thời ông gởi cho tôi vay một món nợ danh dự: bốn tấm chi phiếu, mỗi tấm năm mươi mỹ kim (hai trăm đô la lúc ấy nhiều lắm), để phòng hờ, lúc tôi mới chân ướt chân ráo đến Mỹ lỡ cần đến chăng thì ông tạm giúp tôi "lúc xe hỏng".
 
Giấy má xong, kể cả chiếu khán sinh viên đầu tiên do Lãnh Sự Quán Mỹ cấp, tiền vé có rồi, đến chuyện quần áo mặc rét và va li nữa chứ! Tôi có mỗi một bộ hàng "tropical" màu kem, vài chiếc sơ mi và cà vạt, may ô quần đùi, một đôi giày da nâu. Chỉ cần mua một chiếc va li da giả là được rồi.
Hôm 28/8/1948 tôi rời Hà Nội. Tôi đội cái mũ dạ bo thật to, tưởng mình hợp thời trang lắm. Khi máy bay ghé Calcutta, Ấn Độ, mới thấy là không hợp thời tiết. Rồi khi đặt chân đến Mỹ thì ý thức ngay rằng, người sinh viên ở đại học không ăn mặc như tài tử xi nê.
Gia đình và năm sáu anh bạn thân đến hãng máy bay Air France ở phố Paul Bert để tiễn tôi, trước khi  chiếc xe ca cũ kỹ của hãng chở hành khách sang phi trường Gia Lâm. Ôi cảnh biệt ly sao mà buồn vậy! Lần đầu tiên tôi xa những người ruột thịt, xa bạn bè, và nhất là xa nơi chôn nhau cắt rốn, để đi sang một nơi xa lạ trong một cuộc "phiêu lưu mạo hiểm" với mục đích cầu học chốn tha phương.
Mừng mừng tủi tủi, tôi khóc chào cha tôi, cũng lần thứ nhất xa thằng con út. Ông dặn tôi:
"Con cần giữ gìn sức khỏe để học cho chăm, làm vẻ vang cho nòi giống mình. Hàng ngày buổi sáng đừng quên đi hết bài quyền Ngọc Trản  nhé! Và nhớ viết thư đều cho ở nhà khỏi sốt ruột. Thôi, con đi đi cho may mắn! Nhớ giữ thanh danh của họ Nguyễn Đình nhà mình đấy!".

Tôi được ghé Sài Gòn vài hôm để thăm gia đình một bà chị theo chồng vào Nam từ 1940, và gia đình vợ chưa cưới của tôi. Đoạn đường từ Sài Gòn sang Paris cũng lý thú, phải ghé Calcutta, ngủ đêm Karachi, rồi ghé Athens, Iceland, trước khi tới Paris. Tại kinh đô nước Pháp, nhờ vài anh bạn nhà giàu (sang đó du lịch đã vài ba năm), hướng dẫn nên tôi cũng được tham quan mấy nơi thắng tích. Nhưng vẫn sốt ruột mong chóng qua bên Mỹ cho kịp ngày khai trường.
Chuyến bay từ quê tôi sang Nữu Ước mất tất cả năm mươi bảy giờ bay, thật là một kinh nghiệm khó quên. Những ai dùng máy bay phản lực ngày nay đi vèo vèo từ lục địa này sang lục địa kia, khó mà ý thức được cái cảm giác ngỡ ngàng, bàng hoàng, ngây ngất của anh sinh viên 24 tuổi ra đi cầu học, và bỗng nhiên chuyển sang một môi trường hoàn toàn xa lạ để hít thở không khí khác. Đụng chạm với người lạ, cố thích ứng với phong tục, tập quán không quen thuộc, ăn thức ăn lạ, nói ngôn ngữ lạ, hàng ngày chỉ mong chạy về cái bàn viết... để viết thư, viết nhật ký bằng tiếng mẹ đẻ, hết trang nọ đến trang kia.
Ôi! Sao mà những chữ cái trong vần quốc ngữ mà cụ đồ ở trường Trí Tri, phố Hàng Quạt, vỡ lòng cho tôi mấy chục năm trước, nó đẹp, nó tươi mát đến thế! Tôi nhớ lại lời căn dặn của cha tôi, của giáo sư Nguyễn Văn Tòng, tôi giở sách Légendes des Terres Sereines của Phạm Duy Khiêm ra đọc lại những cổ tích Việt Nam. Và lúc đó tôi tự nguyện là trong khi học hỏi về ngôn ngữ và văn hoá Anh-Mỹ, tôi sẽ gia công đọc, ghi và viết, ghi và viết mãi, để không bao giờ quên cội nguồn của chính mình.

Mùa thu năm nay, 1988, kỷ niệm bốn mươi năm từ khi tôi rời Hà Thành yêu quý, tôi xin được phép tưởng nhớ đến số nhà 65 phố Hàng Bạc, 13 ngõ Văn Tân, 40 phố Hàng Bè, 141 phố Đường Thành, 22 phố Tien Tsin, 35 phố Châu Long, ngần ấy địa chỉ biểu lộ quá trình "a.b.c không có nhà đi ở thuê" của gia đình chúng tôi.
Tôi cũng xin được phép nghĩ đến những mái trường Trí Tri, trường Hàng Vôi (lấy tên Đô đốc Courbet), trường Bờ Sông hay Trường Kế (lấy tên ông Đồ Phổ Nghĩa, tức Jean Dupuis), rồi trường Bưởi...
Nghĩ đến những vị ân sư của tôi: thầy Đào Huy Huân, thầy Đàm Trung Trước, thầy Phan Trọng Kiên, thầy Đào Văn Minh, rồi lên trung học thì thầy Phong, thầy Tường, thầy Chương, thầy Phú, thầy Hoán,  thầy Quỳnh, thầy Khang, thầy Chính, thầy Phục, thầy Hàm, thầy Mạnh Tường, thầy Tố, thầy Hãn, thầy Nghị... đã ra đi gần hết.
Cũng như những bạn đồng song của tôi: Thanh "sứt", Giễm "toét", Lưu "điên", Bằng "nháy"... và bao nhiêu bạn khác tản mạn khắp bốn phương trời.
Tất cả đã dạy tôi rất nhiều điều về phong cách một anh học trò Việt Nam, cũng như cốt cách một con người Việt Nam... mà cha mẹ tôi qua bao năm trời đã dày công chăm lo giáo dưỡng trong tôi.


Nguyễn Đình Hoà




--------
Nguồn: VĂN, số 75, tháng 9/1988.



                             

Saturday, December 22, 2018

QUÊ XƯA THẦY CŨ


Huyền Châu

Huyền Châu viết lên bao kỷ niệm ở quê nhà lúc tuổi thơ. 

