Friday, November 18, 2016

TRĂNG MẬT BẾN SÔNG CẦU




                                                               Nguyễn Tấn Hưng
   

 

Đêm đã khuya, tiệc đã gần tàn. Hoàng nghĩ mình đãi bửa nay cũng không đến nỗi tệ lắm. Bạn bè có mặt đầy đủ. Mình không quý người ta ai quý mình. Cũng có lý. Ở cái thành phố nặng mùi thuốc lá này, Winston Salem, North Carolina, số gia đình Tar-Heel gốc Giao Chỉ của mình cũng không có mấy. Đếm đầu ngón tay. Số ít nhưng tình nhiều. Chiều thứ sáu mà không có điện thoại của bạn bè, thấy như thiếu một cái gì. Mình muốn quên hãng xưởng, quên làm lụng để thấy weekend còn dài. Chiều thứ bảy vẫn là những mục tiêu lớn. Và chiều chủ nhật là những gì còn sót lại, những gì khẩn cấp cần thiết, ngày mai còn phải đi làm. Ba chiều phải có một chiều, một chiều cho đồng hương, cho quê hương. Ba chiều có đủ ba chiều thì càng hay. Lắm khi liên tiếp ba chiều được Việt ngữ hoá, sáng thứ hai vào sở phát ngôn tiếng Mỹ đầu ngày như bị ngọng.
 Buổi họp về việc tổ chức văn nghệ gây quỹ bửa nay cũng thành công. Còn dợt nhạc, còn gặp nhau dài dài...

- Anh cũng ở Sông Cầu nữa hả. Mà sao anh biết Nghề ở Sông Cầu?

Hoàng cũng không hiểu câu chuyện đầu đuôi ra sao mà bây giờ dẫn tới màn này, câu hỏi này. Hoàng trả lời đại:

- Thì nghe thằng Thành mới nói.

Nghề ra vẻ trầm ngâm suy nghĩ.

- Từ hồi qua Mỹ đến giờ em chưa bao giờ nói với ai là em ở Sông Cầu.

Hoàng cắt ngang:

- Sao vậy. Quê hương của mình mà, làm gì lại chối bỏ.

- Em chỉ muốn sống với quê hương cho riêng mình mà thôi. Hình như trên đất Mỹ này không còn ai biết Sông Cầu, cái quận xa xôi hẻo lánh miền Trung. Cả thằng Thành nữa, nó chỉ biết em ở đó thôi chứ nó đâu có biết Sông Cầu về cái gì đâu...
Mà anh còn nhớ trường trung học Sông Cầu ở hướng nào không?

- Nhớ cái gì. Anh chỉ nói sơ sơ ...từ chiếc tàu chìm trong vịnh, cái sân banh ngó vô dinh quận, những buổi chợ phiên có bạn hàng xuống từ trên núi, và những con heo nái dẫn con dạo phố cùng đường...là đủ diễn tả Sông Cầu, cần gì cái trường trung học.

- Trời đất ơi, vậy là anh rành quá rồi. Không ngờ em gặp lại anh.

Nghề đưa tay ra bắt tay Hoàng, xiết thật mạnh như tỏ lòng kính mến đàn anh. Hoàng lâng lâng thả hồn về một thời xa xưa, những ngày tháng nên thơ tại cái thành phố nhỏ nhoi miền biển này. Kỷ niệm như có đối tượng để được khơi lại, để được bộc phát, để được thấm thía một lần.

Hoàng bắt đầu kể chuyện.




***


Phục vụ trên Hải Vận Hạm 405 mới được hơn năm thì tôi được lệnh đổi lên bờ. Tôi là một trong những thằng cùng khoá bị đổi về bờ sớm nhất. Không khá được. Tất cả bạn bè đều còn ở hạm đội mà mình phải lên bờ. Lẻ loi, bơ vơ, lạc đàn. Thiệt tình lúc đó đang ở với ông hạm trưởng lé của tôi, hải quân Việt Nam duy nhất chỉ có một hạm trưởng lé, và tôi đang bị trù giống như thời tôi còn ở trong trường. Thuở đời nay, dưới tàu mà cũng bị cấm trại dài hạn, cho đến khi có lệnh mới. Nhưng tôi vẫn còn thích đi tàu, đi tàu như đi du lịch khỏi tốn tiền. Tàu cặp bến lúc nào cũng có bạn bè, vì chiếc nào cũng có bạn bè cùng khoá, pont cũng như cơ khí. Vả lại hồi xưa mình đâu có khí phách anh hùng, đâu có chọn tàu tuần dương miệt mài biển khơi, thì đâu gì phải lo. Tàu vận chuyển có hải hành nhiều lắm là bốn ngày bốn đêm liền, Sài Gòn- Đà Nẵng chẳng hạn, thì cũng cặp bến, có dịp ngắm nhìn người đẹp, có dịp say sưa.

Cầm cái công điện thuyên chuyển đã thấy bất mãn, mà lại thuyên chuyển về Tây Kết, Nha Trang, thì lại càng bất mãn hơn. Huấn luyện ở đó hai năm, hai năm tung tăng khắp phố phường, hang cùng ngõ hẻm đã nhàm chán rồi. Vậy mà bị đưa trả về đây. Lúc ra trường tất cả  đã bàn giao cho khoá đàn em, cho con cái cháu chắt hết rồi, bây giờ đâu có đòi lại được. Hơn nữa tôi cũng sắp sửa hết còn độc thân, Lan và tôi đã làm lễ hỏi năm sáu tháng nay, sau chuyến chở hàng về Cần Thơ. Bởi vậy lúc vác sac marin vào Tây Kết tôi tự hứa không trở ra phố Nha Trang nữa. Rồi tôi được thảy xuống làm sĩ quan trực trung tâm hành quân. Chán chưa. Sĩ quan trưởng phiên trên tàu có lý hơn nhiều. Xung quanh mình còn có trời, mây, trăng, nước. Còn được ra lệnh, còn được làm hạm trưởng tạm thời. Trong "ca" có súp, hết "ca" có đồ nhai, sẵn trong carré sĩ quan. Trực trung tâm hành quân chỉ thấy bốn bức tường và khói thuốc. Lên "ca" mì gói, xuống "ca" vô câu lạc bộ và...cờ tướng, bi da. Cờ tướng và bi da như là nghề phụ của hầu hết sĩ quan trực trung tâm hành quân. Nhờ vậy tôi lại ăn chịu và quen thân với đại uý Biên, trưởng Phòng Một,  một tay cầm cờ có hạng.

- Đại uý làm sao đưa tôi đi khỏi chỗ này. Tôi chán ở đây quá!


- Mày đi mất tay chơi sao? Còn mấy chỗ thiên hạ chê đó mày muốn đi thì đi. Deji, Sông Cầu chẳng hạn.

- Còn mấy duyên đoàn ở phía nam chi cha nội. Cam Ranh, Thanh Hải gì đó.

- Không dễ gì đổi vô đó đâu, tao đề nghị tư lệnh cũng bác, mày mới tới có mấy tháng.

Rốt cuộc rồi cũng có ngày tôi khăn gói lên đường đi Sông Cầu, Duyên Đoàn 23. Còn đỡ hơn Deji, Duyên Đoàn 21, duyên đoàn địa đầu Vùng 2 Duyên Hải.
Hồi ở đây ngày nào cũng mong đi, đến lúc đi lại thấy buồn buồn, tiếc tiếc. Chiếc fibro-ciment, loại ghe chỉ được chế tạo tại Hải Quân Công Xưởng Việt Nam, của duyên đoàn gửi về sửa chữa ở Cầu Đá đã xong và sẵn sàng chờ tôi tách bến. Ngày ra đi tôi đến từ giã đại uý Biên, ông ta còn gửi tôi một câu thòng:

- Hoàng, mày muốn được đổi về Sài Gòn không ? Nếu muốn thì ký tên vô đây để tao đề nghị mày về học tình báo. Ở đây cóc có tên nào chịu đi.
  Tôi ký tên đại vào chỗ trống có đánh dấu. Đúng ra tôi chỉ muốn trở về Sài Gòn thôi. Học một khoá sáu tháng, mình như được đi phép sáu tháng, học một năm mình đi phép một năm. Chứ học tình báo thì tôi chưa biết có thích hay không. Chẳng lẽ lại đổi nghề à,  nghề hải quân của mình nó cao đẹp nên thơ lắm, bỏ sao được. Thây  kệ, tới đâu hay tới đó.

Tôi xuống ghe Duyên Đoàn 23 đi về Duyên Đoàn 23. Thủy thủ đoàn biết tôi mới đổi về đơn vị săn sóc tôi rất chu đáo, không như mấy đứa đoàn viên ở trung tâm hành quân, công việc ai nấy làm, mì gói ai nấy ăn, mình như quan không có lính.
Hai ngày một đêm thì ghe về đến bến. Vịnh Sông Cầu rộng lớn, sóng nước nhấp nhô trông như một mặt hồ hơn là mặt biển. Tôi ngạc nhiên thấy chiếc tàu chìm trong sông chứ tàu đâu chìm ngoài vịnh. Ống khói, cột cờ đài chỉ huy in bóng dài trong nắng chiều. Chỗ này như là chỗ đi câu lý tưởng, mà sao không thấy ghe tàu đánh cá, xứ gì lạ vậy. Tất cả như im lặng, không hoạt động.

Ghe cặp cầu, tôi ngạc nhiên thấy người đón tôi là trung uý Tám, em của thằng bạn cùng khoá, thằng Kiết. Tôi chào trung uý Tám, qua lại vài câu xã giao rồi lang thang theo hắn về trại. Duyên Đoàn nằm dọc theo Sông Cầu, từ cửa sông đổ ra vịnh có cái miếu thổ thần cho đến cây cầu sắt bắt ngang sông của quốc lộ 1. Một bãi cát dài chỉ thấy một nhà kho, và một nhà tiền chế trống trơn không có vách. Nhiều lô cốt phòng thủ vòng đai dọc theo bờ sông có kéo mấy lớp kẽm gai tròn. 

  
Lội cát một khoảng đừ người mới đến câu lạc bộ, cư xá hạ sĩ quan và đoàn viên, rồi đến khu sĩ quan và cố vấn Mỹ. Tôi bỏ đồ đạc vào phòng rồi xuống câu lạc bộ sĩ quan, Hội Trùng Dương, một cái nhà sàn ngó ra dòng sông. Trung uý Định cùng khoá với ông Tám, khoá 15, làm chỉ huy phó. Ông Tuấn, cũng trung uý, khoá 14, làm chỉ huy trưởng. Ai cũng trung uý hết, chỉ có tôi là thiếu uý, khoá 17. Mà sao không có đại uý? Tôi đến đúng vào giờ cơm nên nhảy vô nhập tiệc luôn. Tất cả đều độc thân, chỉ có ông Định là có gia đình, vợ mới cưới, chưa con cái và có nhà riêng ở ngoài phố. Cơm nước xong xuôi còn lại tôi và ông Tám, ông nói nhỏ cho tôi biết chỉ huy trưởng của mình là em của một ông tướng ở Sài Gòn. Vậy sao, hèn chi ổng mới trung uý đã nắm chỉ huy trưởng rồi. Tôi thấy mình như Tôn Tẩn bắt được cây Hạnh Huỳnh Kỳ. Bảo đảm lần thuyên chuyển này sẽ không đến đỗi.

Sĩ quan ăn uống khỏi tốn tiền lại có đầu bếp giỏi, trung sĩ Ngô. Dọn đẹp phòng ốc, giường nệm và giặt ủi quần áo có hạ sĩ Nhánh. Còn đòi hỏi gì nữa. Tôi được chỉ định làm sĩ quan kỹ thuật, coi việc bảo trì sữa chữa máy móc tàu bè, kiêm sĩ quan chiến tranh chính trị, lo việc phát thực phẩm, áo quần cũ, thuốc men, quà tâm lý chiến nói chung cho dân nghèo.
Việc hành quân tuần tiễu do mấy ông lớn lo hết vì tôi chưa có kinh nghiệm chiến trường. Còn gì phải đòi hỏi. Cố vấn Mỹ có đại uý Pine, trung úy Alexander, và trung sĩ Mập, hắn ta mập và thích được kêu như vậy. Đại uý Pine và trung sĩ Mập nói tiếng Việt khá lắm. Biết chửi thề văng tục. Không biết ai dạy, thâu băng cho tụi nó, tối ngày cứ nghe tape, thực tập rồi phát ngôn bừa bãi, rồi cười.

Tôi ở được ba tuần, chân  ướt chân  ráo thì đến ngày xin phép về Mỹ Tho  cưới vợ. 
 Ông bà già vợ nghe nói phải đi ra tận miền trung thì ngại lắm. Nhưng con gái lấy chồng thì phải theo chồng, đâu có cản được. Ngày ra đi bà giả khóc sướt  mướt làm như tôi đưa con bà đi tới chỗ chó ăn đá gà ăn muối, làm công lên chuyện xuống gì nhọc nhằn lắm vậy. Tôi phải trấn an Lan vì Lan cũng chưa lần nào ra trung. Ngoài ấy sống được lắm em khỏi phải lo gì ráo trọi, tôi nói như thế. Đây cũng có lẽ là lần đầu tiên Lan có dịp đi Air Việt Nam. Đáp xuống phi trường Tuy Hoà xong, hai đứa tôi đón xe về Sông Cầu.
Đây cũng là dịp đầu tiên cho tôi được đi đường bộ vùng này, thường hải quân phải đi đường sông đường biển, nhưng mấy ai dẫn vợ đi tàu, vừa lâu vừa bất tiện. Đường miền trung lên đèo xuống vịnh, ngoằn ngoèo trong núi, mù tít trong rừng. Nhiều đoạn di chuyển thật chậm, theo toán rà mìn của lính Mỹ, lính Đại Hàn. Mệt mỏi rồi cũng đến nơi. Phòng ở độc thân của tôi thành phòng có gia đình. Cũng không sao, kéo thêm tấm rideau cho kín đáo một chút. Bên mặt là ông Tuấn, bên trái là ông Tám, ai cũng muốn giành căn bìa, hai đứa tôi phải ở căn giữa. Lan cũng nhảy vô carré sĩ quan ăn chùa, tạo thêm đề tài cho ông Tám, ông Tuấn. Bữa ăn nào cũng vậy, ít khi kết thúc sớm.
- Rồi, bữa nay ông Hoàng chọn ngồi phía này đặng để dễ dàng ngó qua phía đầu cầu bên kia rồi.
- Ngó qua bên đó rồi sao?
- Bà này làm bộ ngây thơ nữa. Bà không biết bên đó có cái quán nước hả. Cô chủ quán coi cũng được lắm nghe, hồi bà chưa ra cổ để ý ông Hoàng dữ lắm đó.
- Không biết để ý ông Hoàng hay ông Tám đây, cái gì cũng đổ cho ông Hoàng hết chắc có ngày nồi cơm bị bể.
- Chỉ huy trưởng nói vừa vừa thôi.
- Cái bà này hiền khô, tui chịu cái tánh bà bình dân. Người đẹp phải đẹp cả thể xác lẫn tâm hồn. Tui không ưa cái thứ son phấn ỏng ẹo.

