Tuesday, December 19, 2017

NGƯỜI ĐẢNG VIÊN GIÀ



Diệu Tần.


Ông về hưu với quân hàm bốn sao một gạch. Đại uý Thoả như thế nghỉ hưu đã lâu. Suốt hai mươi lăm năm trong bộ đội, ông mãn nguyện với "ve áo" đó. Là mẫu người chất phác, trong sạch, ông đã phục vụ trong ngành hậu cần, nhưng bàn tay không bị dính bẩn, ông vẫn tự hào về điều ấy. Bà vợ khen ông là hiền lành tròn trịa, không mất lòng ai. Nhưng có lúc bà chê "Hiền quá hoá đần". Nhà cửa tiện nghi đồ đạc trong nhà vẫn tềnh toàng cổ lổ. Toàn những thứ sắm từ những năm sáu mươi. Ông sống giản dị, nhiều khi quá quê mùa. Ông không bao giờ mặc quần áo may bằng sợi tổng hợp (đa-công, pô-li-ét-tơ). Ăn uống thế nào xong thôi, không uống rượu, không mê một món gì khác.
Bà Thoả là dân gốc Thái Bình, thường bị chê là dân Thái "Lọ". Năm Ất Dậu chết đói đầy đường, do tội của Phát-Xít Nhật gây ra. Theo bố mẹ anh em lây lất kéo nhau lên Hà Nội kiếm ăn, cả nhà chết dần chết mòn, lê lết đến ga Hàng Cỏ thì chỉ còn một mình cái đĩ Tũn, là bà, sống sót. Bà không nhớ và không hiểu tại sao bà còn sống được. Cho đến bây giờ bà không biết quê mình ở cái thôn xã xơ xác nào tận Thái Bình. Đến tên thật của mình, bà cũng không biết, sau năm 54, kiểm tra, bà mới làm khai sinh lại, tự đặt tên là Dậu. Ý muốn kỷ niệm cái đói năm Dậu khủng khiếp. Cái đĩ Tũn dạo đó đi lang thang cầu bơ cầu bất, đi ở cho nhà người ta, chán rồi gồng thuê gánh mướn, lưu lạc mãi lên Thái Nguyên. Ở đó cô Dậu gặp anh bố cu Thoả. Chẳng là Thoả, không có tiền nộp lệ làng, là dân đen bị khinh bỉ, buồn đời bỏ đi theo Việt Minh. Hai người gặp nhau tại chiến khu, thương cảm nhau cùng cảnh nghèo rồi nên vợ nên chồng, chả cần cheo cưới gì. Đến bây giờ các con đều chọc ông bà Thoả "không ai vô sản chuyên chính hơn bố mẹ".

Ông vô sản thật, nhưng đến khi có con lại đặt tên con theo từ Hán Việt nghe kêu lốp bốp. Thứ tự là Lễ, Tín rồi cái Trinh cái Thục. Bà không bằng lòng nhưng nể chồng, phải chịu. Cứ như bà thì nên đặt cho có tính quần chúng hơn như No, Ấm, Hiền, Lành v.v... Bà bị cái đói năm đó hành hạ, nên luôn luôn muốn được no và mong các con không bị đói.
Cả đời bà vất vả ngược xuôi. Thời kỳ ấy, không nhà không cửa, bà gánh hai cái thúng, một thúng chăn, áo và cu Lễ, thúng đầu kia là gạo, khoai, theo chồng khắp mọi mặt trận kháng chiến. Đến lúc này bà vẫn không thuộc mặt chữ và mặt số. Chỉ phân biệt đồng bạc này với đồng bạc kia bằng màu sắc, khổ giấy mà thôi. Dạo còn con gái không được đi học, khi muốn học lại bận nuôi con, nuôi chồng. Khi về già bà bảo: "Thôi tôi già rồi, học làm gì cho mệt. Các anh các chị nhớn cả rồi, chữ nghĩa giỏi giang, đọc cho tôi nghe là đủ rồi". Chữ nghĩa bà không thông, nhưng bà tính toán, thu va thu vén nhanh như cắt.

Thục hai mươi bảy, chưa chịu xây dựng với ai, cứ cười bà "Chắc con thừa kế được cái giỏi tính của mẹ". Thục đã tốt nghiệp trung học kế toán và đang làm việc trong một xí nghiệp. Lễ, Trí đã có vợ. Trinh cũng đã lấy chồng. Tất cả đã là đảng viên, trừ vợ Trí chưa vào và Thục không muốn vào. Năm đảng viên hợp với ông bố già nữa là sáu, ông "cựu trào" nhất với 38 tuổi đảng, có thể lập một chi bộ đảng ngay trong nhà với ông là ủy viên thường vụ.
Khi mới về hưu, ông sắm lưới sắm te, tong tẩy đi đánh cá. Đó là một trong những nghề cũ hồi ông còn là dân đinh hèn mạt. Vừa tìm vui vừa có cá tươi cải thiện bữa ăn cho cả nhà. Mấy năm nay, cựu đại uý nhà ta bị một bịnh quái ác là liệt nửa người, hậu quả của đời chết sống cực khổ trong bộ đội. Là người năng động, phải nằm một chỗ, ông đau đớn lắm. Ông đang hy vọng hai năm nữa, vào dịp được nhận huy hiệu 40 năm tuổi đảng, sẽ tổ chức một tiệc trà với kẹo ăn mừng. Ông đã tự nhủ dốc lòng theo đảng đến hơi thở cuối cùng. Ngã bệnh, không những không đi đánh cá được, còn phải phiền đến vợ con, ông khổ sở lắm. Thuốc thang, thầy thợ tiêu pha về ông khiến nền kinh tế trong nhà suy sụp đến phát hoảng. Đồ đạc trong nhà, đội nón theo nhau khỏi nhà mau quá. Lương hưu của ông không đủ để ông ăn bữa sáng. Đấy là hai bìa đậu phụ nóng, bác sĩ dặn phải cho ông ăn để không tăng áp huyết, tránh tai biến đột xuất cho người bệnh.

Ngày xưa, trong đơn vị, tuy không là chính trị viên, nhưng ông rất sốt sắng công tác đảng. Về hưu, rất chăm lo đóng đảng phí đúng kỳ hạn, rất mong đến kỳ sinh hoạt chi bộ đảng. Ông buồn vì phải nằm bẹp một chỗ. Nhưng lòng tin vào đảng không suy suyển mà còn tăng thêm. Niềm vui duy nhất của ông chỉ còn có bấy nhiêu thôi. Cũng như mấy bà già tin vào vía cô vía bà lên đồng lên bóng ấy mà. Trên đầu chõng ông nằm treo ảnh cụ Hồ để ông luôn được chiêm ngưỡng bác. Đấy là niềm tin, là tượng trưng cho đảng.
Dạo chưa bị bán thân bất toại, vào kỳ sinh hoạt thì mưa gió giá rét cách mấy, ông cũng đi cho kỳ được. Nằm một chỗ rồi, ông tha thiết nói với con, với dâu rể tình nguyện đề nghị chi bộ xóm chuyển địa điểm họp đến nhà, để ông được họp. Những hôm ấy, ông vui hớn hở từ sáng sớm, giục phải lau sạch bàn ghế, đun đầy mấy phích nước sôi, mua chè, thuốc lá bằng tiền hưu của ông, để sẵn đãi các bạn có đảng tịch trong xóm.

Có nhẽ nhà ông Thoả thuộc loại nghèo nhất xóm. Những nhà khác chỉ có vài người trong biên chế, còn lại họ chia người để chạy ngoài. Hàng xóm bên trái là nhà chuyên buôn bán đường dài. Buôn đủ mặt hàng thuộc diện quản lý của nhà nước. Khi thì cà phê Phú Thọ, Buôn Mê Thuột, tháng thì chè Bờ-Lao hay Thái Nguyên. Có dạo họ kiếm đâu ra rất nhiều những hộp dầu ăn thực vật từ thời Mỹ để lại. Chả thấy tay công an kinh tế nào thò mặt ra bắt bớ cả. Láng giềng chếch bên phải chuyên buôn thuốc Tây. Cả nhà, nhớn bé chỉ phe phẩy món hàng đắt tiền ấy thôi. Họ làu tên thuốc hơn cả Lễ, Trí là hai cán bộ y tế con trai ông. Hỏi mua món thuốc gì cũng có. Những người này vào Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Mình, Đà Lạt, ngược Bắc Thái, ra Hải Phòng xoành xoạch.
Sâu mãi trong xóm phải kể gia đình làm chủ đề, là kẻ mạnh thế nhất. Mỗi tuần xổ đề đông nườm nượp. Lại có hai nhà chứa bạc gần như công khai. Họ không thèm đánh những loại bài lâu ăn thua, chỉ chơi toàn bài Tây và xóc dĩa, đặt bằng nhẫn và vàng lá. Chủ "đề" nghe đồn là anh em kết nghĩa với bí thư quận. Có ai báo công an quận thì con bạc đã biết trước, thản nhiên ngồi uống cà phê, tán chuyện trên trời dưới biển, như không có gì xảy ra. Còn chú công an khu vực thì bị "mua" từ lâu rồi. Sinh hoạt của những nhà này, vì họ có tiền, nên ầm ĩ, sặc sỡ, vênh váo lắm. Nhà ông Thoả kẹt vào giữa, cùng một lúc được nghe đủ các loại nhạc loạn xị từ các loại máy khác nhau, phát ra không kể giờ giấc, bất chấp sự cần yên tĩnh của xóm giềng. Có ai phản ứng gì, mấy thanh niên đó nhăn răng ra cười: "Ấy nhạc Cu-Ba anh em, nhạc Xì-Pa-Nít chứ có phải nhạc đế quốc Mỹ đâu. Khi họ mở nhạc giựt gân thì họ giải thích: "Nhạc Châu Phi, nước Ăng-Gô-La và Li-Bi-A anh em đây, không phải nhạc mất gốc, đồi trụy đâu.