 
Hôm nay Thu về rất sớm. Sáng nay trời vẫn mưa lâm râm, sương mù giăng trắng đục, gió thổi nhẹ đưa những cành cây nghiêng ngã, lá vàng rơi!
Mới đó mà đã mười ba mùa Thu xa quê hương. Xa bao nhiêu bạn bè thân thuộc, đêm đêm khi thức giấc càng nhớ càng buồn.
Suốt đêm qua trằn trọc thâu đêm khi nghe cô Lệ Hằng nhắc tới ngày kỷ niệm 50 năm của nhà thơ "Hàn Mạc Tử". Lòng tôi càng thương tiếc một nhà thơ lớn, đã ra đi vĩnh viễn khi tuổi đời chưa đến ba mươi. Cũng vào một chiều Thu năm 1940 tại Qui Nhơn trong làng Qui Hoà.
Trước hai năm đó ba chị em tôi là ba con bé, tôi tuổi 15, chị tôi 16 và em tôi 14. Trên đường đi học về mỗi ngày hai buổi, đi ngang qua nhà Thầy tình cờ một buổi trưa hè trời vừa tắt nắng. Gió biển thổi nhẹ phớt qua hàng thông reo vi vu. Có tiếng kêu sau lưng:
"Bạch, Châu, Quy"
Chị em tôi cả ba quay lại, thì ra anh Nghĩa đang đứng trước nhà với một người con trai xa lạ, anh Nghĩa giới thiệu:
Đây là anh Nguyễn Trọng Trí . Còn đây là ba chị em, Bạch là chị, Châu là trự này, còn út là Quy. Trự Châu này làm thơ hay lắm mà cũng xạo một cây! 
Tôi cãi:       
Anh giới thiệu gì ác ôn vậy? Tui biết viết thơ tình chớ tui đâu có biết làm thơ. Hai chuyện đó đâu có giống đâu, mà có viết thơ là viết dùm cho anh để gởi cho chị Thuỳ, chớ có viết cho ai đâu nà! 
Anh Trí cười to, "chết toi em chưa? Khi không gặp cô bé này khai huỵch toẹt". 
Tôi phân trần:   
Anh Trí biết không, anh Nghĩa học cao nhưng viết thơ cho bồ, viết khô như dăm bào củi mục, không ướt át mùi mẫn gì ráo trọi à! Nhờ em o bế gò gẫm nên vần thơ mới khiến người đẹp mê ảnh quá mạng. 
Em giỏi quá! Em thông minh quá, làm sao mà em còn nhỏ mà biết viết thơ tình? Em đã sống thật trong cảnh đó sao? Hay là em tưởng tượng... thì khổ lắm. 
Tôi ngon lành vênh váo: 
Dạ đâu có, em đọc văn Tự Lực Văn Đoàn em ăn cắp... mà nè anh làm thơ hay, anh dạy em với nghe. Nhà anh ở đâu? Cho em lại chơi được không?
Anh Trí gật đầu: "ừ mai mấy em lại đây chơi, nhà anh ở đây, muốn học làm thơ anh dạy cho các em".
Trên đường về con chị và con em của tôi mắng tôi hết chỗ nói, bảo là: "Đồ vô duyên mất nết. Đứng trước mặt anh Trí đoàn hoàn mà nói xạo, nói một dây dài không biết mắc cở. Họ chê mày có tài đi đâu cũng tía bà, dành nói một mình, không cho ai nói!... " 
Tôi nổi sùng:       
Bạch Trang mày đừng có xài xể tao nghe mày! Tại tụi bay không chịu nói, cứ mãi cầm chiếc nón trên tay lo le, khi thấy họ nhìn bay lại quay mặt đi nơi khác. Còn tao há! Đi đứng đoàn hoàn, khi nói chuyện tao nhìn thẳng mặt họ, nói ngay thẳng như ruột ngựa, như vậy mới là xã giao... 
Con em tôi nó nguýt tôi như dao bén:   
Ai mà cãi lại cái miệng chị? Chị hẹn ngày mai lại, chưa chắc gì chị dám tới!
Tôi cam đoan:"ừa mà mai tao đi, tụi bay còn phải năn nỉ tao xin theo nữa là khác".  
Đêm nay trăng thượng tuần đã mọc sớm. Ánh trăng  mờ mờ như chiếc lưỡi liềm nằm vắt ngang các vì sao sáng, từ từ lướt qua áng mây bay. Tôi đang ngồi dưới gốc cây khế, lòng đang lo nghĩ ngày mai đến nhà anh Trí không biết vô đề những gì cho êm ả cho ngon lành. Bỗng đâu hai con nha đầu kia đến làm lành với tôi: "Nói chơi với mày, chớ thiệt tao với con Quy phục mày quá xá! Mày dám ăn nói bạo, mới nghe qua anh Nghĩa giới thiệu với anh Trí, là mày gọi anh Trí liền. Làm như mày quen thân đời nào. Cũng chẳng biết anh ta bao nhiêu tuổi, đã có gia đình chưa? Ngày mai lại nhà người ta... biết họ... "  
Tôi cười ra vẻ sành đời: "Tại tụi bay cứ cười duyên quay lưng chỗ khác. Bay đâu có nhìn rõ mặt ai đâu! Tao nè, tao nhắm tướng người giỏi lắm, hồi còn ở nhà thầy tao học rồi, có kinh nghiệm nhiều, nên những gì tao nói là đúng y chang. Anh Trí, tao nhắm chừng chưa đầy ba mươi tuổi, đường trán cao rộng, tao cho là người rộng rãi vị tha, đôi mắt anh dài là mắt nhiều tình cảm, mũi anh thẳng, lưỡng huyền đều hơi xoan xoan là người hiền. Nhưng đôi tai của anh nhỏ, vành hơi dày... !"

Sáng nay chúa nhật, sau khi đi lễ nhà thờ xong, ba chị em tôi lại nhà anh Trí. Ba chị em đều rụt rè, thập thò không dám vô, may nhìn cửa mở hé, hai con xí xọn đẩy tôi lại cửa. Cánh cửa mở, tiếng trong nhà gọi ra: "Ai đó! Vô nhà!". Tôi rón rén bước vô. Anh Trí mặc bộ py ra ma trắng có viền màu xanh dương, đang ngồi trên ghế viết bài. Trên bàn sách vở bày ra rất nhiều, bên cạnh bàn có bình trà và tách.
Ba chị em tôi lễ phép:
Thưa kính anh. Hôm qua anh cho phép tụi em lại để thọ giáo thầy, mong thầy giúp đỡ cho bài vở, gần ngày thi. Riêng hai chị của em học giỏi, có mình em học dở quá! Xin anh vui lòng nhận cho. Ba chị em từ đây về sau là đệ tử của thầy.
Anh nhìn ba chị em tôi cười hiền:
Được rồi, thầy sẽ chấp nhận các em, lúc cần là đem lại đây thầy chỉ dạy, nhưng với điều kiện là thầy không lấy thù lao, thầy miễn phí cho các em...
 