Khỏi cần giải thích tụi tôi cũng biết ông Tám muốn nói xiên nói xỏ bà Định, và  cũng có lẽ tại vì ông Định là bạn cùng khoá mà lại trên quyền. Cơm nước sẵn ngày ba bữa sáng trưa chiều, còn bữa  tối đôi khi tụi tôi phải làm lấy khi trung sĩ Ngô không ở trong trại. Gà vịt thì nuôi sẵn bên chuồng, cá cua, tôm hùm thì rộng sẵn dưới sông muốn ăn lúc nào cũng có. Đặc biệt tôm hùm, mấy đứa có nghề lặn được giao nhiệm vụ đi bắt tôm hùm cho chỉ huy trưởng. Mỗi ngày. Vậy mà lớp ăn lớp cho cũng hết. Không lần nào về Nhà Trang họp mà ông Tuấn không mang theo tôm hùm. Tôm hùm vừa cỡ ăn mới ngon, nhiều con lớn quá, "tôm biết nói" bằng bắp đùi trở lên thì bị chê, không ai thèm ăn. Trung sĩ Ngô nấu mấy món ăn kiểu Tây thì hết sẩy, có điều ai cũng phàn nàn là bánh mì Sông Cầu sao mà cứng quá, hình như chỉ làm toàn bột gạo.

Vài tuần sau ông Định tổ chức đi biển. Hải quân tổ chức đi biển thì chỉ có đi đảo hoang, bãi hoang chưa người đặt chân tới. Vậy mới thú, vậy mới thần tiên tưởng như mình là chúa đảo. Rau sống bánh tráng làm sẵn ở nhà mang theo, bia lạnh đã vô thùng đá. Mấy thằng em thì quá rành với việc đánh cá  bằng chất nổ, bởi vậy phải kiếm chỗ hoang vắng. Phải lựa bầy cá thật nhiều thật to mới làm một phát. Một trái lựu đạn MK3 là cá chết ngập mắc cá chân, cá đuôi đỏ. Xúc lên ghe vài thùng nướng liền tại chỗ, cá tươi ngọt làm sao! Lần này đi có thêm vợ chồng đại uý Be, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn pháo binh, vợ chồng ông Thân, trưởng chi quan thuế.

Tháng sau ông Định bỗng nhiên được lệnh đổi về Nha Trang. Tôi mới tới, ông Định lại đổi đi, rồi sẽ có sĩ quan thay thế, hình như ở trong hải quân không ai được ở yên một chỗ. Ông Tám lên làm chỉ huy phó, tôi làm sĩ quan đệ tam tuy nhiên công việc của tôi cũng không có gì thay đổi, tôi cũng chưa có kinh nghiệm chiến trường. Vợ chồng ông Định đi, nhường lại vợ chồng tôi căn nhà ngoài phố. Tưởng là thuê là mướn gì ai dè cũng ở không. Cư xá của quan thuế, cư xá của ông bà Thân, một dãy nhà gạch năm căn. Nhân viên quan thuế không ai thiếu chỗ ở nên cư xá được nhường cho các quân binh chủng bạn, hải quân, cảnh sát, pháo binh...ông bà Thân ở cái nhà giữa lớn như cái dinh, có sân cờ, có cổng vào hẳn hòi. Đối diện với khu quan thuế bên kia đường là nhà của ông bà đại uý Be, Lan có thêm bạn để trò chuyện, đi qua đi lại cũng gần.


Lúc này vào dạo hè, dân miền núi hay xuống miền biển nghỉ mát. Cô Bộ, em bà Be cũng từ Kontum xuống Sông Cầu thăm chị, ở chơi vài tuần trước khi nhập học. Lan lại có thêm bạn bè nữa để trò chuyện. Ngang ngang tuổi, cô Bộ và Lan thân nhau ngay. Đặc biệt hơn, sau mấy lần tiệc tùng tại nhà ông bà Be, ông Tuấn lại có cảm tình với cô Bộ. Phen này anh chàng hết dám chọc mình rồi, chọc mình mình chọc lại. Nói vậy chứ ổng là chỉ huy trưởng của một đơn vị, chuyện tình cảm lúc nào cũng kín đáo, dè dặt. Ông Tuấn không bị chọc mà ông Tám lại bị kẹt làm đề tài:
- Ông Tuấn bây giờ có nơi có chỗ rồi, giờ chỉ còn mình ông thôi, kiếm một người nào gần đây, khỏi phải đi Tuy Hoà chi cho xa...Cô bán gạo dưới chợ coi cũng được lắm đó, trung uý.
- Thôi  đi ông bà ơi, để tôi chịu khó đi xa một chút. Ở đây không được đâu, mang tiếng chết. Chỗ này nhỏ, có gì một chút thiên hạ đồn rùm beng lên, khó làm việc lắm.
- Rồi chừng nào cho ăn đám cưới đây. Lúc này thấy ông đi Tuy Hoà đều đều, đi hai ba bữa mới về.
- Đi như " đi giải độc " vậy thôi, vợ con gì, cưới hỏi gì.


Rồi cô Bộ và ông Tuấn càng lúc càng khắn khít. Nhanh thiệt. Cô Bộ muốn ông Tuấn về Kontum một lần cho biết nhà, biết gia đình. Nhưng chưa biết làm sao ngõ lời. Ngày về cũng gần, không thể bỏ lỡ dịp may. Rồi không biết ai đề nghị, cô Bộ và Lan về Kontum trước, ông Tuấn và tôi hai tuần nữa sẽ lên sau. Gặp lúc đi họp, ông Tuấn đưa cô Bộ và Lan đi Qui Nhơn ở một đêm rồi sáng hôm sau mới ra bến xe đò về Kontum. Tôi có bàn với Lan, đi như vậy em có làm cản trở tay chân người ta không. Lan bảo cô Bộ không muốn đi một mình với ông Tuấn, mà ông Tuấn cũng không muốn như vậy. Cũng được, mình có dịp đi phép về miền núi. Đến chừng đi họp về, ông Tuấn đổi ý không đi Kontum vì bận lo công vụ, nhiều kế hoạch hành quân mới của vùng vừa đưa ra, phải chuẩn bị thi hành. Sẽ có thêm sĩ quan bổ nhiệm về đây. Tôi phải đi Quy Nhơn rồi Kontum một mình để đón Lan về. Lần đầu tiên qua đèo An Khê, lần đầu tiên đi qua Pleiku, lầu tiên đến Kontum. Cũng may, ba của cô Bộ làm xếp ở văn phòng Air Việt Nam nên tôi cũng dễ tìm một chút. Cô Bộ cũng buồn, khóc, trách ông Tuấn quá chừng khi thấy tôi đến có một mình. Chẳng làm sao khác hơn. Lan và tôi được dịp đi thăm thành phố có cái nắng chang chang nhưng lạnh lạnh nầy. Còn nhớ chợ Kontum, còn nhớ dòng sông Đáp La,  còn nhớ ký túc xá Bok Kiom, và còn nhớ những làng thượng và những mồ mả có hàng rào cây tạc hình đầu người. Rồi phút chia tay cũng đến, ai muốn gửi lời thăm, lời nhắn nhủ, lời dặn dò. Hẹn rồi sẽ có ngày gặp nhau. Hẹn rồi sẽ thư từ qua lại. Chúc tụng nhau những gì thật ân cần, thật tốt đẹp...Đến Quy Nhơn thì trời cũng về chiều. Còn chuyến xe lam cuối cùng về Sông Cầu. Tôi hỏi lại cho chắc:


- Liệu có về kịp không  bác tài ?
- Kịp mà.

Không ngờ gặp chiếc xe chạy như rùa bò, chạy hoài không thấy tới đâu hết. Mặt trời chếch bóng, rồi mặt trời lặn. Vài ánh nắng chiếu thoi thóp. Không cách gì về kịp, phải chiếc xe khác thì chắc đã tới mất tiêu rồi. Hành khách đã xuống hết dọc đường, chỉ còn hai đứa tôi ngồi bó gối, chẳng biết làm gì hơn. Trời một lúc một tối thêm, xe bật đèn, chạy được một lúc thì ngừng lại cạnh cái quán cóc bên đường.
- Mời cô bác xuống xe.
- Sao vậy? Chưa tới mà.
- Không đi được nữa, đi đêm đoạn này nguy hiểm lắm. Ngủ lại đây.
- Ngủ chỗ này sao được, tụi này đâu có quen ai ở đây. Đây là đâu rồi?
- Tuy Luật Hoà.

Chưa từng nghe qua, chưa từng biết tới. Sao có chuyện này được, bác tài này ác vừa vừa thôi chứ. Tụi tôi chần chờ chưa chịu xuống, thì hắn ta tiếp luôn:
- Muốn đi theo tôi thì đi, ở đây thị tứ còn đỡ chứ theo tôi thì càng nguy hơn.
Chẳng lẽ thằng cha này là Việt Cộng nằm vùng, là giao liên thành phố cũng không chừng. Chúm được mình thì lập công to với bác và đảng rồi. Không được, tôi kéo Lan xuống xe, vào quán kêu nước  uống nghỉ trước và hỏi thăm tình hình sau. Tuy Luật Hoà, Tuy Luật Hoà là đâu? Chiếc xe lam chạy theo quốc lộ 1 một đỗi rồi quẹo về phía biển mất dạng. Gặp thằng Mỹ làm hãng thầu RMK, hắn hiểu hoàn cảnh và mời hai đứa tôi về chỗ nó ở, ngủ qua đêm. Đâu có được, cũng đâu có tin thằng Mỹ này được. Cám ơn lòng tốt của nó, tôi còn Lan, còn vợ con phải bảo vệ. Phải nhờ bà chủ quán chỉ đường vô văn phòng xã. Khỏi phải lo, chờ một chút, chờ thằng Mỹ về, đóng cửa quán rồi đi luôn.
Từ quốc lộ vô xã cũng xa, băng qua mấy nhà kho của Mỹ và một đơn vị Đại Hàn. Tại văn phòng xã anh em Nhân Dân Tự Vệ súng ống hẳn hoi,  đang tập họp để chuẩn bị phân toán đi canh, đi kích. Ai cũng từ chối khéo. Nước cùng tôi vọt miệng nói với người trưởng toán:
- Thôi, làm ơn cho tụi tui ngủ tại văn phòng xã này đi.
- Không được đâu, tôi khoá cửa và về ngay bây giờ. À, đâu để tôi dẫn chú em lại nhà thím Ba coi.
Bây giờ đi đâu cũng được, tới đâu tính tới đó, hy vọng gặp hên. Thêm một đỗi quanh quanh quẹo  quẹo trong xóm, chúng tôi đến một dãy nhà lá cất rời nhau từng cái một, nhưng cái này khít khít cái kia như thiếu đất.
- Thím Ba ơi!
- Ai đó.
- Tui đây.
Nghe tiếng người quen thím Ba mở cửa, cánh cửa bằng lá được đẩy lên trần, cửa mở như kiểu mở cửa garage. Người đàn ông phân trần hoàn cảnh thay cho hai đứa tôi. Thím Ba hiểu ý trả lời:
- Cũng được.


Ngọn đèn dầu không đủ sáng, leo loét soi mờ khắp căn nhà như có một phòng. Phòng khách có cái bàn và mấy cái ghế, phòng ngủ có cái giường phía bên kia, phòng ăn nhà bếp thì cũng có mấy ông táo nằm đó. Vậy rồi phòng khách đâu, mình ngủ ở đâu. Thím Ba chỉ cho cái ghế bố để dựa bên vách. Mới bước vào nhà là đã nghe mùi đàn bà đẻ rồi nhưng chưa dám chắc, đến lúc thấy bộ đi đứng của thím Ba như học trò lễ mới biết là mới sanh, non ngày non tháng. Tôi nhảy lại bê cái ghế bố trải ra gọn gàng như của mình. Cái ghế bố nặng quá chừng mà không thấy gì mệt nhọc. Thím Ba lấy đưa cho tôi một cái mền rồi chun vô mùng với đứa nhỏ chẳng nói tiếng nào.
- Chị muốn tắt đèn hay để đèn.
- Chú muốn tắt cũng được.
Đàn bà ở một mình, chắc thím  Ba để đèn sáng đêm, bữa nay có khách khỏi phải lo. Tôi thổi đèn, bóng đêm chợt phủ trùm, đen như mực. Mò mẫm lại ghế bố nằm, tôi tung mền đắp bít chân bít đầu cho cả hai. Tôi biết Lan muốn trách tôi tại sao không ở lại đêm ở Qui Nhơn để khỏi phải gặp cảnh trắc trở như vầy, nhưng nàng không nói được. Bây giờ phải im lặng và ngủ thôi, làm ồn ào con thím Ba thức thì lại càng không ổn. Nói vậy mà nửa đêm thức giấc hai đứa thì thào và làm đủ trò trong chăn mà chẳng thấy thằng nhỏ giật mình.

Tờ mờ sáng thức dậy, không cần đánh răng rửa mặt, cám ơn thím Ba rối rít đặng  đi về. Thím Ba cũng ừ hử ở trong mùng mà không thèm bước xuống đất. Cửa không khoá, mở lên xập xuống là hai đứa đã bước vào với thiên nhiên, không khí trong lành của buổi sáng. Cứ theo con đường duy nhất của xóm mà đi thì gặp đường cái, rồi theo đường cái ra quốc lộ 1. Bây giờ mới có dịp nhìn lại cảnh vật hai bên đường đêm rồi mình đã đi qua. Tất cả như khác lạ. Ra đến quán thì thấy mấy chiếc xe lam chạy sớm đã đậu thành hàng. Chỗ này lại là bến xe. Hai đứa nhảy lên chiếc đậu đằng trước. Bác tài chờ khoảng mười phút không thấy ai nữa thì rồ máy chạy. Không ngờ từ Luật Tuy Hoà xuống Sông Cầu đâu có xa, gặp chiếc xe chạy như gió. Về ngang duyên đoàn chưa đến tám giờ, chưa đến giờ làm việc, Lan và tôi về nhà tiếp tục ngủ. Chuyện " báo cáo tình hình Kontum" cho ông Tuấn hạ hồi phân giải, thiếu chút nữa bị thiên hạ bắt cóc rồi.