Ghét họ, bực họ, nhưng ngoài chuyện mở nhạc ầm ĩ, họ cũng chẳng trực tiếp làm hại đến ai. Ngược lại, đôi khi họ còn giúp đỡ cho láng giềng nữa. Như trường hợp có lần bệnh ông Thoả bị trở chứng, hai con là y tá, có khả năng cấp cứu bố nhưng không thuốc. Nhà phe phẩy thuốc Tây sẵn sàng đưa thuốc mà chả bao giờ hỏi tiền. Cho đến bây giờ bà Thoả quà cáp lại vẫn chưa đủ giá tiền hộp thuốc quý giá ấy.
Trong nhà họ, thôi thì đủ món tiện nghi xa xỉ. Nào là tivi, tủ lạnh, máy cát- xét. Có nhà tậu cả  máy vi-đê-ô nữa, chiếu phim chưởng liên tục. Bữa cơm của họ, mua thẳng ở ngoài chợ, chả cần qua cửa hàng nào, thịt cá, rau cỏ tươi rói, ê hề. Con cái họ cả nam lẫn nữ vận quần bò, áo phông theo đúng mốt. Cái đài đối với họ thì quá thường.
Vào dịp đại hội đảng kỳ sáu vừa rồi, Thục phải sang nói khó với nhà sát tường cho ông bố được nghe đài những hôm đảng họp đại hội. Đài đang tường thuật hùng hồn, đến chỗ chủ tịch Võ Chí Công tuyên bố, ông đang cố theo dõi ra chiều thích thú, bỗng vỗ xoạch một cái, một điệu nhạc nhảy ồn ào oà lên, làm ông thất vọng quá. Lúc đó nhìn nét mặt ông thật tội nghiệp. Hai má ông giật giật, ông vừa buồn vừa giận, hai hàng nước mắt chảy dài. Các con tê tái xót xa về cảnh nghèo túng, định cố gắng mua cho ông cái máy thu thanh chạy pin mà vẫn chưa mua nỗi. Cũng chẳng giận gì người ta được, của riêng họ muốn nghe băng tần nào, tuỳ họ chứ. Cũng như đám con gái nhà bên, phấn son, cái mặt như diễn viên đoàn văn công sắp lên sân khấu biểu diễn ca múa. Thế mà, nhiều chị vợ cán bộ rủng rỉnh tí tiền cũng mắt trước mắt sau, bắt chước.

Đại uý già nghỉ hưu, nằm một chỗ, lở cả lưng, đâu có hiểu rõ được thực trạng xã hội. Ông những tưởng cứ hồ hởi phấn khởi như hồi đánh Pháp, đánh Mỹ. Nghe kể những chuyện tiêu cực trong cơ quan, đơn vị, ngoài xã hội, ông bị "sốc" mạnh. Nặng nhất là hôm đài hàng xóm tình cờ mở đúng vào chương trình dân ca chèo. Trong bài chèo ca ngợi đảng có câu: "Đảng cầm tay dẫn ta đi..." Bỗng có tiếng cười hô hố của người bố:
- Ối giời ơi! Kìa, chúng mày đưa tay cho đảng cầm nào!
Lũ con hàng xóm cười ồ lên, chúng nháo nhào:
- Con chả dại!
- Con chả dám! Theo đảng chỉ có nước uống nước lã cầm hơi.
Trinh và Thục bên này thấy ông đỏ mặt, lẩm bẩm "Láo quá! Hỏng hết, hỏng hết". Rồi ông cựa quậy, bắt con dựng ông dậy cho tựa lưng vào gối. Ông thở hỗn hễn như bò thở, đập tay vào chõng, bàn chân còn cử động được dậm dậm xuống chiếu. Nước mắt ông trào ra, nửa miệng méo xệch. Khuôn mặt thật thảm hại. Cô chị tức quá, đập vào tường như muốn bảo bên kia im đi. Thục từ tốn hơn, bảo:
- Thôi chị ơi, hơi đâu mà nói với họ.
- Họ phát biểu xúc phạm đến đảng quá. Họ làm cho bố mình đau đớn.
Thục là đứa con chưa vào đảng, nói như dàn hoà:
- Họ cũng là quần chúng như em, chỉ vô tình nói thế thôi.

Hai chị em phải an ủi dỗ dành bố già mãi. Người bóp tay, người nắm chân và chậm nước mắt cho bố. Trinh và chồng là hai giáo viên. Chỉ có vợ Trí là công nhân. Trừ vợ chồng Lễ đã có tí nhau và vì công tác địa điểm xa, đã ra riêng, còn đều sống chung dưới một mái nhà, ăn chung một bếp. Thục chưa chịu vào đảng, không muốn sinh hoạt đoàn nhiều, dù đã là đoàn viên. Do đó chả bao giờ được đề bạt là đối tượng cả.
Nhờ Thục phe phẩy tí chút mà thỉnh thoảng nhà có cá tươi ăn. Hay khéo xoay sở đổi được gạo trắng ngon cho bố ăn. Hỏi làm sao kiếm được mấy của quý đó, Thục chỉ cười "thời buổi này, không ngoại giao là hỏng kiểu hết".
Lễ hỏi cô em út:
- Sao cái Thục không phấn đấu thêm để được kết nạp?
- Vào để làm gì? Vào đảng thì được gì thời buổi này, hả anh?
- Vào để...để trở nên một công dân hoàn toàn của chế độ. Đâu phải vào để hưởng thụ.
- Anh là đảng viên, gần như cả nhà này là đảng viên, thử xem lại đã làm được gì, đã được hưởng gì? Anh có thấy các cán bộ cấp cao đã là công dân gương mẫu chưa?
- Thục đừng lý luận tản mạn. Để lúc nào rỗi, anh sẽ bàn thêm với Thục.
Lễ nói thế, nhưng không thấy bàn rộng vấn đề này với em. Có nhẽ Lễ thấy khó mà thuyết phục nổi cô em gái thông minh.

Thục đã nói lên một phần rất ít của thực trạng xã hội. Bốn anh em từ nhỏ đến lớn được học đến đầu đến đũa. Chỉ biết ăn và học. Trưởng thành rồi thì ăn và đi làm, không có cái tháo vát ngược xuôi như mẹ, trừ Thục. Ngày xưa gọi là lương ba cọc ba đồng, bây giờ là công nhân viên nhà nước chấp hành nghiêm chỉnh giờ giấc, hoàn thành mức độ công việc tốt, cứ chờ đến kỳ để được lên lương. Đồng lương lên không thể nào kịp với giá sinh hoạt nhảy vọt. Thứ lương chỉ tiêu năm ngày là hết. Tiền thưởng ở cơ quan và bỗng lộc rất hiếm hoi. Được vài trăm bạc, đã lấy làm vui sướng lắm, phởn phơ lắm. Người không làm công nhân viên nhà nước là bà Thoả lại là trụ cột trong nhà. Tiếng nói của các giáo viên, y tá, công nhân thảy đều không có trọng lượng. Tất thảy là nghiêng về sự quyết định của mẹ già và của cái Thục đanh đá.
Trong nhà ai có đề ra ý kiến mua sắm này nọ, nghe ra đều có lý, nhưng tiền thì không ai đưa ra cả. Thậm chí đơn giản nhất là ước ao được ăn một bữa gọi là có chất tươi ngày chủ nhật như canh riêu cá hay hoang tí nữa như bún chả nhưng không thấy ai xung phong góp tiền. Bà Thoả chỉ bảo: "đưa tiền đây" là không người nào thò ra đồng bạc. Đúng là:
"Dễ trăm lần, không tiền cũng chịu
Khó vạn lần, tiền liệu cũng xong."
Nhại câu nói của cấp lãnh đạo, thay chữ dân bằng chữ tiền. 

Ông Thoả có đôi lần cáu gắt với vợ. Chung qui cũng do đồng tiền eo hẹp gây ra cả. Ông bảo:
- Tôi ăn uống không bao nhiêu, chỉ cần nóng sốt và tinh tươm một tí. Thỉnh thoảng cho tôi miếng thịt kho.
Bà trả lời:
- Ông cứ đòi hỏi bồi dưỡng làm gì. Ông thừa biết riêng lo cho ông, tôi đã cực nhọc chừng nào?
- Cơm gạo hẩm tôi nhai không được. Tôi xin nước mắm kha khá một tí.
- Giời ơi! Có đứa nào đưa tiền cho tôi nuôi ông đâu. Chỉ có độc mình tôi lo thôi.
- Trước tôi mạnh khỏe, bà có nhăn nhó thế này đâu.
- Bây giờ ông muốn tôi phục vụ ra sao nữa?
Ông phải lặng im. Bệnh nhân nằm nghỉ một chỗ thường có mặc cảm. Về già hai vợ chồng đâm ra lục đục. Sống cả đời với nhau đẹp thế, yên thế, bây giờ thì...
Ông bị dày vò đang ăn bám, bị người thân, bạn bè, xóm giềng quên lãng, thờ ơ. Ông tự ví mình như cây cung đã gãy. Như một khẩu AK vỡ nòng rỉ vất xó nhà. Ông chưa oán đảng và nhà nước, chỉ giận mình, giận vợ, giận con. Giận chán ông lại thương chính mình, thương họ. Họ có làm gì để ông phải  giận đâu. Họ cũng chẳng sung sướng hơn gì ông. Phải lao động "đổ mồ hôi, sôi nước mắt" quần quật tối ngày.