Gần nửa năm đến học thầy mỗi ngày chúa nhựt. Có hôm tôi làm bài luận sai, mà tôi làm tàng lúc ngồi viết lấy tay chận che, sợ con chị và con em copy, thế rồi tôi cũng bị hột vịt bự. Tôi bực tức đem lại đưa thầy coi:
"Thầy ơi, bài luận em làm như vậy mà bà sơ cho hột vịt, thiệt tức muốn bể cái ngực".
Thầy lấy sách mở ra xem. Thầy mĩm cười:
 "Em viết sai còn bực tức nỗi  gì? Tại sao người ta hỏi 'trên trời' mà em trả lời 'dưới đất'. Bà sơ hỏi: trò trả lời cho biết: Hoàng hôn có những gì? Bình minh có những gì? Em trả lời: Hoàng hôn mỗi chiều nắng tắt ngoài đồng, các cô thôn nữ rủ nhau đi về nhà, chú mục đồng ngồi lưng trâu thổi sáo và dẫn trâu về nhà dùng cơm tối. Bình minh lúc năm giờ sáng, những người trong xóm gánh hàng ra chợ bán, họ vừa đi vừa chạy, họ mệt họ thở, họ ngồi xuống quán nhỏ bên đường uống nước trà huế trà tàu..."  
Thầy nói xong cười to, hai con nha đầu cũng cười, mặt tôi bí xị cũng cười theo.
Chiều nay khi đi học về ghé vô thăm thầy, thầy nằm xây mặt vào vách đấp mền. Nghe tiếng động, thầy quay lại nhìn ba chị em tôi. Tôi nhìn thầy ái ngại, mặt thầy đỏ hồng. Tôi lại gần sờ trán thầy, nóng quá!
Thưa thầy bị cảm nặng, thầy ráng ngồi dậy cho tụi em cạo gió cho thầy.
Thầy ái ngại lắc đầu: "khỏi làm phiền mấy em!"
Bạch Trang lấy đồng xu, chén nước lạnh đến bên thầy... thầy không chịu. Tôi đè thầy xuống vén áo sau lưng cho con Trang cạo. Linh Quy đi nhóm lửa nấu cháo, tôi định đứng dậy, Trang nháy mắt ra dấu đè tay thầy, sợ thầy trở mình không cho cạo. Linh Quy nấu cháo xong múc ra chén, đem lại bàn mời thầy dùng cháo với muối. Thầy mệt nhiều đi đứng khó khăn. Tôi đề nghị với tụi nó đi mua lá xông nấu cho thầy xông. Vừa lúc ấy có một chị mặc bộ đồ dài trắng xách giỏ bước vô nhà, thấy chị em tôi bu quanh thầy, chị nhìn cười. Thầy giới thiệu:
Đây là Mai Đình nữ sĩ đó các em, nàng là đồng nghiệp với anh, thỉnh thoảng cô lại đây thăm thầy.
Tôi thân mật:
Thưa cô, hân hạnh chị em em mới biết cô. Tụi em mỗi ngày chúa nhật thường đến thăm thầy mà không được gặp cô. Bữa nay đi học về sớm vô thăm, thấy thầy bị cảm, thân mình nóng như lửa, tụi em đè thầy nằm xuống cạo gió. Thầy dằn co, em phải ngồi đè thầy cho chị em cạo.
Mai Đình cười hắc hắc. "Ảnh lúc này thường bị cảm mỗi chiều, chị không biết cạo gió, chị cho ảnh uống thuốc cảm, đôi khi ảnh cũng bảo là khỏi uống cũng mạnh, tại ngủ ít thành như vậy".
Nghe giọng chị nói sửa giọng tiếng Bình Định, nhưng giọng Bắc cũng còn lơ lớ. Tôi nịnh, khen: "cô có giọng nói êm dịu quá, tiếng Bắc tiếng Bình Định giống nhau, cũng như thầy em nói cả hai thứ tiếng Bình Định và tiếng Huế.
Bạch Trang thấy tôi nói nịnh, hắn khều tôi, "xin chào thầy đi về kẻo tối ở nhà trông. Hơn nữa lúc chạng vạng mà đi về ngang qua miễu Cô Hồn là lãnh đủ".
Trên đường về chị em tôi nói lén, Linh Quy nói cô Mai Đình mà sóng mũi cao như mũi chị Hai chắc đẹp lắm, còn thân hình cô tròn mà không cao bằng thầy mình uổng quá.
Tôi làm ra vẻ hiểu đời:
Ê tụi bây nghĩ sao? Thấy sao? Có để ý không? Còn tao liếc thoáng qua con ruồi bay qua là biết con ruồi nào là đực, con ruồi nào là ruồi cái! Cô Mai Đình yêu thầy lắm đó.
Bạch Trang hỏi:    
Mày căn cứ ở đâu mà mày dám nói đại vậy?
Tao thấy trên miệng túi áo của thầy có thêu hai chữ tréo lại là M. H.
Linh Quy xen vô:
Hèn chi ở dưới nhà bếp sạch sẽ,  nấu ăn thấy để trong tủ lưới, em lấy làm lạ mà em không dám nói.
Tôi cãi. Đâu  phải. Có lẽ bà cụ má của thầy lại nấu cơm cho thầy ăn, hay là các anh em của thầy, tất cả năm người. Bà cụ đặt tên con hay lắm: "Nhơn, Nghĩa, Lễ, Trí, Tôn". Chẳng khác nào má của bà Năm Phỉ đặt tên con: "Công, Thành, Danh, Toại, Phỉ, Chí, Bia, Truyền, Tạt, Để".
Bạch Trang khen: mày hay lắm, hay học lóm của người ta nên mày hiểu nhiều hơn tụi tao. Bây giờ tao đề nghị, chung tiền mua vải, chỉ thêu, thêu khăn tặng thầy kỷ niệm.
Linh Quy tán thành: ừa phải, mỗi đứa thêu hai cái khăn, phải làm cho đẹp, rút rua xung quanh, thêu chỉ tréo trong góc.
Tôi đồng ý nhưng ngẫm nghĩ. "Không được thêu hai chữ, theo tao thấy thầy có nhiều chữ lắm, bữa hôm trước vô tình mà tao coi lén thơ của thầy, một nữ độc giả từ Phan Thiết gởi cho thầy có tên đẹp lắm, Mộng Cầm, lại còn có cô tên Hồng Sương nữa. Như vậy con Trang thêu hai cái, để tên là C.T. , còn Linh Quy hai cái để tên H.S. , phần tao hai chữ M.T. Như vậy là trong sáu cái khăn có tên ba người đẹp."

Một tuần sau, thêu rồi sáu cái khăn. Khăn đứa nào thêu xong cũng nhìn sạch sẽ và đẹp, còn khăn tôi thêu đã xấu mà đen. Khi đem tặng thầy đứa nào cũng mắc cở không dám đưa, đem đi rồi lại đem về. Bữa sau tôi làm dạn kêu to:
Thầy ơi! Tụi nó thêu khăn tặng thầy mà không dám đưa.
 Nhìn phía sau, tụi nó bỏ chạy hết. Tôi cũng chạy ra cửa theo tụi nó luôn, để đại gói khăn bao giấy màu thắt bông trên bàn.
 
Nhà thầy mướn ở gần đường đi ra mé biển, nên thuận đường nhà tụi tôi đi học phải đi ngang qua. Mỗi khi đi ngang, nhớ bẻ vài cành bông đem vô nhà thầy cắm trên bàn thờ Chúa. Thầy sùng đạo, gia đình thầy đạo giòng. Thánh thiện lắm, trên bàn thờ một thập tự giá, quyển kinh. Hôm kinh mai, thầy nhớ lúc nào cũng cầu nguyện.
Sáng chúa nhật hôm đó đi nhà thờ định rủ thầy đi luôn. Ghé vô thấy thầy ngồi bên cạnh chiếc bàn mặt tái xanh. Bạch Trang hỏi thầy, thầy bảo đau bụng, nhỏ ra vẻ chị cả:
Nè con Quy xuống bếp nấu nước gừng cho thầy uống ấm bụng, con Châu đi mua thuốc ỉa cho mau về, thầy uống. Còn tao quét nhà, tội nghiệp thầy, nhà thầy mà chị em tôi xem như nhà mình, muốn làm gì thì làm, nói sao thầy nghe vậy.
Ngày chúa nhựt nhà thuốc tây trên đường Gia Long đâu có bán. Tôi chạy lại tiệm bà Phán Hạt gần chợ, tiệm nhỏ mà bà bán thuốc kiết, thuốc ỉa hay lắm.
Tôi lại mua:
Bà ơi! Bán cho tôi thuốc ỉa.
Bà mang đôi mắt kiếng nhướng lên nhìn tôi hỏi:
Thuốc ỉa hay thuốc kiết? Thuốc kiết là bị kiết lâu ngày, mỗi lần đi khó khăn đau đớn. Còn thuốc ỉa là đi "sông" hoài, hai thứ khác nhau, còn có thuốc xổ ỉa nữa.
Tôi ngơ ngẫn:
Tại chị tôi kêu đi mua thuốc ỉa, đâu có nói mấy thứ kia, bà bán thuốc ỉa cho tôi.
Tôi co giò chạy lẹ về cho mau thầy uống. Bạch Trang hắn thấy tôi về, hắn đón ngay ngoài cửa giựt lẹ gói thuốc trên tay, bước vô rót nước đem lại bàn đưa cho thầy uống.
Thầy ơi! Thuốc nè mau uống cho hết bệnh.
Thầy bưng chén nước để lên miệng, tay cầm gói thuốc nhỏ đã mở sẵn định uống, bỗng đâu thầy coi lại ngoài bao thầy cười hắc hắc.
Chúa ơi! Thuốc này là thuốc xổ, thầy đi "sông" nhiều, phải uống thuốc cầm... sao lại còn uống xổ, may mà thầy coi lại, không chết luôn.
Con Trang nó ký đầu tôi mắng:
Cái con này ngu như con bò, ai biểu mày đi mua thuốc xổ?
Ai biểu mày kêu tao mua thuốc ỉa, tao tưởng thầy ỉa không được, may phải hồi nãy tao mua thuốc kiết về thì nó cũng là ỉa chớ khác gì đâu.
Linh Quy nhỏ đứng sau bếp cười như điên, thét rồi Bạch Trang với tôi cười luôn... may nhờ thầy uống nước gừng, thoa dầu vào rún nên ấm lại bớt nhiều.