Một tháng sau chuẩn uý Tâm đổi tới đơn vị. Tâm còn trẻ, ít nói, lại không ưa hải quân, bảo là bị hải quân bạc đãi. Từ Thủ Đức chuyển sang, không được mang danh hiệu hải quân trung uý, hải quân thiếu uý như các sĩ quan xuất thân từ trường hải quân, mà gọi là chuẩn uý chiến binh. Tôi có trách nhiệm hướng dẫn và bàn giao chức vụ sĩ quan kỹ thuật và chiến tranh chính trị cho Tâm.
Tôi làm một lần phát quà lớn và dẫn Tâm đi theo. Khu phát quà nằm dưới miệt Gành Đỏ, khu nổi tiếng có nhiều Việt Cộng. Nhân viên Ban Hai cũng thừa cơ hội này đi theo để dò la tin tức. Sĩ quan có  trung uý Alexander, Tâm, và tôi, hạ sĩ quan có trung sĩ nhất Dương, phụ tá ban chiến tranh chính  trị, trung sĩ Ninh y tá, và một số thủy thủ đoàn.
Quà cáp chuyến này mang theo gấp đôi số lượng. Tất cả dồn lên chiếc "chủ lực" , loại ghe lớn của hải quân. Vừa vào vịnh đã thấy một bãi cát thật dài, rồi cát và rau muống biển xen lẫn nhau trông như một đồng cỏ xanh bao là, xa tít. Đến bìa rừng mới có tàn cây bóng mát, có lẽ vì vậy mà không ai cất nhà ngoài bãi trống này. Dương và tôi đến trụ ấp trước tiên, một ngôi nhà lá lụp xụp vừng ba phía vách để trống mặt tiền, bên trong kê một cái bàn và mấy cái ghế lỏng chỏng. Nhân viên Ban Hai mới lên đã phân tán mỏng vào xóm, hình như tụi nó đã từng ăn dầm nằm dề ở đây. Đường ngang đường dọc, hẻm hóc chằng chịt trong buội lá rừng cây. 
Dân chúng tề tựu về trụ sở ấp càng lúc càng đông. Quà tâm lý chiến cất lên xong thì ông trưởng ấp cũng chỉ thị ông "tà la", mang ống loa đi phát động khắp vùng. Ông tà la đi theo đường mòn lên xóm trên, vừa khuất dạng được một lúc thì nghe một loạt đạn nổ, tôi hỏi:
- Cái gì vậy Dương, ai nổ súng mà chưa có lệnh vậy?
- Dạ, chắc không có gì lạ đâu.
- AK nổ đó thiếu uý, không phải mấy thằng em mình đâu.
Tôi cũng chưa rõ tiếng súng AK khác với tiếng súng M16 của mình ra sao. Chưa nghe loạt thứ hai, chưa biết được, tôi bảo:
- Sao chỗ này kỳ vậy Dương. Anh kêu gọi anh em tập họp hết về đây cho tôi ngay.


 Nhìn đi nhìn lại chỉ có Dương, Ninh, và ba thủy thủ lẫn lộn trong đám dân, còn bao nhiêu đi đâu mất hết. Tôi có linh tính như đi chuyến này không yên. Hai lần trước phát quà vùng Từ Nham, Cù Mông thật là tốt đẹp. Xong việc rồi còn tiệc tùng với dân trong ấp. Còn nhớ món gỏi cá đặc biệt, những ngôi nhà xây bằng đá ong và người dân hiền lành chất phác...
Ông tà la chạy như chạy cà nhắc trở về trụ sở ấp, không phải chân mà tay, cánh tay trái ôm cánh tay phải xụi lơ, không cử động. Máu me thắm đỏ lằn vải đen, nhăn nhó:
- Du kích về nữa rồi, tôi bị bắn sẻ.
Ninh để ông tà la ngồi xuống ghế, băng bó vết thương, đạn đi giữa bắp tay trên, chắc trúng xương. Mấy thằng em nghe tiếng nổ cũng đã tự động quy tụ về, M16 lên đạn nghe lách cách. Tôi cũng rút khẩu Colt 45 lên đạn.
- Còn chuẩn uý Tâm và trung uý Mỹ đâu?
- Chưa thấy lên, chắc đang đi giữa đường.
- Dương, kêu anh em rút ra bãi thôi. Mình không rành địa thế, ở đây bất lợi.
- Thiếu uý đi trước, tôi cho tụi nó sắp xếp đồ đạc rồi tôi đi sau.

Ông tà la, Ninh, và vài ba đứa nữa theo tôi, còn phần đông ở lại với Dương. Gần đến bãi mới gặp Tâm và Alexander. Alexander thấy ông tà la bị thương, mặt mày tái dần. Hắn im lặng rút khẩu Colt 45 lên đạn sẵn rồi để vô bao trở lại. Tôi yêu cầu nó gọi trực thăng tải thương. Nó làm nhiệm vụ và cho biết trực thăng sẽ đến trong vòng hai mươi phút. Bây giờ mình phải chọn bãi đáp và bảo vệ bãi đáp. Bãi cát trống này đáp đâu chẳng được, tầm đạn Việt Cộng trong bìa rừng cũng bắn không tới. Chuyện này dễ. Ông tà la được để lên băng ca lúc nào tôi không hay, sắc mặt biến đổi, mất hết thần khí. Dương và đám nhân viên còn lại khệ nệ khiêng mấy bao bột mì, mấy bành quần áo cũ trở ra bãi. Tôi cằn nhằn:
- Bỏ cha nó trong đó cho rồi, khiêng tới khiêng lui chi cho mệt.
- Để dành cho chuyến tới thiếu uý, khỏi phải báo cáo tổn thất.

  

 Tôi kêu Dương sắp xếp nhân viên làm vòng đai phòng thủ cho bãi đáp. Hơn hai mươi phút rồi không thấy máy bay. Alexander check lại mới biết hai mươi phút nữa, tình trạng này chỉ nằm ưu tiên hai. Hai mươi phút nữa rồi cũng đến. Khói màu thả lên làm hiệu. Trực thăng lượn một Voòng rồi đáp xuống, băng ca đưa vào, bốc lên bay đi lập tức. Trong khoảnh khắc dồn dập này tôi bất thần nhìn ra biển thấy ghe duyên đoàn xuất hiện chạy ào ào vào vịnh, một chiếc, hai chiếc, năm chiếc. Rồi hình như cả hải đội của duyên đoàn. Sao có chuyện gì kỳ lạ vậy. Phút chốc đoàn chiến đỉnh vào tới nơi. Quan, lính nhảy xuống nước, súng dơ ngang đỉnh đầu lội vào, đổ bộ. Đổ bộ như trong phim The longest Day. Tôi lội ra tiếp ông Tuấn và đại uý Pine.
- Sao commandant xuống đây?
- Thì chuẩn uý Tâm báo cáo anh đang đụng Việt Cộng, đang kẹt giữa đường, tiến vô đất liền không được mà rút ra bãi cũng không xong.
 Bây giờ tôi mới để ý là không thấy chuẩn uý Tâm ở đâu hết. Không ngờ nó lội ra ghe còn lên máy báo cáo bậy bạ. Đến giờ cũng chưa thấy ló đầu ra. Tôi giận:
- Tôi đâu có ra lệnh cho nó làm cái gì đâu. Cái thằng ..này.
Tôi tường thuật mọi sự cho ông Tuấn, chuyện cũng chẳng có gì là quan trọng. Ông Tuấn cũng đã hiểu rồi, thằng Tâm đã báo cáo lại nhưng lỡ đi rồi nên xuống đây luôn. Đại uý Pine, trước khi đi lại tiếp chuyện với Alexander, rồi đến bắt tay tôi mĩm cười:
- Đây là một kinh nghiệm tốt cho thiếu uý.
Tôi mím môi gật đầu,  gật đầu.

Chuẩn uý Tâm bắt đầu đảm nhiệm chức vụ sĩ quan kỹ thuật và chiến tranh chính trị, còn tôi bắt đầu tham gia vấn đề hành quân tuần tiễu. Một vài lần kích đêm trong vịnh khi có tin tình báo cho biết Việt Cộng bè vũ khí từ biển lên núi. Đại uý Pine cũng thích đi kích với tôi, hắn lại thích trực ca khuya để nhìn starlight-scope, vũ khí mới, mới trang bị cho duyên đoàn. Chưa có lần nào tôi bắt được bè.


Phần hành quân của tôi không gì trở ngại lắm, chỉ thỉnh thoảng bỏ Lan ngủ một mình. Nhưng phần chiến tranh chính trị của Tâm thì không ổn chút nào. Chuyện gì thằng Dương cũng lên báo cáo với tôi mà coi chuẩn uý Tâm như không có. Tôi rầy hoài cũng vậy. Tôi như đứng giữa giải thích cho hai đứa biết thế nào là truyền thống, là trách nhiệm bổn phận. Và có lần tôi đề nghị với ông Tuấn cho hai đứa làm hai ngành khác nhau. Ông Tuấn nói để coi lại, rồi chần chờ cũng chưa có gì thay đổi.

Cho đến tối Thanksgiving, trong lúc ông Tuấn và đại uý Pine đi họp, ông Tám đi chơi ở Tuy Hoà, Lan và tôi trên đường vào trại vì tình hình lúc rày hơi động, không dám ngủ ngoài. Vừa bước ngang cửa câu lạc bộ hạ sĩ quan và đoàn viên thì nghe mấy tiếng súng nổ chát chúa bên trong. Tôi bảo Lan về phòng trước để tôi bước vào xem sao. Thằng Tâm bắn thằng Dương, có ba phát trúng vô người. Một vô bụng, một vô bắp đùi, và một vô bắp chân. Dễ sợ chưa. Thẳng Tâm chạy biến đâu mất, đám hạ sĩ quan nóng lòng bạn, đòi kiếm thằng Tâm trả thù. Tôi hết hồn kêu ông thượng sĩ quản đội trưởng tập họp tất cả  nhân viên ra tuốt ngoài nhà tiền chế chờ lệnh. Vợ thằng  Dương và mấy bà trong cư xá hạ sĩ quan túa ra, lớp khóc, lớp la, lớp chửi. Alexander có mặt tại đó chạy đi kêu trực thăng. 
Tôi hỏi Ninh câu chuyện đầu đuôi ra sao, Ninh trả lời:

- Tụi tôi đang nhậu thì chuẩn uý Tâm và trung uý Mỹ đến cho biết sẽ chiếu phim cho anh chị em coi. Thằng  Dương phản đối chuẩn uý Tâm nói đi chỗ khác chiếu phim, chỗ này là chỗ nhậu. Tắt đèn đổ rượu vào lổ mũi sao. Chuẩn uý Tâm bỏ đi, không ngờ một lúc sau ổng trở lại với cây Colt và bảo thằng Dương, tôi ra lệnh cho anh đi chỗ khác nhậu, chỗ này là chỗ chiếu phim. Thằng Dương đứng dậy nói, chuẩn uý muốn bắn tôi hả, rồi dang  hai tay banh ngực, nè chuẩn uý bắn tôi đi. Chuẩn uý Tâm lên đạn nói, anh bước thêm một bước nữa là tôi bắn. Thằng Dương bước tới là ổng bắn.

Tôi bước lại băng ca kéo mền coi vết thương rồi đắp lại cho Dương. Máu ra nhiều quá, Dương run rẩy thì thào:
- Tôi lạnh quá thiếu uý.
Trực thăng tới tức thì và anh em phụ đưa băng ca ra ngay. Vợ thằng Dương trao thằng nhỏ trên tay cho bà đứng kế bên, leo lên trực thăng theo chồng. Viên đạn vô bụng thấp quá, sợ trúng bọng đái, khó sống.
Tôi trở về khu sĩ quan tìm thằng  Tâm, chẳng thấy nó trong phòng. Chạy qua khu cố vấn Mỹ thấy nó trong phòng trung sĩ Mập. Tôi chưa có câu nào thuận tiện để nói. Tôi im lặng thì Tâm mở lời:
- Thiếu uý, tôi không hiểu làm sao tôi lại hành động ngu dại như vậy. Cuộc đời tôi coi như đã tàn.
Chuyện lỡ xảy ra rồi, không thể kéo lại được. Hãy nghĩ chuyện sắp đến thôi.  Hy vọng thằng Dương không sao. Mình lo trấn an tụi lính và chờ chỉ huy trưởng về mới tính được.
Tâm bỗng nhiên nhảy lại chụp cây M16 treo trên vách ôm vào lòng. Tôi vọt miệng:
- Tâm, anh làm gì vậy ?
- Tôi phải có cây súng mới được, thiếu uý. Tôi phải bảo vệ tôi. 
- Anh ở đây là an toàn rồi. Tôi không để ai hại anh đâu.
Trung sĩ Mập tiến lại từ tốn:
- Đưa nó cho tôi, làm ơn.

Tâm biết mình không thể giữ súng của người khác được, trù trừ một lúc rồi đưa súng cho thằng Mập, rồi ôm mặt khóc. Cũng may lúc đó ông Tám ở đâu bang bang về. Tôi mừng hết sức, nói cho ông biết sơ sơ câu chuyện và điều quan trọng là đám lính vẫn còn tập họp ngoài nhà tiền chế.
- Được rồi, để tôi lo.

Đêm đó ai cũng ngủ một đêm phập phồng. Sáng sớm hôm sau ông Tuấn và đại uý Pine về đơn vị. Tôi để ông Tám báo cáo hết mọi việc xảy ra. Tôi chuẩn bị đi Qui Nhơn thăm thằng Dương. Không ngờ nó còn sống, còn nói đùa với tôi vài câu. Bác sĩ giải phẩu cũng lẹ, chai nước biển vẫn còn treo, dây nhợ chằng chịt. Tôi mừng cho nó, cho gia đình vợ con nó. Tôi bảo tôi sẽ còn ra thăm nó nữa và tôi phải trở về Sông Cầu trong ngày.
Tôi lại đi thăm thằng Tâm, đang bị nhốt ở nhà giam của ban quân cảnh tư pháp. Tôi cho nó biết thằng Dương chưa chết. Nó nhắn tôi làm sao cho gia đình nó hay và biên cho tôi địa chỉ ở khu Hàng Xanh, Gia Định. Tôi hứa tôi sẽ làm điều này cho nó.

Tuần sau,  thêm một vụ làm chấn động dư luận nữa. Một nhân viên của duyên đoàn đi ngủ đêm với gái điếm, không hiểu vì tư thù hay vì Việt Cộng, bị ném lựu đạn vô phòng nổ banh xác. Đâu ngờ cái quận lỵ nhỏ nhoi này cũng có gái điếm. Rồi vợ con nó từ Sài Gòn cơm ghe bè bạn ra hốt xương chồng, khóc kể đủ điều. Ông Tuấn cũng rầu thúi  ruột. 