Mới tuần trước, chi ủy khu phố theo chỉ thị trên, ra lệnh chi bộ xóm tổ chức lấy ý kiến quần chúng phê bình đảng viên, chuẩn bị triển khai thực hiện cuộc vận động đổi mới của đồng chí Nguyễn Văn Linh. Xóm đếm được ba mươi hai hộ, chỉ có tám hộ cử người đến dự. Suốt cuộc họp kéo dài hai tiếng đồng hồ, chỉ đúc được bốn ý kiến chung chung. Gọi là ý kiến "không địa chỉ" có ý là ý kiến hay lời phê bình chả biết nhằm vào ai, gửi đến cơ quan nào. Ý kiến ba phải, vô hại, sợ mất lòng, sợ trả thù.
Bà Thoả thoạt đầu không đi, bà cũng là một quần chúng. Ông giục mãi bà mới miễn cưỡng đi. Thục còn dặn với:
- Mẹ đi, nhưng đừng phát biểu gì đấy nhé. Kẻo mang họa vào thân đấy, mẹ ạ.
Bà chán nản:
- Dà à ò ôi, phê với chẳng phán! Chán mớ đời.
- Đấy, bao nhiêu lần rồi, có thấy các ông đảng viên sạch hơn được tí nào đâu.

Bà đi rồi, ông nhì nhèo với con gái:
- Sao con lại nói thế.
- Bố nằm một chỗ, bố không biết đấy thôi. Đảng viên hạng bét như nhà này cứ đói dài. Phải là đảng viên cán bộ cấp lãnh đạo cơ, hay phải ngồi chỗ "bờ sôi ruộng mật" cơ. Phê phán như đấm bùn sang ao thôi.
Ông nghe con gái nói, cô gái quý gần ông nhất, rên hừ hừ. Hai gò má bắt đầu giật giật, dấu hiệu sự xúc động.
- Đừng nói nữa. Hừ...hừ...
- Bố không nghe được câu người ta nói "cán bộ đi trước, tiêu cực theo sau" đâu. Không có chức quyền làm sao tham ô được. Chính vì thế nên con không muốn vào đảng.
- Không còn có pháp chế, kỷ luật gì à?
Đang sẵn Đà, Thục vẫn nói:
- Bố biết không, hiện nay có câu đồng dao:
"Mỗi người làm việc bằng hai, để cho chủ nhiệm mua đài mua xe
Mỗi người làm việc bằng ba, để cho thủ trưởng xây nhà xây sân".
Ông lẩm bẩm:
- Đâu đến nỗi thế.
- Thật đấy bố, cứ như giáo viên nhà này "ăn" cái gì. Chỉ còn nước bán quà vặt cho học sinh thôi. Cán bộ y tế à, tháng trước, anh Tín vào nước biển cho một bệnh nhân, nhỡ đánh vỡ bình phải đền năm trăm đồng đấy.
- Sao không thấy nói...
- Chuyện không xa, ngay giám đốc nhà máy của con này, cách đây hai năm đồ đạc có gì đâu. Nay đến nhà mà xem, ti vi, tủ lạnh, cát xét không thiếu thứ gì. Còn thủ kho chạy xe Honda 70 chứ không thèm lái Honda 50 đâu. Trưởng phòng kế toán trong nhà có cả vì-đê-ô nữa. Tiền đâu mà mua.
- Hừ...hừ...  Đó chỉ là cá thể. Nhìn chung vẫn là tốt chứ.
- Dà ào...ơi, bố không biết đấy thôi. Thủ trưởng, giám đốc nào không ăn cánh trên dưới, trước sau gì cũng bị đi học hay bị điều đi chỗ "chó ăn đá gà leo thang" không thôi, bố ạ.
- Đảng bao giờ cũng đúng, ở dưới chấp hành sai đấy.
- Cái đó con không biết. Chỉ biết nói dân làm chủ mà chỉ thấy dân thấp cổ bé miệng kêu ca rồi bỏ đấy. Nhà nước quản lý nhưng quản lý tồi quá mà báo cáo rất hay. Mới đây bản thân ông tổng bí thư đảng tuyên bố là Hội đồng Chính phủ cũng muốn đổi mới người và việc mà không biết đổi mới cách nào. Dột từ trên dột xuống.
Ông bắt đầu hỏi giọng mệt mỏi:
- Liệu ông Linh cỏ làm được gì không?
- Con không biết, hôm nào bố hỏi anh Lễ, anh Tín xem.
- Không biết cuộc vận động có thực chất không.
- Đó là việc đảng của bố và các anh chị, con không muốn biết. Chỉ biết con đang cố "ngoại giao" để đổi gạo trắng cho bố xơi thôi.

Ông im lặng, vẻ suy tư rất sâu. Sau buổi nói chuyện ấy, ông trở nên ít nói hẳn. Ông ăn uống ít đi, chỉ hay ngước lên nhìn ảnh bác Hồ.
Cả nhà hiểu và thương ông. Cứ nghe tiếng rên hừ hừ và tiếng thở dài thườn  thượt. Cả một đời ông hoạt động, thành kính một niềm tin, một lý tưởng. Nếu con gái không nói cho biết, ông vẫn như người từ một thế giới khác. Trước thực trạng xã hội xuống dốc, ông Thoả bị hụt hẫng. Mà hụt chân rất nặng. Thân xác ông đã phải nằm xuống vì sự tàn phá của bệnh tật. Tinh thần ông, tư tưởng ông chỉ còn biết bám víu vào đảng vào các lãnh đạo.
Từ đấy, Thục không dám phát ngôn nói lên sự thật bên ngoài nữa. Mọi người bảo nhau giấu diếm sinh hoạt xã hội ngoài cho ông khỏi buồn phiền. Càng ngày ông càng ít ngủ đi. Trong lúc này tình hình kinh tế ngày càng khó khăn. Cả nhà chả ai dám xin nghỉ việc để chạy ngoài. Vì cái "mác" đảng viên và biên chế buộc họ lại. Họ có tiếng mà không cỏ miếng, Thục nói với mẹ cho cô nghỉ việc để phe phẩy ngoài, nhưng bà không chịu. Năm người chỉ góp gạo, họa hoằn lắm mới được ít tiền để bà quản lý dùng chung.
Bà bảo Thục: "Mẹ còn sức tần tảo được, con cứ phấn đấu đến xí nghiệp đi". Từ khi lấy ông đến nay bà tần tảo sớm hôm nuôi các con thay chồng cho đến khi trưởng thành. Nhờ tay bà chèo chống, đã vượt qua nhiều khúc hiểm nghèo. Không hiểu kỳ này gay go nhất bà còn đủ sức không. Bà nuôi đàn gà, con lợn, mớ rau mớ cỏ vất vả sớm hôm. Thục thương bố và quý mẹ. Chưa bao giờ bà kêu ca phàn nàn chế độ cả. Không phải bà yêu gì chế độ. Thời Pháp cai trị, bị cường hào ác bá làm khổ, sau 54 bị cán bộ cấp xã làm khó khăn, thời nào đối với bà thì bà vẫn cứ khổ và cứ phải nai lưng ra làm đầu tắt mặt tối. Bà tự an ủi là cái số phận xui ra như thế. Bà quan niệm cuộc đời rất giản dị, là bao giờ trên đầu trên cổ người dân cũng có bóc lột. Cũng như cả đời bà phải tranh đấu làm sao không bị chết đói.


Một chuyện xảy ra, càng khiến ông, người đảng viên già, bị lung lay niềm tin còn sót lại.
Do nhiều y tá xin nghỉ việc hay tự ý bỏ nhiệm sở để chạy chợ trời, do khó khăn về dược liệu, bệnh viện tuyến quận đã bỏ sự chăm sóc tại nhà cho ông Thoả. Họ viện cớ, một là ông chỉ là cán bộ quân sự đã về hưu, hai là quân hàm ông chỉ là đại uý.
Lúc nhận được tin này, ông giận dữ la mắng:
- Đãi ngộ người bệnh thế ấy à. Tệ quá!
Thục can bố, chưa bao giờ cô thấy bố nóng nảy đến thế.
- Bệnh viện từ xưa cũng chẳng giúp bố là bao.
- Tao gần bốn mươi tuổi đảng  - chưa bao giờ ông xưng tao với con cái- chúng nó đãi ngộ thế còn quần chúng thì chúng nó xử tệ đến thế nào? Ít ra cũng còn cái tình cái nghĩa chứ. Tao không cần mấy viên  thuốc lá lẩu ấy, nhưng phải nhìn đến tao chứ.
Chưa bao giờ bà thấy ông cáu  giận quá thế, bà nhẹ nhàng bảo:
- Thì chi bộ xóm và quận vẫn nhớ đến ông mà. Cẩn thận kẻo mang tiếng công thần đấy.
Ông đập tay xuống chõng.
- Mấy thằng ở quận ở tỉnh còn biết nghĩ đến ai. Thật là cạn tàu ráo máng.
Bắp thịt ở má ông lại giật giật. Hai hàng nước mắt lại chảy dài. Thục thấy ngay là ông bị động chạm đến quyền lợi riêng mới phản ứng dữ dội thế.
Chả biết phải an ủi ông cách nào, bà chỉ yếu ớt khuyên:
- Cáu giận làm gì. Tình hình khó khăn cả nước. Thuốc men là do chợ trời nắm, chứ có phải bộ y tế, bộ ngoại thương nắm đâu.