Ngày Tết nguyên đán Canh Thìn 1940, đến chúc tết thầy. Buổi sáng đẹp trời vào nhà thấy chị Mai Đình ngồi. Tôi ái ngại:
Thưa cô, năm mới tụi em chúc cô thầy khang an thịnh vượng, hạnh phúc và vui vẻ.
Cô cười bảo:
Nè từ nay trở lên gọi tui là chị cho thân mật. Gọi theo văn nghệ sĩ vì văn nghệ sĩ không có tuổi nghe em. Còn gọi anh Trí theo bút hiệu là anh "Hàn Mạc Tử" cho ra vẻ, đừng gọi thầy, lại còn gọi cô! Chị với anh Trí chỉ là bạn, đôi bạn nghèo...
Tôi ngạc nhiên thơ ngây hỏi:
Ủa mà sao em thấy chị hằng ngày ở đây săn sóc lo lắng cho thầy, có khác nào tình chồng vợ. Sao chị lại phủ nhận tình thầy em?
Chị buồn buồn:
Em tưởng vậy mà không phải vậy! Anh Trí có nhiều người yêu đẹp lại giàu sang, còn chị nghèo nàn, anh coi chị như đứa em gái, mặc dù chị yêu ảnh nhiều...
Ủa ai là người đẹp đâu em không thấy?
Em không tin em đi ra mé biển, em sẽ thấy ảnh cùng người đẹp từ Phan Thiết ra. Cặp tay nhau đi hứng gió.
Tôi tội nghiệp chị Mai Đình, suy nghĩ:  À để em ra biển xem mặt người đẹp!
Từ nhà ra biển rất gần. Sáng nay bãi biển vắng người, ghe chài lưới không ai làm, vì ngày tết. Tìm không thấy thầy đâu, tôi đi dài theo mé biển lên gần "Gành Ráng", xa xa mới thấy hai người cặp tay nhau đi chầm chậm. Tôi chạy một mạch đến sau lưng thầy kêu:
Thầy ơi! Về nhà ăn cơm.
Cả hai cùng quay lại, tôi thở hỗn hễn đưa tay kéo tay thầy nắm chặc.
Thầy đi về ăn cơm rồi còn đánh bài chòi!
Người đẹp nhìn tôi ngơ ngẩn. Thầy nhìn tôi thầy cười, đưa tay sửa mái tóc tôi thân mật.
Coi kìa chạy đi đâu mà tóc tai xơ xác. Bữa nay thầy nhìn em ra vẻ con gái... mặc áo màu cà, đeo kiềng vàng trông đã trộng, thầy sắp được uống rượu... nhưng tánh vẫn trẻ con. À đây em, Mộng Cầm người yêu của thầy.
Tôi bí xị:
Thiệt hả chị? Chị yêu thơ hay là chị yêu như chị Mai Đình nữ sĩ? Hai thứ khác nhau.
Câu hỏi ngây thơ của tôi làm chị bật cười. Chị yêu bài thơ "Trăng ơi trăng, ai mua trăng tui bán trăng cho... " Chị bảo phải chi chị có máy hình, anh em mình chụp để kỷ niệm đầu xuân. Ở Phan Thiết cũng có "Lầu ông hoàng". Tôi cản:
Có máy cũng không nên chụp ba người, kiêng lắm! Em nghe bà ngoại em nói là chụp ba người phải có người chết!
Anh Trí nhớ lại:
Vậy mà bữa trước chụp ba người, có dì Hồng Sương trong đó.

Về nhà tôi nói nhỏ với hai con nha đầu:
Nè tụi bay biết không, hồi sáng lúc ra biển tao kéo tay thầy về ăn cơm, tao thương chị Mai Đình, tao muốn phá đám, tao nắm tay thầy chặc hồi lâu không buông. Nhưng tao cảm thấy...
Bạch Trang nói lẹ:
Phải đó, tuổi dậy thì của mầy bắt đầu biết cảm giác đó!
Tôi nạt to:
Bậy nà, tay thầy như nặng nặng...
Linh Quy làm tàng:
Chị hai nói đúng đó, bàn tay thầy nặng là tại lâu nay thầy kêu nhức mỏi hoài đó!

Ngày tháng lần lượt theo thời gian, thầy bị bịnh ngặt nghèo, người nhà đưa thầy đi xa dưỡng bịnh, biết được thầy lên Gò Bồi nhà người cậu.
Tôi cùng Linh Quy quá buồn, Bạch Trang qua Pháp, thầy lại đi dưỡng bịnh xa. Riêng tôi cũng sắp sửa vô Sài Gòn. Một hôm hai vợ chồng anh chị tôi từ Gò Bồi xuống thăm ba má tôi, tôi hỏi thăm:
Chị Sáu ở trển chị có gần nhà thờ không? Có nhà thương chữa bịnh không? Mỗi khi em lên Lương Tài thăm ngoại mà em không thấy.
Chị bảo:
Chị ở mé trong chợ, nhà thờ ở mé trên, sau nhà thờ là miếng đất rộng, mấy người có đạo họ cất nhà tranh ở đó, lên đó không xa mấy.
Không biết sao chiều nay tôi buồn ray rức, mà từ bé đến giờ chưa có bao giờ biết buồn. Ngồi thẩn thờ dưới giàn hoa thiên lý, trên chiếc võng cột ngang gần cạnh ao sen. Nhớ Bạch Trang, nhớ lại bút hiệu của thầy mà rùng mình tự hỏi, sao thầy lấy bút hiệu "Hàn Mạc Tử". Hàn mạc đến chết! chết trong cảnh nghèo! chết trong cô đơn!. Linh tính làm cho tôi xao động. Tôi thương nhớ thầy vô hạn, tôi khóc nức nở. Linh Quy rửa chén trong bếp bước ra cặp mắt đỏ hoe, hắn thút thít chậm nước mắt nói nhỏ: em nhớ thầy quá à!
Sáng hôm sau chị em tôi theo anh chị tôi về Gò Bồi. Sau đó lên Lương Tài thăm ngoại tôi cách đó ba cây số. Đi bộ lên không xa, ngồi trên chiếc đò nhìn mái chèo rẽ đôi mặt nước, mùi nước mộc mạc thoáng bay tôi càng buồn. Biết rằng chuyến đi này là lần sau chót, không biết ngày nào trở lại.
Lên đến nơi trời đã quá trưa. Vừa lúc đó gặp chị Mai Đình đi chợ về, mừng quá chị em tôi lăng xăng bên chị hỏi thăm thầy. Chị buồn rưng rưng nước mắt:
Hai em ơi thầy bị bịnh nan y, cấm không cho ai lại gần, chỉ có mình chị nuôi cơm nước hằng ngày, thay quần áo sạch sẽ. Chắc thầy khó mà lành được.
Nhìn chị tôi thấy thương hại. Mới cách xa vài tháng mà thân hình chị gầy ốm, già trước tuổi! Linh Quy thơ ngây:
Phải chi hồi đó chị Mai Đình chịu đám cưới, chắc được đứa con nối nghiệp cho thầy.
Mai Đình lắc đầu chán nản:
Không có đâu em, thầy xem chị như đứa em, đến sau có tình cảm yêu thương thì thầy trở bịnh nặng nề...
Tôi thắc mắc:
Như chị là vậy, còn Mộng Cầm, Hồng Sương thì có như chị không?
Thầy đã nói thiệt cho chị nghe như trối trăn, tình  yêu mấy người đó rất sâu đậm, nhứt là Mộng Cầm. Nhưng chưa bao giờ hoen ố. Thầy giữ gìn cao đẹp, hứa hẹn sẽ đi đến hôn nhân thật sự.
Chị cố gắng cho chị em thăm gặp mặt thầy lần chót, trước khi em lìa quê đi xa. Em rất lo lắng tuổi hai mươi tám của thầy, năm nay bị sao La Hầu nặng lắm!