Hai vụ khủng hoảng liên tiếp làm tinh thần binh sĩ trong duyên đoàn xuống dốc. Đi đâu cũng thấy tụm năm tụm ba bàn tán, không ai muốn làm việc. Cái thời vàng son như đã qua, những ngày êm đềm như đã mất. Ông Tuấn có ý  định xin đổi đi chỗ khác. Nhưng tôi lại đi trước ông Tuấn, tôi có lệnh đổi về trường Cây Mai học lớp tình báo. Tôi mừng, Lan cũng mừng. Mình ra đi cũng vừa đúng lúc.
Tiệc tiễn đưa tụi tôi cũng đủ mặt bạn bè. Ai cũng chúc may mắn, thành công. Còn nhớ ông Tuấn cho tiền mua vé máy bay, ông bà Thân cho ba cái áo len, một cho Lan, một cho tôi, và một cho đứa bé trong bụng. Lan có bầu ba tháng. Ngày đi Lan và tôi còn ra Miếu Thổ Thần cúng vái giã từ, cũng như hồi tụi tôi mới tới. Cầu nguyện cho Duyên Đoàn, cho những người ở lại được bình yên.

Hai đứa đi xe đò về Nha Trang rồi mới đáp Air Việt Nam về Sài Gòn. Phải cho Lan biết Nha Trang, nơi mà hầu hết sĩ quan hải quân truyền thống đã được đào tạo. Cứ nghĩ như không còn dịp nào để trở lại miền trung. Mà thật đúng như vậy. Mấy năm trước 75 còn gặp thiếu tá Tuấn, cũng còn độc thân, đổi về làm trưởng phòng Tâm Lý Chiến ở Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Rồi nghe đâu ông đổi về làm chỉ huy trưởng "chấm" một Task-Force thuộc lực lượng trung ương, trong vùng Tuyên Nhơn, Đồng Tháp Mười. Còn gặp vợ chồng đại uý Định và ba bốn con nhỏ ở Bình Thủy, Cần Thơ trên đường thuyên chuyển về lực lượng thủy bộ, Năm Căn, Cà Mau. Còn gặp lại ông Tám, một nhóc tì và vợ mang bụng bầu ở trại Fort Chaffee, Arkansas. Có lẽ không bao giờ gặp lại thằng Tâm, cô Bộ, ông bà Be, ông bà Thân. Cũng không bao giờ gặp lại đám cố vấn Mỹ...


Cho Lan, cho tôi, sáu tháng Sông Cầu như hai mươi bốn tuần trăng mật. Tình nào đẹp cho bằng tình mới cưới...


***


- Đáng lý ra em phải gọi anh bằng chú, ba em, ông Thân như anh kể đó, bây giờ sa sút lắm rồi. Ba em phải xuống ghe đi đánh cá mà sống qua ngày.

Hoàng nhìn Nghề, trố mắt, con của ông bà Thân ? Không lẽ thằng nhóc chạy lững cững đó bây giờ lớn như vầy. Hoàng chợt nói như đang mơ:

- Phải thật em là con của  anh chị Thân không ? Ở Sông Cầu chỉ có một ông Thân quan thuế thôi.

- Ba em đó.

- Có hai đứa con, một trai một gái.

- Bốn đứa lận, hai trai hai gái. Hai đứa nữa chắc anh không biết đâu.

Chuông điện thoại bỗng  reo vang. Nghề vội vã tiếp:

- Vợ em kêu nữa rồi. Anh nói là em mới rời đây chừng năm phút. Thôi em về, dịp nào em sẽ mời anh chị lại nhà chơi. Trời, bốn giờ sáng rồi.



Nguyễn Tấn Hưng
1988





-----------------
 Nguồn: Văn
Số 71, tháng 5-1988




   




Friday, October 28, 2016

NGỌC AN




                                              Nguyễn Thị Ngọc Lan




Chuyện của em bắt đầu từ một mùa Thu nào đó rất xa xôi, mùa Thu, tôi nhớ rõ ràng, vì đó là mùa nhập học em bắt đầu vào Đệ Thất.

Tôi dạy môn Pháp Văn cho lớp em, em ngồi bàn đầu ngay cửa ra vào cho nên thỉnh thoảng tôi vẫn sai em xuống văn phòng xin thêm phấn, giặt khăn lau bảng, em có vẻ hớn hở, hãnh diện được thầy sai.
Ở bàn cuối bên - nam sinh có bốn cậu, bốn ông tướng, có vẻ phá phách nghịch ngợm nhất lớp, cho nên tôi phải ra lệnh giải tán bốn cậu lên bàn trên, ngồi xen lẫn vào bàn con gái. Có ba cậu ngượng ngập xấu hổ, nhưng có một cậu bé choắt nhất đám, nhanh nhẹn chạy về phía bàn của em, dùng cùi tay ra dấu em xích vào và ngồi vào chỗ của em. Hai người cười hớn hở với nhau và bắt đầu nói chuyện. Tưởng cho các cậu bị giam bên cạnh các cô thì sẽ hết nghịch ngợm đùa giỡn,  nhưng thấy em và cậu bạn tương đắc hớn hở nói chuyện tôi biết mình đã lầm. Một cậu nghịch ngợm và một cô hay nói, xáp lại với nhau, thế nào cũng bày trò phá phách hay rúc rích nói chuyện, chứ chả lo học hành gì đâu, nhưng lỡ rồi, thôi kệ. Tôi chỉ dọa hờ một câu: "Hễ ngồi đó mà các cậu còn nghịch nữa, tôi sẽ cho mỗi người một "góc". Cậu bạn của em hơi ngán, làm bộ nghiêm trang cúi xuống tô tô sửa sửa lên trang giấy.

Và như thế những giờ Pháp Văn trôi qua trong êm đềm thân ái, chắc em không biết được tôi yêu các em chừng nào. Thực tình từ ngày ra trường đến giờ, tôi chỉ dạy môn Pháp Văn cho các lớp đệ nhị cấp, tôi chỉ tiếp xúc với các cô cậu lớn hơn, ở lứa tuổi đó các cô cậu đã biết làm dáng, đã biết e thẹn, dầu vẫn ngây thơ thứ ngây thơ của tuổi bắt đầu lớn, không còn cái thơ dại, ngây ngô như em.
Những giờ ra chơi, tôi thích ngồi lại lớp chấm bài, để nhìn các em chơi đùa với nhau, hay trò chuyện với các em. Các em thường là các cô xúm quanh bàn tôi, dành nhau kể cho tôi nghe chuyện này chuyện nọ, có khi các cô mè nheo xin xỏ.
- Mai thầy ra bài kiểm soát dễ thôi nhe thầy!
- Từ nay thầy cho học mười chữ vocabulaire thôi nhe thầy, hai mươi chữ nhiều quá!
- Bài tập tuần trước thầy cho mỗi đứa thêm hai điểm nhe thầy.
Thấy tôi dễ dãi, có nhiều cô đề nghị táo bạo hơn:
- Từ nay thầy cho ăn quà vặt trong lớp đi thầy, thầy nghĩ coi trời mưa lâm râm vừa ăn bắp rang, cóc, xoài chùm ruột vừa học, mau tấn tới biết chừng nào.
Tôi cười, xoa đầu các cô:
- Ăn trong lớp thì không được, nhưng mỗi tuần cô cậu nào học đủ một trăm chữ vocabulaire, cuối tuần tới nhà tôi, tôi đãi ăn đủ thứ.
Các cô la ó, em phản đối mãnh liệt.
- Một trăm chữ nhiều quá, hai mươi chữ thì được, hai mươi thôi nhe thầy.
Chuông vào lớp vừa reng, tôi vừa cười vừa nói vừa bước ra khỏi lớp.
- Một trăm chữ không kèo nài thêm bớt.
Tiếng cười la ó đuổi theo tôi ra tận hành lang.

Tôi vẫn nhớ em có một loạt áo đầm giống nhau, nhưng đủ màu, kiểu áo đầm cổ vuông, một hàng nút cài từ trên xuống dưới ngay ở giữa, ở vạt áo đầm  có in những hình thù ngộ nghĩnh, củ cà rốt đội mũ thắt nơ, củ khoai tây có tay có chân kéo một chiếc xe hai bánh, trên xe có những con gấu đủ màu, những con mèo, con cáo, con chồn cầm tay nhau khiêu vũ. Hình như tôi rất ít khi thấy em đi, em thường chạy lúp xúp, hay nhảy chân sáo, làm những con chồn, con gấu, củ cà rốt củ khoai nơi tay áo cũng nhún nhảy theo bước chân em. Những khi nói chuyện với tôi hay với bạn bè, miệng em tươi như đang cười, đôi khi thích chí em cười vang làm hai lúm đồng tiền  hai bên má lún sâu. Có lần giờ ra chơi em không xúm lại trên bàn tôi nữa, mà em theo đám bạn chơi ù mọi.
Tôi không hiểu trò chơi ra sao, nhưng bất chợt nhìn ra sân thấy những cô cậu phe bên kia nhào vô ôm em, em vùng vẫy, và nguyên một dãy nút trên áo em bung ra hết, em la lên "khoan, để tao cài nút lại đã" em nhẩn nha cài từng hột nút, cậu Ngọc, bạn em, coi bộ sốt ruột vì sắp hết giờ ra chơi nên phải nhào tới phụ em cài cho xong dãy nút mấy chục hột. Cả thân thể em bày phơi ra nhưng em không một chút mắc cở,  em chưa có ngực có eo, phải rồi em còn bé quá nên chưa biết xấu hổ, em ngây thơ như một thiên thần.

Ôi tôi yêu em, yêu các em làm sao! Tôi rất ghét những người bạn đồng nghiệp của tôi đánh học trò, làm sao họ có thể nhẫn tâm làm đau một thân thể non nớt dễ thương như thế, và tôi nguyện tôi sẽ không bao giờ đánh học trò của tôi, thế mà, trời ạ! Có một lần tôi đã đánh một thước kẻ lên bàn tay múp rụp của cô học trò tôi, cô bạn của em, tên Hạnh, vì tôi đã phát cáu khi một bài văn phạm tôi giảng đến lần thứ ba mà Hạnh vẫn làm sai. Thước kẻ của tôi giáng xuống, một vết bầm dài trên lưng bàn tay bạn em nổi lên rướm máu, và tôi xót xa hối hận ngay tức khắc. Cô bạn em về chỗ thút thít khóc. Tôi buồn rầu bỏ lớp đi ra ngoài mua một gói kẹo, giờ ra chơi gọi Hạnh lên bàn cho gói kẹo, dịu dàng giảng bài một lần nữa rồi thoa dầu cho Hạnh hỏi "Thầy đánh Hạnh có đau không ?" Cô bạn em cười tươi lắc đầu " Không, con không đau".

Một thước kẻ của tôi in hằn một vết đỏ bầm lên bàn tay múp rụp của Hạnh, bạn em, chỉ làm Hạnh đau mấy phút rồi lại cười tươi với tôi, nhưng một trừng phạt của tôi đã làm em đau đớn mất mấy ngày, và em đã giận tôi mấy tuần lễ. Lần đó giờ văn phạm, tôi đang dạy về verbe avoir, tôi đọc qua rồi cả lớp đọc lại. Chỉ riêng em không chịu đọc, đầu em cúi  xuống và hai tay để dưới hộc bàn, say sưa làm một việc  gì đó. Tôi hơi giận, lớn tiếng: "An, đứng dậy đọc". Tôi chỉ vào chữ đầu tiên, em ngượng nghịu đứng yên. Cậu Ngọc bạn em vờ đưa tay che miệng nhắc. Tôi chỉ tiếp chữ khác, miệng Ngọc lại nhóp nhép. Tôi ném một cái nhìn nghiêm nghị về cậu Ngọc, Ngọc khoanh tay ngồi yên, và em cũng im luôn. Tôi lại giận dữ lớn tiếng: "Đang làm gì dưới hộc bàn đem lên tôi xem". Em ngượng ngập xấu hổ, đem lên trình tôi một cái kéo con, và một hình con gấu bông đang cắt dở từ miếng giấy nhản  hiệu của một búp len. Tôi quát lên: "Quỳ vào góc tường cho tôi, lần sau không được chơi trong giờ học".

Em quỳ xuống góc tường, và tôi chợt thấy ray rức khi nhìn thấy bờ vai em rung lên theo những dòng  nước mắt. Đến giờ chép bài, tôi cho em về chỗ. Em vẫn ngồi cúi đầu khóc. Những giọt nước mắt của em nhạt nhoà cả trang vỡ. Giờ ra chơi, cả lớp ùa ra ngoài em vẫn ngồi khóc, cậu Ngọc bạn em ngồi thẩn thờ buồn thiu sau lưng.
Tôi ân hận biết mấy, tôi muốn đến dỗ dành em quá đỗi, nhưng tôi thấy chưa tiện, nên thôi, chỉ đến trả cho em cái kéo con, và tôi giữ lại con gấu bằng giấy, làm ra vẽ như giữ một tang vật để phạt em, nhưng thực ra...tôi đã bất chợt thấy yêu con gấu bé nhỏ ấy.
Trong khi cả lớp ngồi chép bài, em ngồi khóc, và tôi ngồi ray rứt ngắm con gấu bằng giấy, con gấu màu hồng, chỉ bé bằng ngón tay cái của em, đang tươi cười ngây thơ nhìn tôi, phải rồi, tôi tưởng tượng ra câu chuyện;  Buổi sáng vào lớp cô bạn nào đó, hay cậu Ngọc bạn em không chừng, đã cho em miếng giấy nhản  hiệu có hình con gấu con, con gấu hồng bé bé xinh xinh, tươi cười nhìn em, em chợt thấy dào dạt yêu thương con gấu đến độ không dằn được chờ về tới nhà, em đã cắt con gấu ra khỏi tờ giấy ngay trong giờ học của tôi để bỏ vào  bìa quyển vở nhìn cho đã mắt. Em chỉ vì yêu con gấu quá đỗi mà tôi phạt em. Tôi cũng không biết hình phạt của tôi có nặng nề quá không mà em đã tủi hờn xấu hổ đến như thế.