Biến cố cuối cùng xảy ra do việc mua và ép mua công trái. Hôm nhận lương hưu, Lễ được ủy quyền vẫn ký nhận tại quận bị hụt đi một nghìn đồng trong số hơn bốn nghìn đồng thường lệ. Mọi kỳ thì tuỳ ý mua hay không, nhưng kỳ này họ trừ béng ngay vào sổ lương . Ông Thoả chưa bao giờ mua công trái cả, nói lương ít, bệnh lại hiểm nghèo.
Ông đếm tiền rồi sửng sốt hỏi:
- Đâu mất một nghìn?
Anh con trả lời;
- Họ mời mua công trái đợt này đấy, bố ạ.
- Không mua gì xất, ai bảo mua?
- Thì họ bảo chỉ thị ở trên.
- Nhất định là không mua, phải để tự nguyện chứ.
Lễ nghe bố thở mệt nhọc, nói luôn:
- Thôi để chúng con bù vào chỗ ấy. Bố nằm nghỉ  đừng nghĩ gì thêm nữa.
Mặt ông tái mét, lớn tiếng:
- Ít nhất phải dộng viên trước đã chứ. Làm ăn gì lạ thế?
Thục nhẹ nhàng chêm vào:
- Thì cũng là công trái nhà nước, có phải vé số hay số đề đâu.
- Nó ép mua để lấy thành tích báo cáo đây mà. Nó cướp không lương của tao. Nó giật mất cơm trắng, đậu phụ của tao.
Thấy ông găng quá, bà phải can thiệp.
- Tôi sẽ lo đủ cho ông. Thôi đừng nói nữa. Ông là đảng viên phải gương mẫu chứ.

Đến đây thì thấy ông im. Chỉ nghe tiếng thở mạnh, ông thôi đập tay chân xuống chõng. Không thấy ông phản ứng thêm, mọi người tưởng ông đã nguôi ngoai. Thục bước lại gần thấy mắt ông đã trợn ngược, hai vệt nước mắt chảy ngược chếch trên trán. Đầu ông bị hất lên, những sợi tóc bạc trắng xoã trên gối. Một tay còn nắm chặc lấy những tờ giấy bạc rất có ít giá trị. Một chân thõng xuống thành chõng. Khoé miệng, bên chưa bị liệt, thường vẫn thẳng, lúc này đã xuôi cụp xuống như khoé bên kia, khiến cho miệng ông như đang khóc.
Thục nức nở:
- Bố ơi, bố!
Bà Thoả gào to lên.
- Giời đất ơi! Sao thế này.
Thục vùng lên định chạy sang hàng xóm xin thuốc cứu cấp. Lễ hiểu ý em, lắc đầu bảo:
- Còn đi đâu nữa, muộn rồi, Thục.
Sau khi để tay vào mũi ông và vuốt mắt cho ông, Lễ không khóc nổi. Mắt nhoà lệ. Thục nhìn ông bất động, chợt nhìn lên ảnh lãnh tụ, cô thấy hình như miệng lãnh tụ cũng méo xệch như đang khóc.
Lễ và Thục hiểu rằng bố mình không chết vì hụt mất nghìn bạc hưu. Ông chết vì câu nói sau cùng của con gái và bà vợ. Bí mật này cả hai sẽ không bao giờ dám nói cho mẹ biết.



Diệu Tần





-------------
Nguồn:  VĂN
Số 77, tháng 11-1988















Thursday, December 7, 2017

ĐỂ LẠI SAU LƯNG





Nguyễn Thị Ngọc Nhung


Đạm lau nước mắt. Hồ quàng vai vợ, vỗ về. Mọi người đã ra về gần hết. Một người khách từ giã về, rán nán lại, nói dăm ba lời cùng Đạm, nước mắt nàng lại tuôn ra theo lời chia buồn. Hồ không muốn vợ xúc động nhiều có hại cho cái thai gần ngày, đứa con đầu tiên sau bảy năm lấy nhau. Chàng nói nhỏ với Đạm.
- Sửa soạn về em.

Hồ dìu Đạm ngồi xuống chiếc ghế nệm gần cửa. Mấy cái băng gỗ mòn nhẵn ngồi gần cả tiếng cho buổi lễ làm Đạm ê cứng cả người. Hồ vào văn phòng người quản trị tính toán giấy tờ. Đạm sờ mặt mình, da mặt cứng ngắt. Đạm có cảm tưởng lớp son phấn loang lổ trên mặt như lớp vôi dày nứt nẻ theo đường nước mắt. Nàng mở ví lục loại tìm cái gương nhỏ soi mặt. Mắt Đạm đỏ như mắt cá với đường chì nâu kẻ mắt còn có phân nửa phía đuôi nhoè nhoẹt. Lớp phấn hồng đánh nhẹ giờ chỉ còn đôi chút gần màn tang. Nước mắt và lớp kem lót làm da  mặt Đạm ngột ngạt. Nàng có cảm tưởng như một lớp mụn sẵn sàng ngoi đầu dậy. Đạm lấy khăn giấy lau sạch hai má, đánh lại tí phấn, thoa đường chỉ nâu trên mắt đều ra. Xong xuôi, nàng bỏ mọi thứ vào ví, sực nhớ đến son môi, Đạm lại lấy gương ra. Nàng đang chăm chú tô kẻ môi thì có người ngồi kế bên nặng nề. Đạm liếc nhìn. Chú Hoà mở nút cổ áo thở phào. Nóng quá. Nóng quá.
- Trời thế này chú còn chê. Mấy khi San Francisco có được một ngày nắng mà không có gió, nhất là vào đầu năm.
Chú Hoà nới rộng cà vạt. Tiếng thở nặng nề của chú làm Đạm khó chịu. Chú Hoà người mập đẩy đà.  Khi trời nóng, chú có vẻ chậm chạp uể oải, chú thở từng hơi ngắn hỗn hễn như sắp lên cơn suyển. Đạm ghét lại gần chú mỗi khi chú mệt, nhất là từ khi nàng có mang. Cái thai quấy nàng nhừ tử mấy tháng đầu và Đạm đâm ra khó chịu hơn mỗi khi nghe tiếng thở ngắn của chú Hoà. Đôi khi Đạm tưởng như nàng bị hụt hơi theo tiếng thở. Đạm nhích xa về phía đầu ghế nhưng giả vờ như đang kéo cho thẳng nếp áo. Chú Hoà không để ý.

- Cháu có thấy cô bé bồ thằng Công không? Chú chép miệng. Cứ như con mèo ướt vậy.
- Phải cái cô mặc quần jean, tóc rối bù đứng gần cửa không chú?
- Không, cô đứng kế bên kìa. Hình như cô tóc rối cháu nói là chị em chi đó, chú trông hai cô mặt giống nhau lắm.
Đạm cố mới trí nhớ, đông người quá nàng chẳng nhớ được ai ra ai, nhất là đám người ngoại quốc.
- Cháu chỉ nhớ có mỗi cô tóc rối thôi. Cô kia thế nào chú tả cháu xem nào.
- Cô đó tóc dài ngang vai, mặc áo đầm đen. Trông tưởng như người Việt mình vậy.
Đạm ngẫm nghĩ xong lắc đầu.
- Cháu chịu. Nhiều cô Việt Nam mặc đầm đen hôm nay. Thế thì cháu hàng. Cháu chỉ nhớ cô tóc rối vì phần đông ai nấy đều mặc đầm hay áo dài, cô ấy lại mặc jean, tóc quăn rối như da đen, trông khác ngay. Mới đầu cháu tưởng là người Việt, cháu chỉ anh Hồ xem cô bé nào đầu tóc táo bạo. Anh Hồ đoán là người Nhật vì cặp mắt tròn, da trắng.
- Không, chú Hoà nói giọng quả quyết, người Tàu, sinh ở phố Tàu.
- Sao chú biết được?
- Thằng Trí nhà chú có quen với đám đó, cũng qua thằng Công chứ đâu. Chúng nó đấu láo tiếng Mỹ nghe là biết ngay. Dân Việt mình nói thế nào vẫn nghe lơ lớ giọng, trừ mấy đứa bé con, trong khi mấy cô bé đó nói nghe như ...Mỹ đấy.
Đạm cười lời phê bình của chú Hoà. Chú nói tiếp.
- Nó với thằng Công định mua nhẫn cưới rồi đấy. Cháu với chị Cả có biết không?
- Cháu còn chưa biết mặt cô bồ thằng Công thì làm sao biết tin tụi nó định cưới nhau.
Chú Hoà lại chép miệng, hơi thở có phần đều hoà hơn lúc nãy.
- Cả đám trẻ biết tất mình thì cứ như ngỗng trời nghễnh ngãng.
- Cháu ngồi hàng đầu tiếp chuyện với mấy bà cụ có biết gì đâu.

Đạm đảo mắt nhìn quanh chợt dừng lại nơi hàng hoa phúng điếu. Chú Hoà nhìn theo phê bình.
- Xứ này lạ quá. Phúng điếu lại đi hoa đủ màu rực rỡ như đám cưới.
Đạm rưng rưng nước mắt khi nhìn thấy giá đỡ quan tài trống trơn. Chú Hoà thấp giọng.
- Này này, đủ rồi cháu ạ, cẩn thận tránh không làm nhoè lớp phấn vừa đánh lại.
- May là cháu để mẹ cháu ở nhà. Cháu còn dằn không nổi huống gì mẹ cháu thương biết bao nhiêu mà nói. Đạm chậm nước mắt nơi mi, tránh không để rơi xuống má, nói tiếp. Tối qua trời mưa, chú hay không, cháu khóc gần cả đêm. Cứ đi ngang căn phòng trống lại nhìn vào, tưởng như...
Đạm bỏ lửng câu nói nhìn lên. Hồ bước tới.
- Về em, xong rồi.
Đạm chần chờ nhìn Hồ, Hồ nói nhanh.
- Khoảng hai tuần sau họ sẽ cho vào ngăn mình đã lựa.
Đạm đứng dậy chậm chạp. Chú Hoà đỡ một bên.
- Thôi mình về. Thế là xong. Người chết yên thân, khổ người sống thôi.