Theo chị đi vào đường nhỏ gần nhà thờ, phải đi tuốt tận trong xa. Một mái nhà tranh nhỏ quay mặt ra giữa cánh đồng. Trong nhà đặt một chiếc giường nhỏ cho thầy nằm, một bàn bốn ghế gỗ, thứ gỗ rẻ tiền, một bàn thờ Chúa, có một chiếc ghế bố xếp lại dựng bên góc nhà.
Thầy nằm trên giường buông tấm mùng trắng. Tôi rón rén bước lại gần vén màn, tôi bụm mặt  khóc, Linh Quy khóc theo. Thầy nói nhỏ trong đau đớn:
Đừng khóc! Giờ phút này được gặp mặt các em vừa kịp lúc Chúa đã cất phần anh do ý Chúa! Con người  "sanh lão bệnh tử", ai ai trên thế gian này sao tránh khỏi. Các em còn nhỏ, lúc nào nhớ đến thầy, cầu nguyện cho thầy, dầu hai mươi, ba mươi hay năm mươi năm nếu còn mạnh giỏi trên trần gian.
Tôi nghẹn ngào, chị Mai Đình đưa mắt nhìn tôi, tôi hiểu ý bước ra, liếc thấy trên tay thầy quấn chiếc khăn nhỏ của ba chị em tôi thêu tặng.

Trưa nay trong trường nữ công Mỹ Ngọc, tôi được thơ Linh Quy từ Qui Nhơn gởi vô cho biết ngoại của tôi bệnh nặng về gấp.
Trên chuyến xe lửa về  đêm lăn bánh trên đường sắt rền vang, lòng tôi bâng khuâng trông mau đến nhà, có dịp lên Gò Bồi thăm thầy luôn.
Về đến sân ga nhỏ "Diêu Trì", một buổi chiều cuối thu mưa rơi ảm đạm. Hàng cây ngô đồng đã rụng lá đứng xơ vơ.
Linh Quy đón tôi nở nụ cười mừng rỡ. Trên toa xe trở xuống Qui Nhơn khoảng đường gần mười cây số. Tôi hỏi vội em:
Sao ngoại đau bịnh gì hở em?
Em tôi buồn:
Chị ơi! Bịnh ngoại là bịnh già tuổi cao, một trăm tuổi như ngọn đèn lụn dầu chưa biết tắt lúc nào, nên cần chị phải có mặt... Còn thầy của chị em mình đâu còn nữa! Thầy đã ra đi vĩnh viễn mới đây cũng một sáng thu, trong nhà thương Tuy Hoà.
Tôi như muốn đứng tim. Không khóc được, bàng hoàng như trong giấc mơ, tôi không biết nói sao cho vơi đi nỗi lòng sầu thương người thầy, mà chị em tôi coi như là cha sinh.

Bốn giờ chiều hôm đó, tôi theo em lên đèo "Vũng Dừa" vô làng Qui Hoà nhà thương cùi. Khi đi ngang qua "Lầu ông hoàng", hình ảnh thầy cùng chị Mộng Cầm hiện ra cảnh cũ. Nhìn qua chân đèo, mé trước là một xóm nhà to nhỏ, có nhiều hàng thông xanh đứng xấp lớp bên nhau. Mé kia là biển xanh, mặt nước lững lờ buồn xao động. Xa hơn nữa là một nghĩa trang có những ngôi mộ trắng. Chị em tôi đến nơi, tìm đến nghĩa trang, chẳng bao lâu tôi đã đứng trước ngôi mộ vừa mới đắp, có dựng mé trước một cây thập tự giá to. Tôi quỳ xuống lâm râm cầu nguyện.
"Thầy ơi! Có đau đớn nào cho bằng tử biệt sinh ly. Em khóc thương thầy tuổi đời mới hai mươi chín, đã lìa xa kẻ thân yêu ra đi về với cát bụi. Nằm đây hiu quạnh có một mình. Nhưng tên tuổi của nhà thơ Hàn Mạc Tử chắc là chẳng ai quên. Em cầu mong sao em được sức khỏe cho đến tuổi già, những ngày giỗ kỷ niệm của thầy, em sẽ nhắc lại cho cùng các bạn nhớ tên thầy Nguyễn Trọng Trí, đã sống trên quê hương Qui Nhơn hai mươi tám năm chào đời... "

Chiều xuống dần, mặt trời khuất sau đỉnh núi, gió biển thổi mạnh, tiếng thông reo vi vu bất tuyệt hoà lẫn đàn chim chiều bay cao về tổ cất tiếng kêu lẻ bạn.
Kính dâng hương hồn thầy về nơi cõi bình an với Chúa. Đứa học trò của thầy vẫn nhớ "Cảnh xưa thầy cũ" trong tim mãi mãi.

Huyền Châu



------------
Nguồn: VĂN, giai phẩm xuân Tân Mùi
Số 102 & 103, tháng 01/1991








Wednesday, December 19, 2018

CHUYỆN RUỒI BU




Nguyễn Thạch Giang



Trường Trung học cơ sở Tân Lập hôm nay vui như một ngày hội, thầy giáo cô giáo ăn mặc đẹp lăng xăng đi tới đi lui í a í ới gọi nhau, học trò thì tụm năm tụm bảy chen lấn coi ban văn nghệ của trường đang tập hát tập múa trình diễn phúc khảo, chuẩn bị cho buổi thi đua văn nghệ giữa các cơ quan toàn tỉnh.
Cô giáo Mỹ Lan bước vào văn phòng thầy hiệu trưởng, cô có một việc phải hỏi cho ra lẽ. Nhạc cảnh "Điệu múa cồng chiêng" do cô dàn dựng sao hôm nay có sự thay đổi. Tốp múa nam vận khố giả người dân tộc Tây nguyên cho giống 'người thật việc thật' ngoài đời, sao hôm nay lại mặc quần phía trong là sao?. Thầy hiệu trưởng vừa nói vừa nhìn vào cổ áo cô giáo Lan ngồi đối diện. Hôm nay cô mặc áo dài cổ thuyền, cổ áo khoét hơi sâu để lộ cái bộ ngực căng tròn khiến cho thầy không thể không nhìn vô chỗ đó.

"Tôi có hội ý với ban giám hiệu về chuyện đó, mọi người đều e ngại nếu để mấy em vận khố như người thật ngoài đời lên sân khấu, sợ không qua được khâu "duyệt".
                         
Cô Mỹ Lan cũng đoán được câu trả lời, nhưng đó chỉ là chuyện nhỏ, cô kiếm cớ vô phòng thầy hiệu trưởng chỉ để có chút ít phút riêng tư cùng thầy. Hôm nay cô ăn mặc đẹp hở trên hở dưới, cô muốn khoe với thầy, và cũng bởi cái cách nhìn của thầy khiến cô có cảm tưởng mình đẹp.

"Người mình ở đây còn hơi nệ cổ, chớ em nghe nói bên Tây Pa Ri có màn múa gì đó nổi tiếng lắm, mấy cô vũ công đều để ngực trần... thì đã sao".

Thầy Lâm trố mắt chu miệng thế à thế à. Cô giáo Mỹ Lan đứng dậy:

 "Em trở qua xem chúng nó tập dợt tới đâu rồi, chút nữa thầy có ghé thăm không?".

"À, có, có"

Thầy nhìn theo dáng cô bước ra cửa, hôm nay cô mặc áo dài màu thiên thanh, chiếc quần trắng vải hơi mỏng gió thổi tà áo để lộ chiếc quần lót màu hồng. Mùi thơm thoảng thoảng trong gió, thầy thích người đàn bà có chút son phấn và thơm mùi nước hoa.