Qua tuần lễ sau, tới giờ Pháp  Văn của tôi, tôi giảng bài chấm bài mà vẫn để ý nhìn em. Em ngồi yên lặng lẽ, không quay qua bên này bên kia nói cười vài câu, chồm lui bàn sau mượn cục gôm cây thước kẻ. Không rúc rích cười, không nhai nhóp nhép cây  kẹo hay hột ô mai. Em ngồi như một người lớn, và tôi bỗng thấy buồn.
Đến chiều thứ Tư lại có giờ của tôi, trời mưa dầm và em đi học trễ, em che chiếc dù đen to tướng, chắc là của ba hay của ông em. Đến giờ cả lớp làm bài tập, tôi chắp tay đi lui đi tới, đi ngang qua em, tôi lên tiếng  đùa để làm hoà. "Chà !  trong lớp mình  cụ già nào có cây dù đen đẹp quá nhỉ?" Cả lớp cười ồ, em vẫn cúi đầu viết nhất định không cười. Em giận tôi. Đến ba bốn tuần lễ sau đã thấy em cười nói lại với bạn bè nhưng nhất định không nói với tôi một câu. Giờ ra chơi em không còn lên bàn tôi chuyện vãn hay mè nheo xin cái này cái nọ. Em tránh đi ngang qua tôi, tôi không buồn nữa, mà chỉ buồn cười con bé giận dai. Và tôi nghĩ ra một kế, tôi nói với em "Này An, nhà thầy có một cây cóc, nghe nói em trèo cây giỏi lắm, chiều ghé về nhà thầy, hái dùm thầy một ít được không ?". Em trúng kế, mắt em sáng lên, mau mắn nói: " Được chứ, được chứ, chiều không có giờ học, em với thằng Ngọc ghé hái cóc dùm thầy".
Buổi trưa đi dạy về, tôi đã gặp Quế Chi, người bạn gái, vị hôn thê của tôi tới thăm. Tôi rủ Quế Chi đi ăn tiệm. Ngồi trong quán vắng bên bờ sông, Quế Chi kể tôi nghe đủ thứ chuyện. Tôi cũng kể cho nàng những buồn vui chung quanh sinh hoạt của tôi. Tôi cũng kể chuyện em và con gấu nhỏ. Tôi tưởng nàng sẽ cười ngất vì chuyện em giận dai, nhưng nàng trừng mắt nhìn tôi:"Anh ác ! Sao lại phạt con bé dữ thế, tội nghiệp nó khóc suốt cả buổi cơ à ?"
- Ừ, anh cũng thấy thương thương con bé, nên anh rủ nó tới nhà chiều nay, tính mua một con gấu bông đền cho nó.
- Phải đó, ăn xong mình đi, để em lựa cho

Buổi chiều em và cậu Ngọc bạn em đến, hai đứa đèo nhau trên một chiếc xe đạp người lớn. Quế Chi ngồi trong nhà cười rúc rích chỉ cho tôi:
- Hai đứa học trò của anh đó phải không? Anh coi thằng bé, bé choắt mà đạp chiếc xe đạp thật lớn, đạp không tròn vòng, nó đạp vào  "bi đan", chờ cho "bi đan" bên kia chạm vào chân, nó lại đạp xuống. Con bé ngồi sau sợ chân vướng vào tăm phải bỏ cả hai chân lên yên, trông ngộ quá đi thôi.
Xuống xe,  em chạy ào tới đập rầm rầm vào cửa nhà tôi vừa gọi:
- Thầy ơi! Thầy  ơi!
Tôi mở cửa, em ào vào, nhoẻn miệng cười.
- Thưa thầy, thưa ...chị.
Bạn em vào sau, lý nhí chào rồi ngồi yên lặng, tôi cũng yên lặng cười cười nhìn em và Quế Chi tíu tít nói chuyện. Quế Chi ôm đầu em, nhìn tôi.
- An đây phải không anh, còn đây Ngọc hở ?
Đây đây có quà của thầy  cho hai em đây. Quế Chi chia cho Ngọc mấy quyển truyện  Tuổi Hoa Đỏ, Tuổi Hoa Xanh và cho em con gấu bông trắng toát. Em hớp hở tròn mắt nhìn con gấu quên cả nói cám ơn. Quế Chi nói nhỏ với tôi:
- Con bé xinh ghê anh ơi! Mắt nó, coi kìa tròn vo,  đen nháy, hai má bầu bầu hai đồng tiền nho nhỏ.
Tôi đùa với em:
- Hai con gấu, một con trong nhản  hiệu búp len, một con chị Quế Chi chọn, em thích con nào nói thầy nghe coi.
Em ôm Quế Chi cười cười. Em thích chị.
Quế Chi và tôi cười vang. Tôi đùa:
- Chỉ thích chị Quế Chi thôi, không thích hai con gấu lẫn tôi phải không, thật bạc phước  cho tôi.
Nói chuyện đồng tan vui vẻ một hồi rồi em cũng không quên được cây cóc.
- Em với Ngọc đi hái cóc nha thầy.
Em ôm con gấu trắngvới bạn em ra vườn.
Quế Chi ôm tôi vòi vĩnh:
- Anh ạ! Em muốn có con, một đứa con gái xinh như bé An.
- Bộ em tưởng đẻ ra là được vậy liền hả, em phải  mang nặng đẻ đau, phải nuôi cực khổ từng ngày cả chục năm mới được một con bé  như vậy chứ bộ.

Em đã bắt đầu vui vẻ cười đùa trở lại. Trong giờ học của tôi, em cười, em nói, em chạy nhảy lăng xăng, em nhõng nhẽo với tôi đôi khi. Em và cậu bạn chuyên môn ăn quà trong lớp, và chắc hai người khoái chí lắm vì tưởng qua mặt được tôi. Có lần hai người ăn chung một trái ổi to tướng, em để trái ổi gói muối ớt dưới hộc bàn, cậu bạn em thò tay lấy trái ổi chấm muối ớt đưa lên miệng cắn một miếng, rồi đến phiên em. Hai đứa chuyền nhau trái ổi đến khi tôi gọi em lên trả bài, một hột ổi còn dính nơi miệng, tôi đưa tay gở xuống hỏi cái gì dính miệng em thế này.
Em nói dối tỉnh bơ em không biết.  Tôi cười lờ đi và rộng rãi cho điểm em.

Rồi mùa Đông đến. Mùa Đông ở đây mưa dầm dề rét mướt. Tôi thật là ái ngại mỗi lần đi dạy, bố trí bao nhiêu là áo mưa tới lớp vẫn ướt như thường. Em cũng thế, tới lớp người em ướt dầm. Môi thâm tím vì lạnh, vậy mà em vẫn hớn  hở với tôi:
- Thầy biết không, em thích mưa hoài mưa quanh năm.
- Trời ơi, mưa gió thế này mà thích cái gì.
Cậu Ngọc bạn em tố em:
- Thầy, hai rưởi vô học mà nó rủ em đi học từ mười hai giờ. Nó bắt em đi lội nước với nó.
- Mày cũng thích lội nước thí mồ, chứ bộ tao thích không thôi sao.

Chị người làm tố khổ:
- Các cô các cậu ấy phá quá thầy ạ! Ngày nào tôi cũng dọn đến mệt luôn.
Mà tụi em phá thật, tôi đã chứng kiến một lần, thay vì tập văn nghệ tụi em rủ nhau chơi trốn tìm. Một khi phải chạy đi trốn, trốn thật kỹ để khỏi bị bắt là cả một chuyện thật là "sanh tử" đối với tụi em. Mặt mày em căng thẳng, hăm hở. Em chạy ùa vô phòng tôi khi tôi đang chấm bài, em cuống quít hối:
- Thầy xích qua một bên để em chui vô dưới bua rô, không thôi tụi nó bắt em.
Không đợi tôi trả lời, em chui tọt dưới bàn viết. Tôi chưa kịp mắng thì em đã lên tiếng:
- Suỵt! Thầy im kẻo tụi nó bắt em.
Rồi một lát sau, ba bốn cô cậu lại hối hả chạy vào phòng tôi. Một cô chui vô tủ quần áo,  em leo lên giường  xốc nguyên đống  chăn mền chiếu gối phủ lên người, rồi xúi cậu kia chui xuống gầm bàn tôi trốn.
Chị người làm được dịp phân bua:
- Thầy thấy chưa, các cô cậu ấy phá quá chừng.
Tôi cười xuề xoà. Được rồi, được rồi để tôi dọn phụ với chị.

Buổi chiều Quế Chi đến và phụ tôi dọn đẹp nhà cửa. Nàng cứ cười rúc  rích khi tôi kể tội các em. Quế Chi và em có vẻ thân nhau quá đỗi. Mỗi lần nàng đến nhà tôi, hình như có hẹn  trước, một lát là thấy em đến. Nàng vừa nấu nướng vừa nghe em và tôi trò chuyện. Rồi đến phiên tôi vừa  rửa bát vừa nghe nàng và em trò chuyện hay ăn vặt cóc ổi xoài xanh.
Những ngày tháng đó tôi hạnh phúc vô cùng. Tôi không tin và không thể ngờ rằng có một ngày tôi sẽ mất, mất hết. Ngây thơ hồn nhiên của em và Quế Chi dấu yêu của tôi.

Cuối năm đó, tôi quyết định đi tu nghiệp ở ngoại quốc. Tôi nghĩ sau hai năm trở về tôi sẽ gặp lại em và Quế Chi lúc đó sẽ là vợ của tôi. Tôi sẽ có một người vợ hiền bên cạnh, một cô học trò hồn nhiên nhí nhảnh trong lớp học.
Nhưng tôi quên mất rằng thời gian là một sự tàn phá mãnh liệt nhất, nó đốt hết ngây thơ, làm tàn phai  mất lòng chung thủy.
Vì khi tôi trở về, niềm đau khốc liệt đến với tôi như một cơn lốc là tin Quế Chi đi lấy chồng. Tôi thẩn thờ đau khổ, tôi khép lòng lại và sống khắc khoải như một người thất chí.

Đến đầu niên học, tôi nhận dạy ba bốn lớp của em, bây giờ đã là Đệ Tứ. Các bạn của em đã chững chạc hơn. Các cậu hết lấc cấc nghịch ngợm. Các cô nghiêm trang thuỳ mị hẳn ra trong chiếc áo dài trắng, với nón lá, với tóc thề.
Em không còn trong lớp nữa. Nghe nói em đã vào nội trú trong một trường Dòng. Không có sự hiện diện của em, tôi thấy mất mác thêm  một chút nữa chất sống của tôi. Tôi vẫn nhìn các cô bạn của em để hình dung ra em. Có lẽ bây giờ em đã hết chạy nhảy reo vui. Những củ cà rốt củ khoai tây nơi vạt áo đầm của em chắc đã tàn phải theo ngày tháng để thế vào đó một chiếc áo dài tha thướt. Mái tóc ngắn kiểu "bum bê" của em chắc đã dài ra  liêu  trai như tóc Quế Chi. Không phải ngày xưa em vẫn nói với tôi, hồi nào lớn lên em sẽ mang toàn...áo dài lụa trắng như chị Quế Chi. Em sẽ để tóc thật dài, ngày nào em cũng gội bằng chanh với bồ kết cho tóc thơm  mát như tóc chị Quế Chi sao.

Cậu Ngọc, bạn em, có đến thăm tôi. Có cho tôi một vài tin tức về em. Tôi có dò hỏi về tình cảm của Ngọc, Ngọc tâm sự: "An giận em mấy năm nay, em không biết tại sao, nhưng có một điều em biết chắc là em yêu An ghê gớm. Không biết yêu tự lúc nào và yêu đến bao giờ. Bây giờ em không thể cặp bồ với ai được hết, hình ảnh An đầy ắp trong em."
Tôi ôm vai Ngọc thông  cảm, mắt Ngọc rưng rưng nhìn quanh căn phòng, chắc Ngọc cũng như tôi, đang lắng nghe tiếng cười rộn rã của em trong quá khứ. Trong căn phòng này, dưới gầm bàn, trong đống  chăn mền đó, trong chiếc tủ kia, hình ảnh em co quắp tròn cho khỏi bị bắt, nhưng khi đã bị bắt, em giật thót người một giây, rồi lại cười toe toét, khoe hàm răng trắng ngời, khoe hai đồng tiền duyên dáng.
Ngọc thẩn  thờ chào tôi ra về. Tôi ngồi lại trong căn phòng cũng thẩn  thờ nhớ em và Quế Chi. Hình ảnh em quá đậm nét trong lòng Ngọc, cũng như hình ảnh Quế Chi quá đậm nét trong lòng tôi, khiến hai ba năm sau đó tôi cũng không thể yêu được ai.

Cho đến một lần, tôi có một người bạn làm hiệu trưởng cho một trường nữ, nhờ tôi dạy dùm mấy giờ Pháp Văn cho một lớp Đệ Nhất, tôi miễn cưỡng nhận lời.
Giờ học đầu tiên tôi điểm danh để nhận diện từng người, đọc đến cái tên quen thuộc Nguyễn Thị Ngọc An, tôi giật mình. Em nhìn và cười bằng mắt với tôi. Tôi bồi hồi mấy giây mới đọc tiếp tên người khác.
Chờ đến giờ ra chơi, tôi đến bên em trò chuyện. Tôi hỏi em về những diễn biến, về những thay đổi từ ngày tôi ra đi. Tôi hỏi em về người này người nọ. Em dịu dàng nói chuyện với tôi, một chút bối rối, một chút e dè. Và tôi khám phá ra là  em đã thành người lớn mất rồi, em không còn nhí nhảnh hồn nhiên như ngày nào nữa. Rồi em nhỏ nhẹ hỏi thăm tôi về Quế Chi, tôi nói với em Quế Chi đã lập gia đình, sau khi tôi đi ngoại quốc. Và tôi kể cho em nghe về những gặp gỡ giữa tôi và Ngọc, người bạn của em. Em hơi đỏ mặt cúi đầu vân vê tờ giấy. Và tôi biết thêm một chút nữa, là không phải hình ảnh Ngọc hoàn toàn không có trong em, em có cho tôi biết thêm một vài điều mà tôi chưa biết là Ngọc đã đi lính và thỉnh thoảng vẫn viết thư cho em.