Chú Hoà vừa lẩm bẩm vừa theo Đạm, Hồ ra cửa. Sân đậu xe chỉ còn rải rác dăm ba chiếc. Trí lái chiếc station wagon đầy nhóc người ngừng trước mặt ba người.
- Con về trước cậu nhé, cậu đi nhờ xe chị Đạm, xe con đầy quá rồi. Anh chị về sau với cậu em.
Chú Hoà xưa tay.
- Chúng mày về đi. Dặn mợ dọn bàn sẵn cậu về ngay.
Xe Trí đi rồi, Đạm, Hồ và chú Hoà thong thả bước ra xe. Trời trong, xanh ngắt không vẫn chút mây. Đạm nghĩ thầm, nếu mình có chết được chôn vào một ngày như thế này cũng thích. Hồ cắt ngang ý nghĩ của Đạm. Em cẩn thận. Đạm nhìn xuống, một cục đá nằm lăn lóc trên  đường. Hồ đá vào bên lề. Tiếng lăn cộc lốc vang vang. Trời thật êm khi không có gió. Khí trời ấm áp một cách kỳ lạ sau những ngày lễ cuối năm, mưa dầm cả tuần. Đạm để tay lên bụng như vuốt ve đứa bé. Hồ mở cửa cho vợ. Chú Hoà vào băng sau, miệng không ngớt than phiền.
- Xe gì cửa bé tí, có cái cửa mà cũng bần tiện.
Hồ nhìn Đạm tủm tỉm cười. Đạm bấm tay Hồ. Lần nào lên xe Đạm chú Hoà cũng than phiền là cửa xe nhỏ, ra vào khó khăn. Chú to béo quá so với chiếc Honda nhỏ bé của vợ chồng Đạm. Hồ vòng xe ngang cửa nhà thờ theo con đường dẫn ra cổng lớn, hai bên cỏ xanh mượt, dốc thoai  thoải. Chú Hoà lại lên tiếng.
- Chôn những chỗ này khối đứa dẫm lên đầu mình không hay. Dân mình chôn phải có mộ bia cao ráo cho ra hồn, đàng này chúng nó cứ đặt mộ bia dẹp lép sát bên sân cỏ. Chúng nó chẳng biết trọng mồ mã ông cha là gì cả. Nghĩa địa mà nhìn xa cứ tưởng như sân golf. Phải không? Chú Hoà lay vai Đạm. Phải không?
Đạm gật đầu. Chú Hoà có tật nói dai.  Chẳng trách Trí tránh  đi xe  với bố cũng phải. Đạm cười thầm với ý nghĩ của mình. Chú Hoà không ngừng miệng.
- Chú mà chết, nhất định không chôn ở đây. À, gần đây có cái nghĩa địa Tàu, lúc sáng đi ngang chú thấy. Tí nữa đến chỉ chúng mày xem. Y hệt như nghĩa địa xứ mình. Chú bảo thằng Trí, con nhớ nhé, có gì bố không về chết ở quê cha được thì đừng có chôn bố ở cái nghĩa địa tân thời của Mỹ, bố không an nghĩ được đâu, mộ bia còn thấp hơn cả ngọn cỏ. Cứ chôn tạm bố ở nghĩa địa Tàu này là bố tạm hả dạ rồi. Đạm quay nhìn Hồ. Chàng lái xe chăm chú. Đạm biết Hồ tránh không tiếp chuyện chú Hoà để chú bớt nói. Hình như sự im lặng của Đạm và Hồ không làm chú Hoà nản chí.
- Nói đến Tàu chú lại nhớ. Cảnh sát có nghi ngờ gì nữa không?
Đạm lắc đầu, tỏ ý hiểu chú Hoà muốn nói gì.
- Chú nghi là nó bị giết.
Hồ nhìn chú Hoà qua kính chiếu hậu.
- Chuyện qua rồi sao chú cứ nhắc đến mãi.
Hồ có vẻ không bằng lòng với câu nói của chú Hoà. Đạm ngạc nhiên ngơ ngác.
- Chú nói thế là sao? Hẳn hòi là nó tự tử kia mà.
Chú Hoà tránh ánh mắt của Hồ trong kính chiếu hậu, thấp giọng.
- Chú nhìn đám bạn của nó đoán được ngay, khó gì. Phố Tàu có khối băng du đãng tranh chấp nhau. Chúng giết người không gớm tay. Nhiều khi nó bị giết lầm thế thôi. Con nít đời nay ngu lắm, chẳng biết lựa người mà chơi.
- Không phải thế đâu chú ơi. Hồ chêm vào. Chú tưởng tượng hơi nhiều.
- Tưởng tượng gì. Đứa nào dám gan ra cầu Golden Gate mà nhảy xuống? Nội cái gió vù vù cũng đủ ngán rồi nói gì đến lội bộ ra tận giữa cầu mà nhảy. Cảnh sát lo tìm dấu trên xác nó, còn cái gì mà tìm? Rửa nát gần hết...

Đạm rùng mình. Nàng không nhìn được xác vì thai nghén nhưng trí tò mò không bỏ được nàng. Nàng nghe gai ốc nổi lên trên da. Đêm qua Đạm đã mơ thấy cái xác trong trí tưởng tượng của mình. Cái xác tơi tả, quần áo rách bươm, gương mặt chỉ còn ba cái hố lở loét, miệng tét mất môi dưới trơ răng như đang cười. Đạm chợt muốn khóc. Nàng nhìn ra cửa. Cái xác trong giấc mơ vẫn còn biết nhìn Đạm bằng hố mắt buồn phiền, bàn tay còn có xương trắng nắm chặc tay Đạm trong cơn giận dữ. Đạm nói, giọng nói rưng đầy nước mắt.
- Phải biết thế đừng cho nó đi đâu cả.
Chú Hoà ngỡ Đạm đồng ý với mình.
- Chúng nó giết người bí mật làm sao ngăn được.
- Không phải thế. Cháu nghĩ tại cháu nhiều hơn. Cháu nặng lời với nó nhiều quá. Dù sao nó còn trẻ con ham chơi, cháu rầy rà nó thế không phải, có vẻ khắc nghiệt với nó quá.
Hồ đanh mắt lại nhìn Đạm.
- Anh đã bảo không phải lỗi tại em, cớ gì em cứ nhận lỗi về mình chi vậy? Chuyện đã qua rồi. Nó chết rồi. Em đổ lỗi mình có làm nó sống lại không? Em phải lo giữ sức khỏe cho em. Cháu nói câu nầy chú đừng giận, cháu phải lo cho Đạm, buồn phiền có hại cho Đạm, chú đừng nhắc đến nó nữa.

Chú Hoà có vẻ hậm hực. Đạm khóc lặng lẽ. Nàng cảm thấy mình là người có tội. Mỗi lần đám bạn của Công nhìn nàng, nàng có cảm tưởng như chúng đang chê bai nàng. Thế nào Công lại chẳng kể cho tụi nó nghe về nàng. Tao có bà chị khó chịu. Có lần Công nói thế trên điện thoại vô tình Đạm nghe được. Đạm nghĩ đến lời đồn thiên hạ về mình. Tại chị nó mà nó chết. Bà ấy khó chịu khắc khe với nó lắm... Càng nghĩ, nước mắt Đạm lại tuôn ra nhiều hơn. Mình đâu có ý cấm đoán nó gì đâu. Chị em có hai đứa, không thương nhau thì thương ai bây giờ. Phải cái nó xài tiền không suy nghĩ thì phải ngăn ngừa nó chứ. Đạm tưởng như mình đang đứng trước một hội đồng buộc tội, hàng ngàn ngón tay xỉa xói mặt mình. Đêm đó nàng đã giận dữ bảo Công đừng về nhà xin tiền nữa, đừng về nhà chỉ để ăn cắp đồ đem bán, đừng về nhà làm phiền nàng nữa. Đạm biết em nàng có tự ái lớn, mới mười chín tuổi có khôn hơn ai đâu. Có lẽ nàng nói quá nặng, đã lỡ lời bảo Công đi đâu cho khuất mắt. Giờ Công đi khuất thật, nàng lại hối tiếc. Công không thèm để lại lời nào biện minh cho hành động của mình. Tại sao? Đạm không biết, nàng có cảm tưởng Công muốn hành hạ lại mình cho bỏ ghét, nên không để lại một chữ một lời. Nàng nhớ lại lần cuối cùng gặp Công. Ôi nó vui vẻ biết bao, còn đùa nàng rằng thế nào nó cũng có cháu trai. Biết đâu đó là dấu hiệu rằng nó đã quyết định. Ô, Đạm không biết. Nàng cứ đoán, cứ ngẫm nghĩ, cứ trách mình rồi lại khóc. Có khi Đạm nghĩ thế mà khỏe nợ. Nhưng rồi hối hận cho ý nghĩ tồi tệ của mình. Đạm buộc tội mình nặng nề hơn nữa. Chưa bao giờ nàng lại nghĩ rằng Công chết bởi tay người khác. Như ra khỏi cơn mê, Đạm sực nhớ lời chú Hoà. Nàng lau nước mắt, hỉ mủi vào chiếc khăn giấy Kleenex xong nhét nó vào gạt tàn thuốc trên xe. Hồ nhìn theo.
- Em đừng nhét vào đó nữa. Nó đầy lắm rồi. Cứ bỏ đại trên sàn xe anh tính sau.