Cô Mỹ Lan là giáo viên chủ nhiệm lớp 6A1. Hôm nay vừa bước vào lớp là cô phải xử một vụ kiện cáo. Trò Lê Phong báo cáo trò Nguyễn Tân và trò Đặng Phi nói tục chửi thề.

"Thưa cô, sáng nay em trên đường tới trường, bạn Tân và bạn Phi đang đứng nói chuyện trước cổng trường, gặp em bạn Phi đưa "ngón tay thối" vô mặt em và nói: 'Mầy đừng ỷ mầy là con cán bộ mà lớn lối hù dọa tao, tao đéo sợ'. Bạn Tân liền nói 'Á đù' ."
         
Cô giáo kêu trò Tân và trò Phi lên hỏi tội. Cô hỏi trò Tân:

"Em bắt chước ai nói á đù"

"Bà nội của em, bà cứ suốt ngày á đù á đù nên em thấy tiếng đó cũng hay hay, em đâu biết tiếng đó bị cấm"
 
Cả lớp cười một cái rần.    
Cô giáo lấy thước bảng gõ lên bàn giữ trật tự. Cô nói với trò Tân:

"Mình là người có văn hoá, không nói tục chửi thề. Em đứng giữa lớp nói lời xin lỗi, và hứa với các bạn là từ nay không nói á đù"

Trò Nguyễn Tân ngượng ngùng bước ra giữa lớp, đứng trước các bạn học nói lời tuyên hứa.

"Tôi xin hứa từ nay không nói... không nói..."

Một vài bạn học phía dưới nhắc: "á đù! á đù!". Tội nghiệp thằng nhỏ cứ ngập ngừng, không biết vì nó sợ quá hay sao mà cứ ngập ngừng...
Cô giáo nóng lòng, lấy thước bảng nhịp lên bàn kêu bốp bốp nghe phát kinh. Cô lớn tiếng: "Nói gì?"
Cả ba mươi học sinh trong lớp đồng thanh tiếp sức nói một tiếng rõ to: "Á đù!"
Trò Phi nảy giờ thấy cô giáo xử tội bạn Tân mà nó sợ điếng hồn. Giờ tới phiên nó phải ra trước vành móng ngựa. Nó run run bước ra giữa lớp nói lời thú tội.

"Tôi là Đặng Phi xin hứa với các bạn từ nay không nói... không nói..."

Cả lớp ba mươi học sinh bỗng cười rầm rầm vang vội. Cô giáo ngó thằng học trò tội đồ, cô cũng không nhịn được... bật cười hô hố.

"Ối giời ơi! Anh trai 'đéo sợ', anh ngoài đường lớn lối giờ lên đây té đái trong quần"

Cả lớp lại cười ầm ầm.

"Cho anh hôm nay nghỉ học về nhà thay quần".
 
Tiếng cười vang lộng đến văn phòng thầy hiệu trưởng, nảy giờ thầy nghe văng vẳng khi thì "á đù" khi thì "đéo sợ". Thầy bước đến lớp cô Mỹ Lan tìm hiểu. Khi nghe cô trình bày sự việc, thầy chu miệng:

"Học sinh chửi thề nói tục, đúng là chuyện ruồi bu! Phải họp hội đồng giám hiệu xử lý!"

Cái chữ "chuyện ruồi bu" đó thầy học được từ hôm đi Sài Gòn chơi cho biết, cũng đã lâu lắm rồi.  Thầy thích câu đó lắm, đã hơn hai mươi năm qua vậy mà tới giờ thầy cũng còn thích... "chuyện ruồi bu".
     
Hội đồng giám hiệu trường trung học cơ sở Tân Lập xử phạt cảnh cáo, trò Nguyễn Tân và trò Đặng Phi nghỉ học một tuần vì tội nói tục chửi thề.
Cô giáo Mỹ Lan hôm nay men theo đường làng đến nhà trò Nguyễn Tân làm việc. Cô sẽ thông báo cho phụ huynh biết là em đã nói tục chửi thề, bị phạt nghỉ học một tuần. Cô sẽ tìm hiểu gia cảnh của em và động viên gia đình trông chừng dòm ngó không để em chơi với bạn xấu.
Trò Tân mở cửa, gặp mặt cô giáo nó hoảng kinh nói "á đù" rồi vọt lẹ ra nhà sau trốn.
Một người đàn bà và đứa cháu gái đang ngồi trên chiếc chõng tre gói bánh tét, có lẽ là bà nội của em. Bà thấy cô tưởng người đến đặt bánh, liền hỏi:

"Cô đến đặt mua bánh tét?"

"Dạ không, cháu là giáo viên chủ nhiệm lớp của em Tân"

Bà nội và đứa cháu gái tiếp tục công việc gói bánh, tưởng người đến đặt bánh thì bà đứng dậy đi lấy mẫu cho xem và nói giá. Còn ba cái chuyện nhà trường chuyện học hành thì không có gì phải vội.
Cô giáo Mỹ Lan đứng xớ rớ, chủ nhà không buồn mời ngồi thì mình tự động tìm chỗ ngồi. Nhưng cô nhìn quanh mà không tìm được chỗ nào ngồi xuống mà không bị dơ cái quần. Cô muốn kết thúc nhanh câu chuyện.
 
"Cháu đến đây là để báo cho bác biết, trò Tân nói tục chửi thề bị phạt nghỉ học một tuần"

"Á đù!"

Bà nội nói á đù một cách tự nhiên, như là không còn chữ nào hay hơn nữa để trả lời cho một bản án. Bà nhìn cô, nói cho cô rõ hơn hoàn cảnh của em.

"Cha mẹ nó vô tuốt trong Bình Dương làm công nhân kiếm sống. Nó đi học được ngày nào hay ngày đó, một vài năm nữa cha nó cũng về dẫn nó vô đó tìm việc".

Cô giáo bước đến cửa nhìn ra ngoài, gió lộng bụi bay mịt mù, xứ này nắng bụi mưa bùn, đất cày lên sỏi đá. Trai gái trong làng lớn lên không ra Bắc thì cũng xuôi Nam tha phương cầu thực. Cô nhẹ bước ra về, trời đang vần vũ mây đen báo hiệu một cơn giông sắp đến.
   
Anh Đặng Tính là cha của trò Đặng Phi, hôm nay anh đến trường gặp thầy hiệu trưởng, để nghe thầy mắng mỏ về việc con trai anh nói tục chửi thể bị đuổi học một tuần. Anh còn nghe ông phàn nàn là thằng con anh còn thiếu tiền phí ủng hộ đội banh và ban văn nghệ nhà trường.
Anh nói phân trần cùng thầy hiệu trưởng:

"Thầy thông cảm, tôi với mẹ nó làm quần quật suốt ngày mà cũng không đủ tiền đóng "phí". Thầy tính coi, một người dân bây giờ cõng bao nhiêu loại "phí", xã thu phí, huyện thu phí, tỉnh thu phí, đi ra đường cũng phải đóng phí".

Thầy hiệu trưởng làm thinh gật gật đầu như đồng ý là lời anh nói cũng phải, nhưng ông nghĩ thầm trong bụng, ở đây ai cũng vậy đâu phải chỉ mình anh.
Anh Tính cởi nút áo trên cho mát, để lộ trên ngực cái hình xăm đầu lâu cướp biển, nghe nói trước đây anh từng theo tàu Đài Loan đánh cá mấy năm liền. Anh để tóc dài loả xoả, anh mà tô thâm quầng mắt thì không khác chi anh chàng tài tử người Mỹ đóng vai cướp biển Ca Ri Bê.

"Chúng tôi bận rộn suốt ngày, mọi sự mong chờ thầy cô dạy dỗ cho cháu".

Anh ghé sát ông hiệu trưởng, nói nhỏ nhỏ như sợ ai nghe:

"Thầy biết không, nó hư lắm, hôm trước nó lấy cái phone khoe tôi hình chụp cô giáo mặc quần mỏng thấy cả quần sịp màu hồng".

"Chuyện ruồi bu!"