Những giờ học kế tiếp, không khí trong lớp đã rộn ràng hơn, có lẽ vì thầy trò đã quen biết nhau hơn. Giờ học đầu tiên hình như các cô chưa biết thầy mới ra sao nên còn ngần ngại, giờ chắc các cô đã bắt mạchđược thầy hiền, nên tha hồ giỡn phá. Nhưng cái nghịch của các cô lớp Đệ Nhất không phải là thứ nghịch ngợm như các cô lớp Đệ Thất, nên nhiều lúc cũng làm tôi "ớn lạnh". Các cô phá tôi tận tình, trong túi quần tôi, thỉnh thoảng về nhà tôi vẫn nhặt được những mãnh giấy của một cô nào đó ném đá giấu tay, viết bằng chữ in, không ký tên, đại khái như là "Yêu thầy rồi đó, đứa nào nói láo trời sập" hoặc là "Thầy đẹp trai dễ sợ, yêu cầu thầy ngày nào cũng mặc áo sport và để tóc bồng bềnh như sáng nay". Từ đó, tôi không dám mặc chiếc áo sport lần thứ hai, và dù vội vàng đến đâu trước giờ đi dạy, tôi cũng chảy đầu tém tóc lại bằng dầu cho gọn gàng, không dám để tóc bồng bềnh nữa.
Trước giờ Pháp Văn sáng thứ hai của tôi là giờ Vật Lý của cô Thanh Tịnh. Thường thường cô Thanh Tịnh đi ra khỏi lớp là tôi bước vào, cho nên thỉnh thoảng gặp nhau ở cửa lớp. Và chúng tôi thường nói chuyện với nhau dăm ba câu, là các cô cười tủm tỉm chọc ghẹo. Hôm nào không gặp cô Thanh Tịnh ở cửa, vào lớp các cô cũng có cách chọc ghẹo tôi.
- Hôm nay trông thầy u sầu quá, thôi để lần sau, hết giờ của cô, tụi em làm bộ hỏi dăm ba thắc mắc để cô ra trễ, thầy sẽ được gặp cô ở cửa lớp nghe thầy.
Khổ tôi quá, cương vị tôi là một thầy giáo, tôi không phải ngang hàng với các em để có thể đính chính hay cãi cọ với các em khi các em chọc ghẹo tôi quá đáng, nên chỉ cười khi các em phá tôi, có lần đề tài về cô Thanh Tịnh sôi nỗi quá, tôi phải làm bộ gắt lên.
- Các cô lạ quá, cô Thanh Tịnh là cô Thanh Tịnh, tôi là tôi, tại sao các cô cứ ghép bậy như thế.
- Thưa thầy không bậy đâu ạ, cô Thanh Tịnh trẻ đẹp nhất trường, thầy cũng đẹp giai nhất trường, thầy và cô là hai giáo sư độc thân duy nhất trong trường, hơn nữa tụi em bắt gặp rõ ràng, cô Thanh Tịnh cuống quít vân vê tà áo mỗi khi nói chuyện với thầy.
Cả lớp cười ồ, giọng cười em nỗi bật nhất. Em cũng phá phách lắm chứ không vừa. Thời trang của tụi em thời đó là áo dài lụa, các cô đua nhau mặc áo dài lụa, mỗi áo lụa, có một loại hoa,  loại chữ,  rồng rắn khác nhau. Và các cô thường dùng viết nguyên tử tô đậm những chữ, những hoa hoè rồng rắn nỗi trên vạt áo. Cho nên giờ ra chơi, những con rồng, chữ vạn, hoa cúc, hoa lan, xanh đen tím đỏ nơi vạt áo dài lụa trắng nhún nhẩy theo tà áo phất phơ của các em, làm tôi cứ liên tưởng đến những củ cà rốt khoai tây con gấu con chim nơi vạt áo đầm của em năm nào. Một lần trong giờ học, em bắt vạt áo của cô bạn ngồi phía trước tô đậm những con rồng nỗi, cô bạn phía sau bắt vạt áo em tô lên những chữ vạn chữ thọ. Tôi đi ngang nói nhỏ bên tai em:
- Có muốn bị quỳ nơi góc lớp không, cứ chơi trong lớp, hồi nhỏ cũng chơi, lớn rồi cũng chơi.
Em chỉ cười, nhưng giờ ra chơi, em chạy lên bàn tôi bất chợt hỏi:
 - Thầy có muốn em ca cho thầy nghe bài "Hận Đồ Bàn" không?
- Cái gì? Hận đồ bàn nào?
- Hận đồ bàn là một mối hận thiên thu, ngày xưa em chỉ cắt mỗi con gấu trong lớp mà thầy phạt em, "đau khổ xấu hổ" cả tháng, lâu quá em cũng quên. Bây giờ thầy nhắc em mới nhớ, nếu thầy không năn nỉ em, em sẽ làm thầy "đau khổ xấu hổ" cả năm.
- Cô làm gì tôi nào ?
- Mỗi chúa nhật em sẽ mạo chữ thầy viết một lá thư cho cô Thanh Tịnh, nói mời cô đến nhà thầy chơi, rồi em sẽ thông  báo giờ hẹn cho mấy đứa trong lớp, cho tụi nó phá thầy tận tình.
Tôi hơi hoảng, sợ em làm thật.
- Này, đừng có giỡn bậy.
- Em làm thật mà, vậy thầy có năn nỉ em không nào?
- Ừ, thì năn nỉ.
Em cười đắc  thắng.



                                                    ***

Tôi phải công nhận vào thời kỳ đó em thật xinh, có cả vài chục cô xinh xinh như em trong đám học trò của tôi, nhưng không hiểu sao, tôi vẫn độc đoán nghĩ rằng, cái mơn mởn xinh tươi của em là một phần nào sở hữu chủ của tôi. Như một cây hoa trong vườn hoa, tôi đã trồng, hay ai đó đã trồng từ nhỏ, nhưng tôi đã nhìn, đã ngắm, từng cành non lộc biếc từ lúc mới ươm trồng. Cho nên tôi cảm thấy cây hoa gần gũi với tôi hơn hết. Tôi vẫn kín đáo chăm sóc em, như thỉnh thoảng cho em vài cuốn sách cuốn truyện về giáo dục, tôi kèm thêm Pháp Văn cho em. Em cũng biết tôi thương và chiều em nên em cũng vòi vĩnh  tôi ghê gớm.

Có một lần, buổi sáng, trời mưa lâm râm, tôi đi dạy, và các em đi học như thường lệ. Một lúc sau trời bỗng nỗi cơn mưa gió sấm sét, rồi bão lớn cả trường được nghỉ. Nhưng phải ở lại trong trường chờ hết cơn bão, tôi từ văn phòng tính đến lớp em chuyện vãn, đến đầu cầu thang tôi đã nghe tiếng cười rúc rích của em và một cô bạn. Hình như tụi em đang rượt nhau để dành nhau một vật gì đó, em vẫn rúc rích cười chạy xuống cầu thang, đến khúc quẹo, không biết vì trượt chân hay vì chạy nhanh em không nhìn thấy nên đã đâm đầu vào người tôi, tôi đưa tay đỡ, và em nằm gọn trong tay tôi, em ngượng ngùng  mất mấy giây, nhưng tôi đã run rẩy mất mấy phút, mất hồn nguyên cả buổi chiều, cả đêm hôm đó, và cả những ngày sau, tôi vẫn tê cứng từng tế bào, từng sợi thần kinh, mỗi khi nhớ đến cái cảm giác có em nằm gọn trong vòng tay.

Từ đó tôi hơi thẩn  thờ,  và bỗng dưng mất tự  nhiên. Tôi không dám nhìn thẳng vào mặt em như trước nữa. Trong lớp học thỉnh thoảng lén nhìn em, có khi em bắt gặp, và em vội cúi đầu xuống trang vỡ, vân vê cây bút máy. Tôi không biết trong hồn em có một chút nào hình bóng của tôi không, nhưng riêng tôi, tôi đã điên lên vì em mất rồi. Không phải là một "coup  de foudre".  Có lẽ cái tình cảm của tôi đã có với em từ lâu lắm rồi, từ khi em là một con bé lớp Đệ Thất, mắt tròn má phính, miệng tươi tung tăng ca hát chạy nhảy. Tôi đã yêu em như yêu một đứa con gái nhỏ, một đứa em của tôi. Tôi đã yêu em như yêu một con chó nhỏ, một con búp bê xinh xinh.
Rồi bây giờ em lớn vụt, mơn mởn như một nụ hoa sớm, như một trái táo thơm. Và tôi vẫn là một tên độc thân, tâm hồn tôi vẫn là tâm hồn của một người con trai, và tôi đã yêu em như một người con trai yêu một người con gái, có gì lạ, đó là một chuyện rất bình thường trên thế gian phải không em, nhưng với tôi, vẫn có một cái gì ray rứt. Hình như tôi hơi thiếu tự tin, đúng thế, vì em chưa đầy mười tám tuổi, mơn mởn đào tơ, trong khi tôi đã gần bốn mươi. Hơn nữa trong hồn em đã ít nhiều có hình bóng Ngọc, người bạn trai thuở thiếu thời, biết có còn chỗ cho tôi. Mà dù có còn, cũng làm tôi đau đớn, tôi ở chung với một người khác trong ngăn tim em. Và trời ơi, khốn nạn cho tôi, tôi đã yêu người trong mộng của một cậu học trò của  mình, có gì bỉ ổi hơn  tranh giành tình yêu với học trò? Ngọc ơi! nếu em về đây, em hiện diện trước mặt tôi, cho tôi nhìn thấy Ngọc An trong mắt em, trong hồn em, tôi sẽ bóp nát tim tôi, rồi bỏ thành phố này ra đi. Nhưng em ở đâu, vời vợi xa xôi, mà Ngọc An ở đây, trước mặt tôi đi đứng nói cười e thẹn. Nàng đang đi dần, đi dần lún sâu trong tim tôi. Và một lần, một tình cờ, với tôi là một thiên thu rung động, nàng đã nằm gọn trong tay tôi, nàng đã đánh thức cả trăm ngàn tế bào đã ngủ quên trong tôi bừng dậy. Và tôi đang chết ngất trong hình ảnh nàng đây, em có biết không? Thôi Ngọc hãy tha thứ cho tôi.

Và Ngọc An, em có biết không, tôi đã bỏ lỡ bao nhiêu dịp để nói với em một câu, một câu rất đơn giản, mà tất cả mọi người đều nói với người mình yêu. Tôi đã mời em đến nhà, để trong cái không khí riêng tư đó, tôi sẽ nói với em, nhưng rồi, em đến, em tự nhiên ăn uống nói cười trong nhà tôi, em kể ngày xưa chơi trốn tìm, em cuống quít chạy vấp trúng góc bàn này, đau cả buổi, những rể cây chẳng chịt trong góc vườn kia cũng làm em té một lần, giờ vẫn còn sẹo, và em xích tới gần tôi, chỉ cho tôi coi cái sẹo mờ mờ nơi đầu gối. Tôi nín thở. Rồi em hồn nhiên co hai chân lên, ngồi thu người lại trong một góc ghế bành đọc báo, chiếc ghế bành rộng thênh thang, tôi muốn ghé ngồi vào đó cầm tay em nói với em một câu, nhưng tôi không dám.
Trời chuyển mưa, em đòi về, tôi chở em về, rồi trở về một mình dưới cơn mưa nhớ em.

Một lần nữa, tôi rủ em lên đồi Vọng Cảnh, ngọn đồi trơ trọi, có lẽ chỉ có hai sinh vật duy nhất là em với tôi,  là tôi với em, tôi nao nao trong lòng khi em níu vai tôi đòi dẫn xuống chân đồi hái hoa. Tôi chỉ muốn em ở đây, hai đứa trên đỉnh đồi này để tôi nói với em một câu mà tôi định nói, nên tôi dọa có rắn rít ở dưới nhiều lắm,  em hoảng hốt đòi về, tôi dỗ em, còn sớm mà, em coi đồng hồ thấy còn sớm thật, nên bắt tôi chở qua tu viện Thiên An.
Ở đó rải rác dăm ba cặp tình nhân tình tự dưới gốc thông,  tôi lại thấy nao nao, tôi dẫn em đi dưới từng con đường dốc nhỏ, có những tàng cây lớn che phủ hai bên, lên tới đầu dốc gió lồng lộng, gió làm vạt áo dài lụa trắng của em ôm lấy chân tôi. Em đứng gần tôi quá làm những sợi tóc dài của em bay bay, đôi khi vướng vào mắt tôi, cổ tôi. Tôi không dám bước đi, sợ tan vỡ cái giây phút phù du thiên thu, có vạt áo dài em quấn quít chân tôi, có những sợi tóc em  tình tự nơi má tôi. Nhưng rồi gió đổi hướng, tóc em, vạt áo em bay về hướng khác, bỏ chân tôi, mặt tôi bơ vơ.
Em bỏ tôi ở đó, tới trốn nắng dưới một góc thông. Em dựa vào gốc thông ngưỡng đầu lên nhìn những lá thông đang reo vui trên ngọn cây, tôi cảm thấy gốc thông có phúc hơn tôi, em bất chợt hỏi:
- Tại sao có những tiếng vì vu ở đây, tại  sao người ta gọi là thông reo thầy nhỉ.
Tôi muốn tới thật gần em, nhìn vào mắt em, cầm tay em, hay can đảm hơn ôm lấy bờ vai em nói  với em:
- Tại thông nó vui vì có em ở gần.
Nhưng tôi không dám, tôi lại giải thích cho em cụ thể, đúng như một ông giáo giảng cho học trò, là gió thổi, làm những lá thông đập vào nhau, trăm ngàn lá thông đập vào nhau tạo thành  những tiếng kêu vi vút mà người ta gọi là thông reo.

Rồi tôi  dẫn em đi bộ  tới một vườn cam,  tôi xin ông lão làm vườn một trái cam,  bóc cho em ăn. Em đứng ăn rồi bỏ tôi ở đó chạy theo những con công, con gà tây  đang uốn éo trong vườn. Coi chán em rủ tôi đi hái sim, cả đồi sim xanh xanh  xen lẫn những cánh hoa sim mong manh tím nhạt, em hái một bó ôm vào lòng, tôi ngắt một bông hoa đẹp nhất cài lên tóc em, em cười, nụ cười làm xiêu lạc cả hồn tôi. Bên kia đồi là một đám hoa dại vàng, những bông hoa vàng nhỏ ly ty  như cúc áo, em lại cười, lại ngắt hoa, lại bắt tôi cài lên tóc, em hồn nhiên hát nhỏ nhỏ.

Rằng xưa có gã từ quan...lên non tìm động hoa vàng ngủ say...thôi thì thôi...chỉ là phù vân, thôi thì thôi nhé...có ngần ấy thôi...

Tôi hát tiếp.

Nhớ xưa em chửa theo chồng...mùa xuân may áo...áo hồng đào rơi. Mùa thu em mặc áo đã trời...sang đông lại khoát lên người áo hoa...mai ta chết dưới cội đào...khóc ta...xin nhỏ lệ vào thiên thu.

Em cười hỏi tôi đố thầy bài chi.
Không hiểu sao tôi can đảm đến thế, tôi quay người đứng đối diện với em, đặt hai tay lên vai  và nhìn sâu vào mắt em nói nhẹ như gió:

Đưa em tìm động hoa vàng.

Em cười lớn tiếng, rồi kêu đói bụng bắt tôi chở đi ăn. Không biết em vô tình, hay em hiểu tình tôi nhưng cười đánh trống lãng.

Ngày tháng trôi qua, tạm gọi là êm đềm,  mỗi tuần vài lần tôi gặp em trong lớp học. Cuối tuần thỉnh thoảng tôi rủ em tới nhà kèm thêm bài vở cho em. Vì là năm thi, tôi không muốn em xao động. Tôi muốn em để hết tâm trí học hành. Sau khi thi xong, tôi sẽ nói với em, một câu, mà tôi vẫn ao ước nói.