Đạm lôi dúm khăn ra, ngần ngừ giây lát rồi bỏ trên nệm ghế của mình. Chú Hoà lại chắc lưỡi định nói thêm câu gì, bắt gặp ánh mắt của Hồ qua kính chiếu hậu, chú lắc đầu im ngay. Đạm nghe tiếng thở của  chú Hoà ngắn và nặng nề như sát bên tai nàng. Bỗng chú Hoà nhấp nhổm nhìn lui.
- Cái nghĩa địa Tàu đâu đây mà sao nãy giờ đi mãi không thấy nó đâu cả. Chú đổi giọng mừng rỡ. Kia rồi. Nhìn mà xem, chúng mày thấy nó có giống nghĩa địa Việt Nam không? Hừm, mùi hương thơm phức đây này.
Đạm và Hồ cũng nhìn theo hướng chú Hoà chỉ. Cái nghĩa địa nhỏ tí so với cái nghĩa địa cỏ xanh um ba người vừa rời khỏi, chung quanh lại là vách tường cao bao phủ, trước cửa là một cổng sắt đen lớn. Đạm chỉ thấy thấp thoáng qua những song sắt cửa. Nàng tưởng như mình vừa thấy lại Việt Nam trong chớp mắt. Và nhất là mùi hương, y hệt như lễ Thanh Minh đi tảo mộ.
- Chú nói phải đấy. Chôn tạm ở đây cũng đỡ được phần nào nhớ nhà.
Chú Hoà có vẻ hả dạ với khám phá mới của mình, Khệnh khạng lôi bút mực trong túi áo ra.
- Đường này là đường gì nhỉ? Nghĩa địa tên gì cháu có nhớ không? Chú phải ghi ngay kẻo lại quên. Cái này tối cần. Chị Cả biết là rối lên đi xem ngay đấy.
Hồ nhíu mày.
- Đường này là El Camino Real, còn cái nghĩa địa thì cháu chịu. Hình như họ để chữ Tàu trên cổng.
Đạm gật đầu.
- Đúng rồi anh, trên cổng toàn là chữ Tàu không. Chú lo gì, cứ ghi là nó khoảng block 17000 là mò ra ngay.
- Con bé này thế mà khôn. Chú chẳng nghĩ ra điều đó, cứ muốn ghi tên của nó. Chữ Nho lâu ngày không dùng đến cũng quên mất cả.

Từ đoạn đường đó về, chú Hoà đắm chìm trong suy nghĩ chi đó nên im lặng không nói thêm lời nào. Đạm và Hồ lấy làm lạ nhưng không muốn khơi chuyện, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng tư. Hồ chợt đưa tay vỗ nhẹ tay Đạm. Nàng nhìn Hồ mĩm cười. Hồ nhìn nàng cười lại xong quay đi nhìn thẳng ra phía trước. Đạm không hề biết là Hồ đang nghĩ đến Công. Chàng nghĩ đến Công như một của nợ vừa dứt. Tuy ý nghĩ có hơi trắng trợn nhưng Hồ không sao xua đuổi nó ra khỏi đầu mình được. Chàng hoàn toàn không chút cảm tình với Công, nếu không muốn nói là ghét bỏ nhưng chàng khôn khéo che dấu Đạm. Hồ không muốn tiếp tục nuôi một đứa em chỉ biết ăn chơi xài tiền phung phí. Công là một thất bại trên mọi phương diện. Đôi khi Hồ có thương hại Công nhưng chàng không muốn phí thì giờ chỉnh đốn Công. Theo chàng, Công đã là một căn bệnh không thuốc chữa. Học hành thì khoá nào Công cũng đóng tiền rồi giữa khoá lại bỏ gần hết, GPA không lên nổi trên 2. Đã mấy lần trường gửi thư cho Công cơ hội chỉnh đốn việc học nhưng rồi đâu lại vào đấy. Bạn bè thì Hồ không đếm được bao nhiêu mà nói trừ bạn gái ra. Công xấu trai, rất xấu trai, mặc dù Công có được dáng cao lớn nhưng Hồ để ý thấy không có cô nào muốn chơi với Công. Lúc này Hồ lại thấy Công quen toàn là những cô Tàu, Đại Hàn hay Phi Luật Tân, nhưng cũng chẳng kéo dài bao lâu. Hồ biết Công mặc cảm về điều đó nhưng chàng không muốn dính dáng đến, dù chỉ là một lời khuyên hay trấn an. Dĩ nhiên chàng không trách thói quen xài tiền phí của Công được. Gia đình Đạm giàu có tiếng ở Sài Gòn. Của hồi môn của Đạm gồm nhiều thứ nữ trang mà chính Hồ còn ngạc nhiên khi nhìn thấy. Công là con út nên sự cưng chiều của mợ Công dần dà biến thành loại vì trùng nghiệt ngã khoét sâu vào con người Công. Đã nhiều lần Công dọn ra khỏi nhà, lấy cớ mình lớn cần tự lập nhưng chỉ được vài tháng lại dọn về. Cũng có khi Công tỏ vẻ hăng hái muốn tìm việc làm để không phải mang tiếng là ăn bám, nhưng cũng chỉ kéo dài được dăm ba tuần thì bị đuổi, phần lớn là vì lỗi của Công. Hồ cũng chẳng buồn để ý đến Công với những chuyện gấu ó. Chàng không muốn mang tiếng dính dáng vào chuyện gia đình vợ, hơn nữa, Hồ tự cho mình không có trách nhiệm hay bổn phận gì với Công, một thanh niên gần hai mươi tuổi. Đôi lần Hồ có ý trách móc Đạm để phòng Công trống không ích lợi. Công dọn đi dọn về trăm lần, trong khi đứa bé sắp ra đời rồi sẽ lớn, cần một phòng riêng. Mỗi lần hai vợ chồng tranh chấp về phòng Công là mỗi lần Đạm buộc tội Hồ không thương Đạm. Hồ chẳng hiểu Đạm dựa vào đâu để kết luận một cách ngộ nghĩnh buồn cười như vậy. Chàng chỉ muốn Công dọn ra hẳn hoặc có thái độ dứt khoát để Hồ còn toàn tính cho con mình. Những lúc Đạm rầy rà Công, Hồ tưởng Đạm nghĩ như mình nhưng chàng đã lầm. Đạm rầy rà Công trước mặt nhưng lại mãnh liệt bênh vực em sau lưng. Lắm lần Hồ cười Đạm rằng Đạm tối mắt trong tình cảm, cho dù Đạm biết rõ hơn ai hết sự hư hỏng của Công, nàng vẫn sẵn sàng che dấu mọi thứ với tất cả mọi người kể cả Hồ là chồng Đạm. Sau đó, Hồ lại hối hận đã nói thẳng tim đen của vợ mình. Dù sao, Đạm chỉ có mỗi Công là em, giữa hai chị em lại là khoảng thời gian khá dài, mười năm, Đạm nửa như chị, nửa như người mẹ thứ hai của Công. Và cứ thế, Đạm cũng chìm Công không khác gì mợ của Đạm. Hồ cũng tự đắc nhờ mình mà Đạm  có mở mắt đôi chút để bớt nuông chìu em, đẩy Công ra để Công rán tự lập. Hồ cho rằng công của mình trong việc uốn nắn Công đã bị mọi người bỏ quên, không có chàng chắc chắn Công còn xuống dốc thể thảm hơn nữa, nhất là từ khi cả nhà đặt chân lên xứ này.

Hồ ngừng xe nơi ngã tư, đèn đỏ sáng rực. Hai cô gái vừa đi vừa nhún nhẩy theo điệu nhạc vẳng ra từ chiếc radio cầm tay. Hồ nhìn theo hai gương mặt con nít đầy son phấn, quần áo màu sắc sặc sỡ. Con mình không thể nào giống như vậy được, Hồ nghĩ thầm. Chàng chép miệng nói với Đạm.
- Em thấy hai cô nhỏ đó em có sợ không?
Đạm lắc đầu.
- Có gì mà sợ? Hai con bé con diện có phần quá đáng đôi chút chắc là mới tập tễnh dùng son phấn mới loè loẹt thế kia.
- Thế mà em không nghĩ ra sao? Ăn mặc thế kia, đi nhún nhảy như thế, miệng chưa ráo sữa mà đã bày đặt này nọ, chỉ tổ  làm cha mẹ thêm đau tim mà thôi.
Đạm có vẻ thờ ơ.
- Ăn nhằm gì mình. Con thiên hạ thì thiên hạ lo, có phải con mình đâu mà anh lo quàng.
Chú Hoà ngồi phía sau vọt miệng.
- Con nít xứ này chú trông ghê quá. Mới mười ba, mười bốn mà đứng muốn cao hơn mình cả đầu, xe cộ lái như đi ăn cướp, đầu tóc nhìn cứ tưởng như chưa bao giờ nghe đến cái gương cái lược là gì. Chú cũng chẳng hiểu sao bố mẹ chúng lại chịu được. Con chú mà thế là chú từ nó ngay. Làm nhơ danh cha mẹ.
Đạm nhìn Hồ như có ý trách sao lại khơi chuyện cho chú nói.
- Dân xứ này hết trọng đàn bà lại đến trẻ con đến chó mèo. Chú thấy ngứa mắt thêm thôi. Người nào có địa vị người nấy, chó mèo chỉ là súc vật, trẻ con chỉ là con nít con nôi, chúng biết gì mà đòi này đòi nọ. Trứng đòi khôn hơn rận sao được. Còn đàn bà thì lo bếp núc, bày đặt đòi bình đẳng bình quyền, mãi rồi sanh loạn chúng mày xem, chú nói không ngoa đâu. Ông bà mình xưa đã dạy thế, thì mình cứ thế mà thi hành. Trong nhà trước sau đâu ra đấy thì xã hội không thể nào trụy lạc được. Con phải biết bố mẹ trên đầu, vợ phải biết nép mình nghe chồng, học trò phải biết kính thầy cô. Xứ gì hở ra là bố mẹ thưa trường, thưa thầy cô, thế thì làm sao lũ trẻ trọng thầy cô lo ăn học được. Con Tâm nhà chú, về nhà cứ than phiền lương thấp với lại lương cao so với mấy tên đàn ông cùng sở. Chủ bảo nó có "dốp" là may lắm rồi, ở đó còn so đo kỳ thị nam nữ. Đừng có bắt chước mấy con Mỹ đòi này đòi nọ, chúng đuổi thì đói cả lũ. Đàn ông con trai thì tháo vát hơn đàn bà con gái, lương cao hơn là phải, kỳ kèo nữa là thế nào.