Thầy hiệu trưởng bước tới lấy lon nước ngọt mời anh Tính uống giải nhiệt. Thái độ của thầy thay đổi hẳn.

"Tụi học sinh trẻ bây giờ dám chụp hình lén cô giáo! Đúng là tụi nó làm chuyện ruồi bu".

Cái cách nhìn của thầy, anh Tính cũng hiểu là thầy muốn hỏi là anh giải quyết tấm hình đó ra sao.

"Tôi bắt nó xoá tấm hình và không được nói với ai"

"Phải, phải", thầy hiệu trưởng đồng tình.

"Nhưng tôi không chắc là nó không còn tấm hình nào khác"

Ông hiệu trưởng cảm thấy nụ cười mĩm của anh Tính có vẻ gì hơi... "đểu".

"Tôi thông cảm hoàn cảnh của gia đình anh, thôi ba cái vụ đóng phí của cháu được miễn, anh về bảo cháu ngày mai trở vô học bình thường".

"Cảm ơn thầy hiệu trưởng"

oOo

Người tình năm xưa của Mỹ Lan bỏ đi biền biệt nay trở về. Hôm nay chàng hẹn cô ở quán cà phê sân vườn. Vừa gặp mặt chàng ôm cô hôn đắm đuối. Mỹ Lan tê cứng người trong vòng tay người yêu. Bao năm qua chàng vẫn vậy, vẫn nhiệt tình say đắm.

"Em có còn thương anh không?"

Mỹ Lan ngước nhìn người yêu không nói, không cần nói. Anh hiểu em quá mà, người tình đầu tiên và cuối cùng của em. Mình đã trãi qua bao nhiêu lần đắm say trên bờ ruộng, bên triền núi, bên bến sông.

"Em có muốn đi theo anh không?"

Mỹ Lan ứa nước mắt, "không theo anh để rồi chết già ở cái xó xỉnh này sao".

Mỹ Lan suy nghĩ suốt một đêm, đi dạy học với đồng lương cô giáo mấy năm qua nàng cũng chẳng để dành được gì. Người yêu sau mấy năm bôn ba thì cũng tay trắng. Cô nhìn quanh nhà không thấy gì có giá trị để bán, mà cũng chẳng biết hỏi mượn ai.
Người tình vẽ đường cho cô đi, cô suy tính mấy hôm liền, sau cùng đành vậy, không còn cách nào khác.
Thầy hiệu trưởng Hoàng Lâm có vợ làm trưởng phòng hành chánh bên thị xã. Vợ thầy rất giỏi kiếm tiền, bà có hồ nuôi tôm, bà có phần hùn kinh doanh nhà trọ cho mướn. Trong huyện này có thể nói nhà thầy thuộc loại giàu có tiếng.
Thầy Lâm có tật mê gái, thầy nhìn gái không cần che đậy. Cô giáo Mỹ Lan có lần mặc quần mỏng để lộ cái quần lót màu hồng, thầy nhìn thấy một lần mà cứ nhớ hoài. Mỹ Lan không khó khăn lắm để gài bẫy cho thầy sa lưới.  Hôm nay được cô hẹn ra nhà nghỉ, thầy chộn rộn cả đêm chờ tới lúc được chính tay mình cởi chiếc quần lót của nàng.
Vừa bước vào phòng nhà nghỉ, thầy lẹ lẹ cởi đồ làm ăn chụp giựt như kiểu đi chơi gái điếm. Mỹ Lan ngán ngẫm tìm cách câu giờ, không phải nàng hứng thú gì cái việc lên giường với thầy Lâm. Nhưng nàng muốn từ từ để nàng thừa cơ hội đến mở khoá chốt cửa. Nàng đã có âm mưu với người tình. Giữa chừng chàng sẽ mở cửa xông vào làm dữ, cũng chỉ là để gài thầy Lâm vào thế bí phải móc tiền ra chung.
Bà vợ thầy Lâm đang làm việc, bà nhận được một cú phone báo cho biết chồng bà đang vô nhà nghỉ với cô giáo Mỹ Lan. Bà tức tốc phóng xe đến hiện trường. Bà hầm hầm mở cửa xông vào. Thầy Lâm thấy bà la một tiếng thất thanh "á đù".
Bà cầm cái phone quay phim lia lịa, cô giáo Mỹ Lan đang nằm trên giường người chỉ mặc cái quần lót. Bà bước đến cúi xem thằng nhỏ của ông chồng, coi nó còn nguyên hay sứt mẻ một tí nào. Bà kề mũi vô chỗ đó ngửi mùi, bà có nghề, chồng bà đi chơi về bà chỉ cần ngửi mùi chỗ đó là biết ông già dịch này có lén phéng mần ăn với con nào không.

"Tôi đã bắt tại trận, tôi đã quay phim chụp hình các thứ, cô liệu hồn bỏ xứ mà đi, cô mà còn lén phéng với chồng tôi coi chừng tôi, tôi không để cô yên đâu nhe".

Mỹ Lan nổi nóng nói cứng, đánh phủ đầu:

"Bà có muốn 'lai trym' thì cứ việc, có chết thì chết chùm chớ chẳng phải mình tôi mà tôi sợ"

Thầy Lâm mặc quần áo kéo vợ ra cửa đi về, Mỹ Lan nói với theo... "đéo sợ".

Người tình của Mỹ Lan đứng bên ngoài hốt hoảng khi thấy vợ thầy Lâm mở cửa xông vào. Anh đứng phía ngoài nghe ngóng, chừng thấy hai người bỏ đi anh mở cửa bước vô trong.

"Em có sao không? Bả có hành hung em không?"
"Không, nhưng bực hết cả mình"
Người tình bước đến ngồi xuống vuốt ve an ủi Mỹ Lan.

Anh chàng lễ tân thấy thầy Lâm ăn vụng dẫn cô giáo vào nhà nghỉ. Chừng thấy vợ ông đến bắt ghen thì biết có chuyện. Lúc vợ chồng ông ra về, chờ một lúc lâu vẫn không thấy cô giáo Mỹ Lan đi xuống, anh sợ có chuyện chẳng lành bước lên phòng xem sao.
Vừa mở cửa phòng anh tá hỏa, cô Mỹ Lan trần truồng đang ngồi lên mình một người đàn ông không một mãnh vải.

"Á đù"

"Xin lỗi, xin lỗi! Tôi tưởng mọi người đã đi về"

Anh vội vàng bước ra ngoài, người tình của cô Mỹ Lan bước đến khoá cửa, nói với theo:

"Mày làm như mày chưa từng thấy qua"

Chàng bước đến giường tiếp tục cuộc vui. Mỹ Lan nói nũng nịu:

"Hỏng chịu đâu, hỏng chịu đâu! Sao cục cưng để cho người ta thấy của quý của cục cưng"

Cả hai ôm xoắn lấy nhau cười vang trững giỡn.

Câu chuyện ruồi bu thầy hiệu trưởng dẫn cô giáo vào nhà trọ bị vợ bắt gặp được che đậy cẩn thận. Vợ thầy hiệu trưởng cũng hiểu, có làm lùm xùm thì mình cũng gánh phần thiệt thòi, nhà tan cửa nát. Chết chùm cả lũ. Thôi thì thí cho nó một ít tiền, tống cổ nó đi cho khuất mắt.
Cô giáo Mỹ Lan âm thầm rời bỏ ngôi trường trung học cơ sở Tân Lập, âm thầm rời bỏ xóm làng không một lời từ giã. Không ai biết cô đi đâu, ra Bắc hay xuôi Nam, hay là biết đâu chừng cô đã... vượt biên giới.

















Wednesday, December 12, 2018

QUÀ GIÁNG SINH



Nguyễn Thạch Giang


Chị Hường nghe thằng con trai rủ cha nó đi shopping tìm mua quà Giáng sinh, chị sẵn dịp tháp tùng đi theo coi có gì đẹp mà rẻ mua gởi về cho mấy đứa cháu bên Việt Nam.
Lúc bước ra xe thằng con vỗ vai mẹ: "Má thích cái gì để con mua tặng má một món quà nhe!". Chị Hường cười cười nhìn thằng con nói nửa đùa nửa thật: "Thôi! má lấy tiền không lấy quà", thằng con và cha nó bật cười.