Thế rồi  một đêm ngủ dậy cả thành phố xôn  xao, có tin đồn Đông Hà, Quảng Trị đã mất. Tôi bán tín bán nghi, đến trưa, cậu em họ không quân đến nhà tôi, vừa nói vừa la  vừa ra lệnh cho tôi:
- Đi, đi gấp!
- Đi đâu?
- Vào Sài Gòn rồi tính, những tỉnh lân cận Việt cộng chiếm hết rồi.
- Từ từ nào, để anh suy nghĩ đã.
- Suy nghĩ gì, ra xe em chở lên phi trường gấp. V.C. mà vào đây, nó giết hết, anh nhớ Tết Mậu  Thân                không?
Cậu em vừa nói vừa đẩy tôi ra xe jeep, rồi leo lên phóng vun vút. Tôi như cái máy hết biết suy nghĩ, chỉ biết làm theo lời cậu em họ. Đến chiều tôi đã thấy mình ngồi trên trực thăng với đám người lao xao, xác tôi trên mây mà hồn tôi cũng trên mây. Tôi hoảng hốt, tôi lo cho em, tôi trách mình sao không đến rủ em đi theo, rồi tôi tự an ủi mình, có rủ em cũng không đi. Đời nào em dám bỏ ngôi nhà kín cổng cao tường, có cả một đại gia đình em trong đó để đi với tôi.
Buổi chiều tôi đã có mặt ở Sài Gòn, rồi tôi xoay vù vù như cơn lốc theo với cậu em, hai hôm sau, tôi lại thấy mình lênh đênh trên một hạm đội Hải Quân.
Rồi đến đảo Goam, rồi đến Mỹ. Rồi trôi dạt từ tiểu bang  này đến tiểu bang khác. Và tôi tự nói với tôi:  Cứ coi như em là một phần đời tôi, đã chết, ở bên kia bờ đại dương.  Bây giờ tôi sống như một người nào đó mang tên tôi.

Và như thế, cuộc đời tôi trôi qua, không ồn ào vui nhộn, mà cũng không bi thảm lạnh lùng. Bình thản đến độ tôi không ngờ, tôi có thể giải thích được sự bình thản về tôi mỗi khi nghĩ tới em, là tôi nghĩ rằng em đã mất hẳn ngoài vòng  tay tôi. Từ khi cảm nhận được điều đó tôi thấy dễ chịu hơn là khi có em, nhìn em, nói cười với em, có thể dang tay là ôm trọn em vào lòng mà vẫn thấy em thật vời vợi xa xôi. Hơn nữa từ khi qua đây, một xã hội quá đầy đù về tiện nghi vật chất. Có một thứ, tôi ham muốn mà ở xứ tôi, tôi không tìm thấy đầy đủ: là sách,  tôi yêu sách ghê gớm, tôi có thể thả trôi từng ngày  từng tháng từng năm trên những trang sách mà tôi không bao giờ biết chán. Mà những rừng sách trong trăm ngàn thư viện ở đây đã nuôi tôi, nuôi hồn tôi khỏi trống trãi,  nuôi thân tôi một cách dễ dàng thoải mái. Nói đúng ra sống bằng một nghề  mà tôi thích. Đó là điều mà tôi rất bằng lòng trong cuộc sống, là dịch sách. Những cuốn truyện hay sách hay, tôi đọc say sưa từng lời từng chữ, rồi tôi say mê dịch lại.
Bất cứ một sự say mê nào cũng tìm được ít nhiều hạnh phúc trong đó. Đã có một chút hạnh phúc trong cuộc đời, tôi  cũng không cảm thấy cần thiết lắm phải có  một người đàn bà bên cạnh cuộc đời. Nên tôi không hề vận dụng  một chút năng lực của tôi để đi kiếm một người yêu, một người vợ, mà tôi thả hoang cho con tim và tình cảm, nếu một ngày nào đó con tim tôi rung lên thổn thức trước một người đàn bà, như tim tôi rung lên êm đềm khi gặp Quế Chi, rung lên rạo rực, cuồng nhiệt khi yêu em thì lúc đó tôi sẽ nghĩ đến chuyện gắn bó.

Thế rồi cũng có một ngày tim tôi rung lên trở lại. Đó là ngày tôi gặp một người con gái, nàng gõ cửa nhà tôi, tôi mở cửa, nàng reo vui ùa vào, và tim tôi  reo vui rung rung mở hội.
Người con gái đó, tôi đã yêu ba lần. Một lần cách đây gần hai mươi năm. Lúc đó tôi yêu nàng như yêu một đứa con, xinh xinh, hồn nhiên nhõng nhẽo.
Lần thứ hai cách đây gần mười năm. Tôi yêu nàng chất ngất say sưa như tình yêu của một người con trai mới lớn.
Và lần thứ ba, khi đời tôi đã xế chiều. Đó là lúc tôi gặp lại, và được hàn huyên trò chuyện, được thong dong  rong chơi với nàng những sáng hồng, trưa ấm. Những chiều, những đêm mưa, có nàng với tôi cười reo dòn dả, bên lò sưởi trong một căn nhà lạ nơi xứ người. Đó là lúc tôi yêu nàng đằm thắm nhất.

Nhưng rồi  cả ba lần yêu tôi đều mất nàng, và có một điều là hình như gần hai mươi năm trời, nàng chưa bao giờ lường được cái tình cảm tôi đã cho nàng.

Ngọc An, em có biết không, người con gái đó chính là em.













---------------------
Nguồn: VĂN, số 88
Tháng 10-1989





























Sunday, September 18, 2016

ĐÊM ÂM PHỦ



Ngô Nguyên Dũng




Dọn bàn ăn xong, Thành kéo Tân vào nhà bếp, móc túi dúi vào tay Tân vài tờ giấy bạc, nói:
- Tớ nhờ cậu dẫn hai thằng lỏi đi chơi đêm nay.
Tân gạt tay Thành ra, trợn mắt hỏi:
- Đi đâu mà cần nhiều tiền thế này, cha nội?
Thành cười hềnh hệch, giọng trơn như thoa mỡ:
- Đi chơi gái chứ còn đi đâu nữa. Tớ bận mẹ thằng cu, nếu không cũng đi theo rồi. Tội nghiệp, chúng nó mới được sổ cũi, phải cho chúng biết mùi vị ái tình xứ tư bản này chứ!
Tân phì cười, đút tiền vào túi. Thành đưa điếu cày cho Tân, mời mọc:
- Cậu làm thử một hơi cho biết!
Tân lắc đầu nguầy nguậy:
- Tôi không biết hút thuốc Lào, nhưng nếu cậu có thuốc lá, cho tôi một điếu.
Thành nhún vai, chỉ bao thuốc đặt trên bàn gần cánh cửa mở toát, điểm trên môi nụ cười đểu, hai mắt nhíu lại trêu ghẹo:
- Cậu làm như gái còn trinh không bằng. Chơi đi, hút đi, say đi, sống đi! Tớ chán cách sống chừng mực của cậu lắm rồi, giống như uống mà không say, đánh phé mà không được phép tố láng...
Tân chen vào:
- ... phùa giữa chừng chợt nghe máy điện thoại reo!
Thành vỗ "bốp" vào vai Tân, tán đồng:
- Đúng, đúng đấy.

Nói xong, anh mở hộp diêm, xoè lửa cho Tân châm điếu thuốc. Gió đêm mang hương tường vi rót đầy căn bếp hẹp. Đêm hè tô màu xanh lên khung trời phía sau toà cao ốc đối diện. Tân thấy lấp lánh những chấm sao rời rạc. Nhìn những khung kính sáng đèn ở gần và những vì sao lẻ bạn ở xa, tâm hồn anh chợt mọc lên niềm khát khao kỳ lạ. Một niềm vui chưa định nghĩa được, một mất mát không nguyên do hay một ước vọng thầm kín nào ẩn dấu bấy lâu tận đáy lòng mà Tân không biết. Anh phà khói vào khung cửa mở ra ngoài đêm mênh mông, hỏi khẽ:
- Thắng và Cường là bà con như thế nào với cậu?
- Thắng là em chú bác, Cường là bạn của Thắng. Bố của Thắng là một người đa tài, vẽ tranh, viết văn, làm thơ. Ông ta chỉ có cái tội...
Thành ngập ngừng. Tân hỏi tới:
- Tội gì?
- Tội không theo đảng.

Xong, Thành thở "khì" như vừa trút gánh nặng. Hơi thở anh đẫm mùi thuốc lào, nồng và khét. Chờ một lát như để cho Tân cân nhắc trọng lượng của lời nói, Thành cất tiếng chậm rãi như người làm xiếc tẩn mẫn lừ ra giữa môi từng lưỡi lam bén ngót:
- Ông ta không theo mà cũng không cần lách, ly dị với đảng tức khắc nhân vụ Nhân Văn Giai Phẩm sau khi viết một bài chống đối những quái thai do đảng sản sinh.
- Ông ta không bị gì sao ?
- Mười lăm năm tù. Ở tù ra, ông mở quán rượu và vẽ bảng hiệu cho mấy tiệm hớt tóc, sửa xe đạp. Quán rượu là nơi để ông thù tạc với giới văn nghệ miền Bắc, là cuốn rốn nối liền với văn chương. Còn cái lý tưởng ban đầu của ông dành cho đảng đã bị chính đảng hãm hiếp, bêu đầu, mổ bụng, chôn sống từ thời cải cách ruộng đất rồi. Y như một ả hát chèo sắp hết thời cậu ạ. Đêm đêm dồi phấn tô môi, lên sân khấu đóng tuồng, đến khi màn hạ, rửa mặt soi gương mới ngỡ ngàng. Rổ hoa, mắt loét, má nhăn, vú xệ. Toàn một bọn đào kép trơ trẽn.
Tân góp lời:
- Sao cậu không ví chúng nó như một bọn điếm già?
- Hay đấy! Những con điếm bị khách hàng chơi Nga, Tàu dùi hoa dập liễu, chán chê xong vất nằm phơi bụng ra đấy, bèo nhèo một đống chả đứa nào dám mó vào.
Tân cười híp mắt, cái đầu lắc lư, hai vai rung rinh. Dù đã quá quen với lối ví von tượng hình, cường điệu hoá của Thành, vậy mà mỗi lần nghe Thành bốc đồng nguyền rủa chế độ, Tân vẫn không thể nín cười.
Thành chép miệng, giấu tiếng thở dài, hừm một cái:
- Cuối năm nay, hai thằng nhóc hết hạn hợp đồng lao động, phải trở về nước.
Tân hỏi thẳng:
- Chúng nó có muốn xin tị nạn không?
Đôi mắt Thành lim dim như cặp mắt cắc kè mệt mỏi hứng cái nóng sa mạc. Anh lắc đầu nhẹ:
- Không đứa nào đề cập tới chuyện đó. Tớ cũng không hỏi, nhưng qua cách nói chuyện, tớ thấy thằng Thắng có vẻ nặng tình gia đình. Còn thằng Cường như thế nào, tớ không biết. Đôi lúc tớ đâm ra ngờ vực, vì dường như sự chọn lựa nào cũng không đúng.
Tân thêm vào:
- Đã gọi là chọn lựa thì phải chịu mất mác chứ, mà mất mác lại không có trọng lượng, dài ngắn hay sâu cạn để mình so sánh. Cậu nghĩ xem, trên đời này lúc nào cũng có ít nhất hai lý lẽ thuận nghịch để cho mình chọn một.
Thành gật gù:
- Đúng, và tớ luôn luôn tôn trọng sự quyết định của người khác. Tớ chỉ muốn...muốn...
Thành lặp bặp vài giây, cười hề hề rồi tiếp:
- ... bọn thằng Thắng, thằng Cường nếm qua mùi vị ái tình gái Tây phương, để về nước nói phét với bạn bè mà không xấu hổ. Không lẽ về nhà chỉ kể chuyện bị bọn cai thợ ức hiếp  và đập lộn với lũ "phủi" kỳ thị người da màu sao?. Tối nay tớ nhờ cậu làm chị vú  hướng dẫn hai thằng em tới khu đèn màu xả láng một phen.
- Cậu yên chí. Tôi đã từng đi thông dịch cho đồng hương tại toà án, toà hành chánh, ty cảnh sát...lần này lại thêm một kinh nghiệm cho đời thêm thú vị.
- Ừ, sống đi, yêu đi, ăn tục nói phét đi!
Thành lặp lại câu nói khi nãy, mặt vênh váo như vừa nghiệm ra một triết lý mới. Tân dụi điếu thuốc vào đĩa gạt tàn, đứng lên.



Tối thứ bảy, đường phố loáng ánh đèn ngược xuôi. Xa lộ chuyển động như con trăn trườn  mình dưới ánh trăng soi, vẫy nhịp nhàng lấp lánh. Đã lâu rồi, Tân ít có dịp đi chơi đêm. Đúng hơn, anh không còn hứng thú nhập vào những cuộc vui thâu đêm suốt sáng. Những tối từ chỗ làm trở về nhà trọ,  Tân lặng lẽ hâm lại thức ăn nấu sẵn từ cuối tuần trước, lặng lẽ ngồi ăn trước khung kính truyền hình vặn nhỏ, lặng lẽ đọc những tờ thư nhận được trong ngày, và lặng lẽ tắt đèn, nằm nghiêng chờ giấc ngủ. Trò chơi lặng lẽ ấy dần dà nẩy mầm vi khuẩn, thành chứng bệnh mới mà Tân giễu cợt  gọi là "hội chứng lười biếng". Cơn bệnh quái ác này cứ níu chân giam Tân trong bốn bức tường nhà trọ. Người anh càng lúc càng xanh xao uể oải. Tinh thần anh càng ngày càng trì trệ hao mòn. Bộ máy đời sống chỉ làm việc cho những nhu cầu cần thiết nhất.