Chú Hoà chắc lưỡi, lắc đầu. Đạm có cảm tưởng như là chú đang bênh vực cho cả một nam phái sắp hàng sau lưng chú. Nàng nghe ngột ngạt khó chịu với ánh nắng gay gắt xuyên qua kính xe. Đạm quay kính xuống một tí. Gió ùa vào vù vù.
- Gió làm chú khó chịu không? Cháu mở kính xe cho dễ thở một tí.
Chú Hoà lắc đầu.
- Không, không sao cả. Chú cũng muốn ngộp thở. Xứ gì kỳ quá. Đóng kín cửa thì ngộp, mà mở kính thì lại gió lạnh. Chỗ thì sương mù kín mít chẳng thấy đường sá đâu cả, chỗ thì lại nắng chang chang. Cái thành phố này chú trông nó quái đản làm sao ấy. Phong thổ như thế chẳng trách người ngợm cũng không ra gì. Cái đất ở ảnh hưởng con người ghê lắm đấy, chúng mày có nhận thấy thế không?
Đạm và Hồ gật gật đầu không nói. Chú Hoà gần như độc thoại suốt đoạn đường còn lại. Chúng mày không thấy mấy thằng "ghê" đó sao. Chúng nó tụ về đây là phải. Đất đai phong thổ chướng thế này, chúng nó cũng chẳng phải là giống người. Nếu ai cũng như chúng thì diệt chủng còn gì. Bồ bịch gì lại là đàn ông với nhau. Trông chướng không thể tả. Xứ thanh bình quá nên đâm ra loạn là thế. Sống yên ổn quá rồi bày đặt. Xứ chiến tranh như mình làm gì có thì giờ nghĩ vẫn nghĩ vơ, bệnh tâm lý với lại phân tâm học. Đi ngược với thiên nhiên thế chẳng chóng thì chầy, xứ này diệt chủng. Hồ cười thầm khi nghe chú Hoà nói thế. Xứ này có diệt chủng cũng vài trăm năm nữa! Sợ chú Hoà biết mình đang cười, Hồ làm mặt nghiêm nhìn thẳng lái xe. Chú Hoà tiếp tục thao thao. Đạm thở dài  mệt mỏi. Chú Hoà nói nhiều câu Đạm không đồng ý và nàng muốn cãi lại. Đó là cái tính xấu của Đạm, mỗi khi ai nói câu nào không vừa ý với quan niệm của Đạm là nàng nhất định cãi lại cho bằng được. Từ lúc có mang đến giờ, nàng cố tập cho mình bớt cái tính đó. Nàng muốn đứa bé con sinh ra tính tình đằm thắm dịu dàng. Đạm che dấu không muốn Hồ biết rằng nàng muốn con gái hơn là con trai. Con trai, nàng chỉ sợ nó giống Công, dù sao, máu huyết của nàng, làm sao tránh khỏi? Hồ cười nàng lo nghĩ viễn vông nhưng Hồ nào biết rằng Đạm không thể tránh được ý nghĩ buộc tội mình, buộc tội Công. Công đã mất rồi nhưng lời nói đùa vẫn ám ảnh Đạm, nặng nề hơn bao giờ hết. Thế nào chị cũng có con trai, mà con trai thì phải giống em mới được, đừng giống anh Hồ, cứng đơ lạnh lùng như khúc gỗ, nó phải giống em, nhiều tình cảm. Đạm không muốn con mình giống Công. Công là món nợ Đạm vừa thoát khỏi, một thứ nợ buồn phiền chua chát hơn là quấy rầy phá rối

Đạm sực nghe chú Hoà nhắc đến tên Công, nàng lắng nghe.
- Cái thằng cũng kỳ. Chú nói gì nó cũng cãi lý cho bằng được, giống con Đạm như hình với bóng. Nó bảo chú cổ hủ như cái bình tích. Cái thằng, ăn nói ngang không? Nó bênh mấy thằng "ghê" bạn nó đó mà. Nó kêu đấy chỉ là bệnh thôi. Bệnh gì? Bệnh thì có thuốc chữa. Nó lại cãi ong óng rằng bệnh tâm lý, phải chữa bằng tâm lý, thế này thế kia, xứ tự do, ai muốn sống sao thì sống. Đời sống cá nhân khác đời sống xã hội. Úi giời, thằng Công dùng toàn chữ kêu như sáo ấy. Con Đạm cũng thế.
Đạm bực dọc, bỗng dưng chú Hoà lại bảo là Công giống nàng.
- Công nó giống cháu là thế nào? Chị em giống nhau là chuyện thường tình, nhưng đâu có nghĩa là cứ anh chị em thì phải giống nhau. Cháu thấy nhiều anh chị em tính tình một trời một vực.
- Đấy, đấy. Chú Hoà cười sằng sặc, chú có nói ngoa đâu. Chị em chúng mày ưa cãi lý lắm, giống chị Cả. Cái này là từ chị Cả mà ra. Gì cũng cãi cả, tánh nóng như lửa ấy. Gì không hài lòng là nói ngay. Đuối lý vẫn cố cãi như thường, cãi chầy cãi cối cũng tiếp tục cãi.
Đạm liếc chú Hoà một cái.
- Cháu cãi chú bao giờ. Chú bảo thằng Công giống cháu. Vâng nó giống cháu, giống là giống mặt mày tướng tá chớ còn tính tình thì không. Nó không biết lo, không biết suy nghĩ sâu xa, thích lo cho bạn bè hơn là gia đình thân thuộc.
- Tại nó nhiều tình cảm. Hồ buộc miệng.
Đạm quay qua Hồ, có vẻ gây sự.
- Anh bảo nhiều tình cảm là sao? Nhiều tình cảm thì phải thương gia đình trước chứ nhiều tình cảm để người dưng có lợi à?
Hồ vả lả.
- Anh nói nhiều tình cảm nhưng đặt không đúng chỗ.
- Anh nói thế mới phải. Đạm có vẻ vừa lòng với câu nói chữa của Hồ. Nó ngu nên chỉ biết bạn bè. Bây giờ nó chết rồi, đem theo được đứa bạn nào nói em nghe thử. Nhiều lắm là dăm bữa rồi tụi bạn nó cũng quên. Ai ngồi đó thương tiếc nó suốt đời? Cái thằng nhiều tình cảm mà ngu. Nói gì nó cũng chẳng hiểu được mình. Nói gì nó cũng bảo là mình khó chịu, bảo thủ. Nói gì nó cũng bảo nó là em chứ không phải là con mà mình muốn đặt đâu nó phải ngoan ngoãn ngồi đó. Mình lo cho nó mà cứ bảo là mình xen vào đời tư nó.

Mắt Đạm long lanh ướt. Giọng nói bắt đầu muốn nghẹn.
- Mình nghĩ tốt cho nó, phải biết chuyện của nó mới phụ nó giải quyết được, nó lại bảo mình nhiều chuyện, đời nó để nó lo. Còn lên giọng giải thích, nó là nó, mình là mình, độc lập. Không ai có quyền ảnh hưởng ai. Bảo nó lo đi học thì nó lại gân cổ rằng đi học như chị xong ra trường đi làm, chỉ có thế thôi, cuộc đời gì mà chán nản, phí phạm. Hỏi nó muốn làm gì với đời nó thì nó bảo sống.
Sống như thế nào mới được chứ? Đâu phải chỉ nói sống là đủ. Sống bằng gì? Phải thực tế chứ, mợ đâu sống hoài để nuôi nó đi chơi. Cuộc đời đâu đo bằng bạn bè hay bồ bịch. Cái thời trung học ngu dại đã qua rồi, nó phải biết thế, phải nhận thức thế. Cái thằng cứng đầu. Nói êm dịu nó chẳng thèm nghe. Làm dữ thì nó giận hờn bỏ đi. Dù gì đi nữa, nó phải hiểu nó là em, có lo cho nó, có để ý đến nó, mình mới rầy la nó. Không hiểu sao nó lại dại đến thế, đi tự tử làm gì? Khối người muốn sống lại không được sống, trong khi nó có mọi thứ quanh mình.
Chú Hoà không dằn được, lỡ lời.
- Đã bảo nó điên gì đi tự tử, phải có người khác nhúng tay vào. Biết mình nói hớ, sẵn trớn, chú Hoà nói luôn cho hết ý nghĩ của mình rồi ra sao tính sau. Người ta ai chẳng ham sống huống chi nó còn trẻ, còn ham sống thì không có cớ gì để nó tự tử cả. Có ai hờn anh chị mình chuyện la rầy nhỏ nhặt đi tự tử bao giờ. Thử tưởng tượng ra nó đứng đấy, gió lạnh vù vù, chưa kể đi bộ bao xa mới ra đến giữa cầu? Không ai thấy nó đi sao? Vô lý lắm. Nó phải đậu xe gần cầu rồi đi bộ dọc theo cầu. Trong khoảng thời gian đi như thế, thánh cũng phải nguôi cơn giận. Chưa kể nhìn xuống nước biển xa tít mù, gió ào ạt, thằng Công làm gì đủ gan để ra đó nhảy xuống.