Gia đình chị Hường qua Mỹ được hơn mười năm, lúc mới qua thằng con trai út này chỉ mười bốn chớ mấy, vậy mà giờ đã hăm bốn. Bữa nay có bạn gái bày đặt đi mua quà Giáng sinh tặng bồ. Nó học tạm được, cố gắng vừa học vừa làm từ từ cũng lấy được bằng bốn năm. Nó là đứa con ngoan nhất nhà, giờ có việc làm tháng nào cũng góp tiền nhà phụ giúp ba mẹ. Thằng anh nó học giỏi hơn, cũng có bằng bốn năm đại học, làm IT trong hãng điện tử của Nam Hàn. Chị Hường bộc bạch với thím Năm hàng xóm, thằng này xài sang mặc đồ hàng hiệu lại hay đi ăn tiệm, đi xe mới.
Lúc vợ chồng chị qua Mỹ, đứa con gái lớn kẹt ở lại Việt Nam, giờ cũng lãnh nó qua được rồi, hai vợ chồng nó theo gia đình bên chồng làm nail ở Florida.

Vợ chồng chị Hường vừa mua được căn nhà mobile home tháng rồi. Nhân dịp lễ Giáng sinh sắp đến, hai thằng con đòi mua cây thông trang hoàng đèn nhấp nháy ăn mừng nhà mới. Hồi nào tới giờ gia đình chị không có lệ tặng quà Giáng sinh, chị nói nội cái vụ lo quà Tết cũng đủ mệt rồi.
 
Xứ Mỹ vui nhất mùa này, từ sau lễ Tạ Ơn cuối tháng Mười Một, hàng hóa tuôn về tràn ngập các khu mua sắm, mấy nhà lối xóm nhà nào cũng treo đèn kết hoa trông thiệt đã con mắt.
Vừa bước vào trong cửa hàng, chị Hường nói hai cha con đi tìm lựa đồ mua, chừng nào xong lại kiếm chị ở khu hàng bán quần áo giảm giá. Lúc nào vô đây chị cũng tới khu "clearance sales" trước, chị ham quần áo hàng hiệu giảm bảy tám chục phần trăm, nhiều cái thiệt đẹp mua chưa tới mười đồng. Chị mua gởi về cho mấy đứa cháu bên Việt Nam, con của ông anh bà chị và mấy người em. "Anh em của ổng đều ở Mỹ, chớ bên phía tui, chỉ mình tui là ở Mỹ, mấy người kia đều ở Việt Nam". Chị nói với thím Năm hàng xóm khi thím hỏi sao thấy chị đi gởi đồ về Việt Nam hoài vậy, gởi cho ai ở bên đó.
Ông xã chị Hường và thằng con đã mua xong mà chị Hường vẫn còn say mê chọn lựa, chị nói hai cha con đi chơi lòng vòng đi, khi nào xong chị gọi. Thường chị đi "shopping" một mình, "đi với ổng lần nào cũng bị cằn nhằn bà lựa gì mà lâu dữ vậy". Lúc ông xã và thằng con trở lại, chị Hường miễn cưỡng ôm đống quần áo đi tính tiền. Nhìn hàng người đứng xếp hàng chờ trả tiền, chồng chị lắc đầu ngao ngán. "Tới phiên bà chắc cũng cả tiếng đồng hồ", ông này có tật hay cằn nhằn.
Lúc bước ra xe đi về, thằng con chị chắc đói bụng hay sao mà mặt mày nhăn như khỉ, rồi nó lại bày đặt trách móc bà già:
"Sao con thấy má tối ngày cứ lo gởi về Việt Nam, con ở đây chưa bao giờ được má tặng một món quà!"
Chị Hường nhìn thằng con, xuống giọng nhỏ nhẹ phân trần:
"Con ở đây đầy đủ đâu thiếu thứ gì, con nhận quà con đâu có mừng, chớ mấy người ở Việt Nam, khi nào được quà Mỹ họ mừng dữ lắm"
Chồng chị Hường trề môi.
"Ở bên Việt Nam giờ cái gì cũng có, người ở bển còn giàu hơn mình ở đây. Bà mua ba cái quần áo tồn kho bán dẹp tiệm, gởi về bển cho người ta chê"
"Ai mà chê! Nhà tui không có ai chê. Có bên nhà ông, có anh em ở Mỹ, nhận đồ Mỹ hoài nên không thấy quý"

Chị Hường ứa nước mắt nhớ lại hồi trước, hai chị em mỗi lần sang nhà thím Ba hàng xóm, được thím cho ăn kẹo sô cô la từ Mỹ gởi về,  "Kẹo gì mà nó ngon cực kỳ!". Khi nào thấy thím khui thùng quà, hai chị em cứ xuýt xoa sao mà đồ ở Mỹ nó thơm dữ vậy hè. Ngày ấy hai chị em cứ ước ao  phải chi mình cũng có người thân ở Mỹ.

"Bà ở đây lo đi canh mua hàng sale, lo đi mua từng cây kim sợi chỉ, tưởng gì, gởi về bển chai dầu xanh Con Ó cho họ xài họ cũng đem bán"
Chị Hường nhìn chồng, sao ông nói chi lời độc địa, chị ứa nước mắt.
"Bởi vì nghèo quá nên hèn"
Chị bỗng ôm mặt khóc nức nở.

Thằng con không hiểu sao có nhiêu đó mẹ lại khóc ngon lành. Chồng chị Hường thấy vợ mình khóc trong bụng có hơi áy náy, lúc về đến gần nhà anh bỗng khều thằng con nói nhỏ:
"Hay là mình ghé quán kiếm cái gì ăn, bữa nay đi ăn buffet đi, má mày giận rồi kìa, về nhà bả không có nấu cơm đâu"
Chị Hường ngồi làm thinh không nói, bình thường chị sẽ bàn ra, "thôi! ăn tiệm chi cho tốn tiền, bữa nay thứ bảy, một người cũng phải ba chục, rồi thêm tiền tip tính ra cả trăm chớ ít sao".
Lúc xe đậu ở parking, thằng con mở cửa xe cho chị xuống nói nho nhỏ: "con xin lỗi má! má vô ăn với ba".
Thằng con trai ngoan của chị, nó đâu có lỗi gì, thấy điệu bộ của nó chị thấy tội nghiệp nó quá! Thấy thương nó quá. Lúc ăn nó cười cười kiếm chuyện nói chị vui. "Hồi nãy má khóc con có chụp hình, hôm nào cho má coi, má khóc còn hay hơn cô đào đóng phim bộ". Chồng chị Hường nói với thằng con, "con gởi vô cái phone của ba, ba để dành, về già cho má mày coi".
Lúc ngồi trên xe về nhà, chị Hường hết giận lấy tay mở gói đồ coi hồi nãy cha con mua gì. "Nó mua hai chai dầu thơm, cho má nó một chai, cho con bồ nó một chai". Lúc bình thường chị sẽ hỏi nó giá bao nhiêu, nhưng hôm nay chị làm thinh, tự nghĩ thằng con của mình không mua thì thôi, chớ nó mua là mua hàng xịn. Mấy đứa con của chị, tụi nó thích ăn gì cứ việc ăn, ly nước mía bảy đồng uống một lần hai ly, thích mua gì cứ việc mua chớ không chờ on sale giảm giá như vợ chồng chị.

Bước vô nhà thấy thằng con trai lớn đang loay hoay trang trí cây thông Noel, thằng này ngon chơi cây thiệt không chơi cây giả. Đèn chớp nháy xanh đỏ chị thấy căn nhà vui vui ấm cúng hẳn lên, chị bỗng cảm thấy thương cái mái ấm gia đình này quá.