Đạm nhăn mặt, cố tránh cơn nôn ngấp nghé tới cổ họng. Mặt Đạm dần dần xanh mét theo cái xác rửa nát tưởng tượng trong trí qua từng lời nói của chú Hoà. Đạm nhắm mắt, như chợt thấy rõ ràng dáng Công đi lửng thửng trên cầu. Đạm lại mở mắt, chung quanh nàng mờ ảo như sương mù lấp đầy trong xe, nàng nghe ngộp thở. Dáng Công nghiêng nghiêng trèo qua lan can cầu, đứng cheo leo. Đạm thở mạnh dồn dập, nàng choáng váng như vừa uống một ly rượu mạnh. Hình ảnh  Công nơi cầu không thay đổi. Đạm muốn đưa tay giữ em mình lại. Quá trễ, Công đã nhảy xuống, gió vù đưa xéo vào chân cầu xi măng. Trong khoảnh khắc, Công lại trôi lên, mặt mày rửa nát, chỉ còn mấy hố sâu, hàm răng nhe mất môi trên như đang cười, quần áo te tua rách bươm. Cá rỉa, cá rỉa. Đạm nhắm mắt, buông mình theo tay níu của Công.

Chú Hoà rướn người lắc vai Đạm. Tỉnh dậy Đạm, Đạm, sao kỳ thế này. Hồ ơi! Chạy nhanh lên, về nhà đi, không, chở nó vào bệnh viện luôn. Nó bất tỉnh rồi.
Hồ nhấn ga, đưa tay mặt sờ Đạm, tay nàng lạnh ngắt. Mặt Đạm xanh mét. Hồ mở cửa kính xuống cho ít gió lùa vào xong đóng lại. Chàng lái xe thẳng vào bệnh viện trên đồi gần nhà. Mắt Hồ chai cứng với cơn giận. Chú Hoà tránh không nhìn Hồ cho đến mười mấy giờ sau, khi cả hai cùng đứng trước phòng trẻ sơ sinh.
Nhìn đứa bé trai mắt nhắm kín đỏ hỏn, chú Hoà vỗ vỗ vai Hồ.
- Lên chức bố rồi đấy nhé. Chú có người gọi bằng ông rồi. Tóc nhiều thế kia, tướng tốt. Tốt. Tốt.
Hồ chẳng hiểu sao chú Hoà cứ lập đi lập lại chữ tốt. Chàng đang vui sướng với chữ bố nên cảm thấy vị tha. Hồ muốn xá tội cho tất cả mọi người, kể cả chú Hoà, kể cả Công.


Nguyễn Thị Ngọc Nhung


--------
Nguồn: VĂN
Số 28, tháng 10-1984
















Friday, December 1, 2017

VÔ CHÙA THĂM MẸ



Nguyễn Thạch Giang



Thanh vô chùa thăm mẹ trước khi đi sang tiểu bang khác sinh sống, ráng lo tu tỉnh làm ăn, mong cuộc đời sau này sẽ khá hơn. Chứ còn ở đây quanh năm suốt tháng nhậu nhẹt cờ bạc, bỏ hoài không được.   Mẹ anh đã đi tu từ lâu sống trong chùa. Mẹ anh nay là sư cô Diệu Lam.
Hôm nay là ngày rằm lại nhằm thứ bảy, chùa đông nghẹt người đi lễ, parking không còn chỗ Thanh phải đậu xe ngoài lề đường gần đó, đi bộ vào chùa.
Thanh đi vòng ra phía sau hậu liêu chỗ mẹ ở, không thấy bà anh bước lên chánh điện sư thầy đang thuyết pháp, thiện nam tín nữ ngồi kín gian phòng. Anh bước ra sân thì thấy dáng mẹ đứng đàng xa bèn gọi lớn:
- Má, má! Sư cô Diệu Lam!
Sư cô thấy thằng con mừng rỡ, và theo thói quen, bà chấp tay:
- Nam mô a di đà Phật.
Anh con lúng túng. Con gọi má được không? Hay là phải kêu sư cô.
Sư cô im lặng giây lát, gương mặt thoáng vẻ buồn. Má đã vào chùa quy y, từ lâu đã không còn vướng bận chuyện đời, thôi con cứ gọi má là sư cô.
Anh con thấy mẹ mặc áo lam, đầu cạo trọc đội nón nỉ, dáng điệu khắc khổ của một người tu hành, lòng chợt buồn nói ngập ngừng...
- Con sắp đi qua Florida ở, có hai vợ chồng người bạn mới mở tiệm nail, kêu con qua bển họ giúp dạy nghề. Con cũng muốn đi thay đổi chỗ ở một thời gian coi có khá hơn không, chớ còn ở đây hoài...
Chợt có người dưới bếp đến nhờ sư cô Diệu Lam phụ giúp sửa soạn bữa ăn cho khách. Bà nói Thanh vào chánh điện lạy Phật, chút xong việc bà trở lại.

Nhìn dáng mẹ già nua còm cõi còn phải lăng xăng làm việc cả ngày Thanh cảm thấy buồn vô hạn. Tự nghĩ mẹ vào chùa cũng bởi lầm lỗi của mình. Bao năm qua chỉ biết ăn chơi nhậu nhẹt trai gái cờ bạc. Qua Mỹ đã hơn hai mươi năm mà trong nhà bank không có lấy một đồng, không có được chiếc xe để đi coi cho ra hồn. Lúc mẹ còn ở nhà, ngày ta ngày tết chẳng biết mua một món quà gì cho mẹ, tiền bạc bà có bao nhiêu cũng rút rỉa.
Thanh bước đến tượng Phật Bà Quan Thế Âm ở góc vườn đứng chấp tay cầu nguyện. Anh cầu xin ơn trên phù hộ độ trì cho mẹ là sư cô Diệu Lam luôn mạnh khỏe, anh cầu nguyện cho mình sang Florida gặp nhiều thuận lợi. Thanh bước vào chánh điện lạy Phật, muốn đọc một hồi kinh sám hối mà không thuộc bèn lạy ba lạy rồi bước ra ngoài.

Sư cô Diệu Lam trở lại kêu Thanh vào hậu liêu ăn bún bì chay. Bà còn múc một bình nước súp chay nấu bằng các loại rau củ cho Thanh mang về. Bà nấu ăn rất khéo, biết làm nhiều món chay, cả ngày phụ dưới bếp.
- Con ăn no chưa? Muốn ăn thêm nữa không?
- Dạ không, con no rồi. Má làm công chuyện cả ngày có mệt không?
- Không con, mà chỉ làm lắc xắc công chuyện nhẹ nhàng. Chừng nào thì con đi?
- Dạ tối thứ năm, đi máy bay, chiếc xe con bán rồi.
Bà ngồi im trầm ngâm, đôi mắt đượm vẻ buồn buồn.
- Con qua đó ở với ai? Con nói qua đó làm nail? Mà con có biết làm không?
- Chỗ đó là Ocala, thành phố nhỏ miền trung Florida, con ở tạm với gia đinh người bạn. Tụi nó giúp con thi lấy bằng rồi tập cho con làm.
- Thôi con ráng lo làm ăn, tuổi ngày một lớn, còn phải tính việc lập gia đình chớ lông bông như vầy hoài sao.
- Dạ.
Bà ngồi trầm ngâm nhìn thằng con mặt mày hốc hác thân hình tiều tụy xác xơ. Đứa con mà bà rất thương yêu, đứa con khi còn trẻ rất ngoan mà ngờ đâu lớn lên lại vướng vào đường nghiện ngập.
- Má ngày nào cũng cầu xin Đức Phật giúp cho con thay đổi.
- Dạ, con thật là có lỗi.
Nhìn thằng con khi biết lỗi thì đã thân tàn ma dại, bà cảm thấy tội nghiệp cho nó thời gian qua bị anh chị ghét bỏ, sống lủi thủi một thân một mình sớm tối đi về không ai thèm ngó tới.
- Qua đó sống với người ta, tiền nhà tiền ăn phải lo cho đàng hoàng, không phải như ở nhà lúc có lúc không. Ăn xài vừa phải, rán dành dụm chút đỉnh, đừng ăn trước trả sau mượn nợ mượn nần trả hoài không dứt nhe con.
- Dạ.
- Anh chị của con lúc nào cũng yêu thương con, con đừng hờn trách, dù có thế nào thì cũng là anh em ruột thịt.
- Dạ con biết. Để con qua đó làm một thời gian để dành tiền về Việt Nam chơi một chuyến.

Bà mẹ nhìn thằng con giờ thay đổi, biết nhìn xa xa một chút chớ không như lúc trước sống ngày nào biết ngày đó.
- Ờ về đó chơi, kiếm vợ luôn, chú Tám hỏi thăm con hoài nói con về bển chú làm mai cho một cô.
- Má đi với con nhe.
Bà mẹ bật cười, vui lây cái vui của thằng con. "Biết có ngồi máy bay nổi không đây".
- Má bửa nay mấy tuổi rồi?
- Mày tệ quá! Không nhớ tuổi của má! 76 rồi con.
Anh con đứng dậy. "Thôi con về, má rán khỏe chờ ngày con kiếm tiền về đây dẫn má đi Việt Nam nhe".
Sư cô Diệu Lam cảm động ứa nước mắt chờ thằng con đi khuất trở vào đọc kinh lạy Phật.