Im lặng một lát, Thắng mới rụt rè lên tiếng:
- Có xa đây không anh?
- Chừng hai mươi phút chạy xe. Đáng lẽ mình tới chỗ gần nhà cũng được, nhưng anh chở hai cậu đến nơi này một lần cho biết.
Giọng Cường hớn hở:
- Chỗ đặc biệt hở anh?
- Ừ, vì có nhiều gái ngoại quốc.
- Thế à? Mà em thấy bọn da đen ghê ghê thế nào ấy!
Cường kéo dài hai tiếng "ghê ghê" làm Tân bật cười. Thắng gắt:
- Đâu ai bắt mày chọn gái da đen. Tao chỉ yêu nhất người mình, thon gọn vừa tầm. Cái gì ở đây cũng to, cũng nhiều, cũng thển thộn đến phát sợ.
Cường tán đồng:
- Mày nói đúng. Ngực gì mà như hai trái bưởi. Mông to như hai cái thúng. Nhưng mà thú thật, gái da trắng cũng có khối đứa xinh. Da mơn mởn như đào non. Mắt xanh lẳng lơ như mèo cái. Tóc vàng óng  mướt như tài tử đóng phim. Em nói đúng không anh Tân?
Tân gật gù:
- Đúng, nhưng phái nữ Tây phương chỉ quyến rũ mượt mà cho tới ba mươi tuổi, sau đó là hết thời. Bọn nó chóng già hơn gái mình nhiều.
Thắng kêu lên:
- Anh Tân nói đúng hết ý.
Rồi anh se sẽ cất tiếng ngâm, giọng Bắc ẻo lả đĩ thoã:
Ra đường thiếp hãy còn son...ứ...ư...Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng...ừ.
Cường chắc lưỡi:
- Ca dao Việt Nam mình nghe sướng rên người. Quê hương bọn "phủi" làm gì có, phải không anh?
Tân gật đầu "ừ" vỗ nhịp lẹp  bẹp vào tay lái, tiếp giọng ngâm:
Ước gì anh lấy được nàng ...ứ...ư...Để anh mua gạch Bát Tràng về xây. Xây dọc rồi lại ...ứ...xây ngang. Xây hồ bán nguyệt cho nàng...ừ...rửa chân.
Thắng và Cường đồng loạt vỗ tay reo:
- Như thế mới gọi là tình.
Tân hứng chí ba hoa thêm:
- Tình cảm của người mình rộng rãi, phức tạp lắm các cậu ạ. Cũng là tình yêu đấy mà khi đã thành vợ chồng, lại khang khác vì có thêm cái nghĩa. Giữa cha mẹ và con cái, ông bà và cháu chắt, không gọi là tình yêu nữa mà là tình thương. Chữ "thương" nhiều khi nghe mặn mà, nồng nàn hơn chữ "yêu" ngàn lần, vì có sự thẹn thùng làm tăng mức độ tỏ tình. Không như bọn Tây phương, thứ tình gì cũng chỉ dùng độc nhất chữ "yêu", nếu yêu ít hơn thì phun ra chữ "thích". Lý lẽ của trái tim được định nghĩa rành rẽ tới độ trắng trợn, tàn nhẫn.
Thắng đập nhẹ vào vai Tân:
- Anh viết văn được đấy.
- Không ham. Viết văn là một nghề bạc bẽo. Không có thằng viết văn nào có hạnh phúc cả, dù đoạt mười giải thưởng văn chương đi nữa .
Cường trố mắt nhìn:
- Tại sao? Em nghe nói được giải thưởng văn chương ở đây nhiều tiền lắm mà.
Tân cười khẩy:
- Vì một lẽ rất dễ hiểu, nếu kẻ nào có một đời sống hạnh phúc, chẳng cần sờ tới giấy viết làm gì. Chúng nó bất hạnh vì mãi đi tìm chân lý của cuộc đời, của văn chương, một thứ chân lý không tưởng.
Thắng nhỏ giọng chen vào câu chuyện:
- Em nghe bố em nói, viết văn làm thơ là một cái "nghiệp", không phải chỉ muốn mà thành văn sĩ hay thi sĩ được. Ở Việt Nam mình bây giờ, muốn làm chuyện văn chương phải có đảng đứng che trước mặt và cái hội nhà văn làm bình phong sau lưng mới sống nổi. Chả có đứa nào được tự do sáng tác. Nhất nhất đều có chỉ thị, có kế hoạch hẳn hoi. Rập một khuôn, y một kiểu như trong tuồng Tàu anh ạ. Ông thiện và ông ác, ông nóng và ông tĩnh được vẽ mặt định tính trước. Đứa nào gàn bướng múa bút hả? Cho đi chỗ khác chơi. Tù ra, chỉ còn cách về quê chăn vịt hay mở quán bán rượu, hèn mọn như thế cho đến chết.

Cuộc đối thoại đột ngột ngỡ ngàng đông cứng. Mỗi câu nói của Thắng là mỗi giọt cường toan rơi xuống chăn nệm êm ả của đời sống Tây phương, cháy xém từng mảng tả tơi. Câu chuyện ngưng lắng một đỗi. Tân mới nhỏ nhẹ cất tiếng:
-  Nghe anh Thành kể lại, bố của Thắng đang hành nghề bán rượu và kẻ bảng hiệu, đúng không?
Giọng Thắng sắc như dao cạo:
- Bố em là văn sĩ kiêm họa sĩ, còn bán rượu và kẻ bảng hiệu  chỉ là sở thích.
- Khác nhau chỗ nào?
- Cái đam mê nuôi cái đầu và trái tim, còn sở thích làm đầy cái bụng đói.
Cường lập lại vỏn vẹn một chữ "đói", âm thanh rơi vào không gian dịu mát, lùng bùng vô vọng như đồng xu ném xuống đại dương sâu mù.
- Cũng vì đói mà thế hệ chúng em mất nhân cách. Nguyên cả nước đi làm đĩ chỉ vì cái bao tử lép. Bọn nhà văn đánh đĩ bằng ngòi bút. Các đảng viên, lớn cũng như bé, đánh đĩ bằng lương tri. Con gái lớn lên, vô công rỗi nghề, đi bán trôn nuôi miệng. Còn bọn công nhân xuất khẩu chúng em sang Đông Âu bán dâm sức lao động cho các đàn anh vĩ đại. Cuộc đời làm thuê ở tạm ê chề, nhục nhã lắm anh ơi, nhưng ít ra cũng còn có chút tiền gửi về nhà và dành dụm làm vốn sau này khi hồi hương.
Thắng nỉ non kể lể, thất vọng nhiều hơn là kết tội. Cường ngồi như hoá gỗ, ngậm tăm một lúc mới chìa bao thuốc ra phía sau cho Thắng.
- Này hút đi cho bớt lắm lời.
Rồi quay sang Tân, Cường hỏi:
- Em châm cho anh một điếu nhé!
Tân lắc đầu:
- Không, cám ơn. Tôi hút nhờ khói thuốc của hai cậu đủ rồi.
Cường bật lửa châm điếu thuốc, rít một hơi căng ngực, phì phà nhả khói vào lòng xe chật. Tân kéo hé cửa cho thoáng. Tiếng động bên ngoài rậm rật theo vào như ám ảnh nào đuổi cuồng sau lưng. Cuộc nội chiến bầm dập trong quá khứ. Mối xung đột vô nghĩa chỉ vì hai ý thức hệ ngoại nhập. Và mới đây là cái chết đột ngột của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Âu. Sụp đổ như những tham vọng xếp bằng con cờ Domino. Cháy nát như ngôi nhà giấy.


Tân bẻ tay lái, rẽ theo hướng chỉ vào trung tâm thành phố, thấp giọng:
- Khu đèn màu ở đây thường ở sau nhà ga. Tại các thành phố ven biển thì nằm gần bến tàu. Không giống như bên mình, làm điếm ở đây là một nghề chính thức, có đăng ký và đóng thuế thất nghiệp cũng như hưu trí đàng hoàng. Mỗi tháng đều được bác sĩ khám bệnh kỹ càng.
Cường chặc lưỡi:
- Hay nhỉ!
Tân cười khẩy:
- Hay thật đấy. Có như vậy mới tránh được tệ đoan đứng đường và ma cô, cũng như ngăn được các chứng bệnh truyền nhiễm. Mà có ngăn được hoàn toàn đâu. Xem kìa!
Tân giơ tay chỉ vào mấy bóng đàn bà nhấp nhô tối sáng ven đường. Anh giảm tốc độ. Một khuôn mặt tô son trát phấn trồi ra vũng  đèn yếu, nhoẻn cười nhìn vào lòng xe. Ngực và mông ưỡn ẹo. Chân và gót giày uốn éo. Tóc vàng và da trắng hổn hển. Tân đạp ga chạy thẳng, bỏ người đàn bà ngỡ ngàng đứng giơ hai tay lên trời trong kính chiếu hậu.
Thắng nói khẽ:
- Chúng nó bạo quá hở anh ?
- Hoàn cảnh bọn này đáng thương hơn lũ điếm có đăng ký trong khu đèn màu nhiều. Phần đông vì số mệnh đưa đẩy sa vào cái nghề tồi tệ này.
Cường chợt hỏi:
- Sao anh Tân biết nhiều về bọn nó thế?
- Các cậu nghi tôi nói phét chứ gì? Không đâu, mấy điều vừa kể do tôi xem trên truyền hình và đọc sách báo... Tới rồi, bên kia đường.

Tân tắt máy, mở cửa bước xuống, vươn vai vài cái. Cả bọn lúp xúp băng qua lòng đường trống như ba con mèo hoang. Lần nào bước qua hàng rào sắt có treo tấm bảng "Người vị thành niên, cấm vào", tim Tân đều đập mạnh. Cả nhịp tim của Thắng và Cường cũng đóng mở rối loạn. Trước mặt họ, sau hàng song sắt, hiện ra một thế giới khác. Một quãng đường chênh vênh đèn màu. Hàng hiên hai bên chia ngăn lót kính, tù mù bên trong là những khối thịt hớ hênh đứng ngồi gần như bất động. Tân có cảm tưởng  đang ngắm những căn phòng búp bê, mà anh, Thắng và Cường là những kẻ đi tìm mua những hạnh phúc giả hiệu.
Cường thầm thì:
- Trông giống chợ buôn nô lệ thời trung cổ quá anh ạ!
Thắng cười rù rì:
- Mấy con lợn này to phát khiếp. Mà đùi chúng nó trông ngon lành như một khúc giò lụa.
Cường rên rỉ:
 - Tao đang bủn rủn tay chân đây mà mày nhắc tới món ăn, rõ khỉ!
Thắng vẫn lải nhải:
- Ai nói với mày? Anh Tân ơi, em ngắm chúng nó mà liên tưởng tới hàng bán thịt lợn. Thịt mông, thịt đùi, thịt bụng, đều có đủ. Không giống như hiệu thực phẩm quốc doanh bên nhà, trống hốc trơ trẽn  với những khuôn mặt công nhân viên khó đăm đăm như táo bón lâu ngày.
Cường ngắt lời Thắng:
- Con  bé này xinh ra phết.
Tân đề nghị:
- Tụi mình lượn một vòng, xem hết mặt hàng rồi quyết định sau, nhé!
Cường nhanh miệng "phải đấy phải đấy", trong khi Thắng lặng thinh như hến. Cả ba chắp tay sau lưng, nhàn tản dạo một lượt qua các ô kính đựng đầy màu sắc. Tân thấy mình như đang lạc vào cảnh giới không có những tranh chấp quyền lực và những tham vọng thường tình của con người. Anh để ý ngắm những người đàn ông khác. Nét mặt họ thư thái gần như mất cảm tính. Dáng đi sẽ sàng như sợ, chỉ một bước chân sai, sẽ làm kinh động ảo tưởng hạnh phúc cận kề trong tầm tay. Lời hối thúc của Thành lại vang vọng trong trí Tân: "Sống đi, chơi đi, say đi, buông thả đi!" Tân rủa thầm: "Mẹ họ, chỉ giỏi cái miệng, còn mình thì suốt ngày ru rú ở nhà bám đáy quần vợ!"
Cường xô nhẹ vai Tân, thầm thì:
- Anh Tân, em chọn con bé này!
Tân "hử"  một tiếng, nhếch mắt ngắm. "Con bé" là một thiếu phụ trẻ, tóc vàng, trang điểm đậm, mặc trên người vỏn vẹn bộ áo lót lụa xám, vớ thưa dài tới giữa đùi, dây nhợ móc chằng  chịt vào nịt bụng. Tân nhún vai:
- Được đấy. Còn Thắng chọn ai?
Thắng bối rối ra mặt, lắp bắp:
 - Em...em...chưa biết.
Cường đề nghị xỏ lá:
- Thôi mày chọn con bé ngồi bên cạnh để anh Tân ngã giá một lượt cho tiện.
- Nó có hơi béo không ?
Con bé ngồi bên cạnh hơi béo thật, nhưng có khuôn mặt xinh và mái tóc nhuộm đen ửng màu đèn xanh bóng như vỏ con cánh cam.
Cường giục:
- Nếu mày thích đứa khác thì bảo anh Tân biết, phần tao xem như xong.
Thắng rùn  vai rụt cổ:
  - Tao thấy đứa nào cũng thế thôi... Ừ, chịu đấy!
Tân gằn giọng:
- Dứt khoát chưa ?
Hai cái miệng đồng thanh:
- Nhất trí.

Tân tủm tỉm tới gõ lên khung kính. Con bé tóc vàng đẩy hé cửa, nhếch môi hỏi:
 - Tao có thể giúp mày chuyện gì?
Tự nhiên Tân mất bình tĩnh, anh trơ mắt nhìn trân tráo một hồi lâu mới thốt nên lời:
- Tao hỏi giùm cho hai người bạn. Bao nhiêu?
Con bé cho giá, không quên kèm theo câu:  "...với bọc cao su."
Tân mắng thầm Thành, đồ đểu, đưa thiếu hai chục bạc.
- Này, đứa trước đứa sau, không có được một lượt đâu đấy!
Tân xua tay:
- Ậy, cho mày một đứa thôi, còn thằng  kia chọn cô bạn tóc đen ngồi sau lưng mày đấy!
Tân vừa nói vừa trỏ vào con bé tóc đen. Nghe được loáng thoáng, cô ta nhổm mông bước tới vắt người qua bệ cửa, cặp mi giả kéo ghịt mí mắt, trông mơ màng như người say thuốc. Giọng cô ta đặc sệt dục cảm:
 - Chào anh bạn yêu quý!
Tân hất mặt về phía Thắng và Cường, giọng chắc nịch:
 - Để tao gọi hai thằng bạn tới nhé!
Cặp mi cong nhọc nhằn nghếch lên:
- Ủa, còn mày?
- Hôm nay tao kiêng thịt.
Hai chiếc mặt nạ ngờ nghệch nhìn Tân, lên tiếng cùng lượt:
 - Hả?
Tân không đáp, giơ tay ngoắt Thắng và Cường. Anh chia đôi món tiền Thành đưa cho hai người. Thắng dẫy nẩy, không chịu nhận. Tân gắt:
 - Làm gì cứ như cắm cọc vào bãi cứt trâu vậy? Của anh Thành đãi hai cậu. Vào là đưa tiền ngay, không thôi nó đạp ra cửa. Cứ thong thả, anh đợi ngoài này.
Vừa lúc cánh cửa hông xệch mở. Tân nhìn theo bộ mặt "khẩn trương" của Thắng và đực thộn của Cường, giục hơi lớn tiếng:
 - Vào đi!

Rồi anh đổi giọng thì thầm khi cánh cửa khép lại: " ...chơi đi, phóng túng đi, phung phá đi, đi đi!" Anh đút tay vào túi quần, cong lưng lê chân băng qua vĩa hè bên kia đường, đứng dựa vào tường, đầu ngoặt vào nửa vùng bóng tối mái hiên đêm. Anh suy nghĩ lan man. Về một chốn nào đã bắt đầu tiều tụy trong trí nhớ. Về những bức tường đổ sụp, nhưng vẫn còn đấy vô số rào ngăn trong tư tưởng. Giữa Đông và Tây. Giữa Nam với Bắc. Giữa thịnh mãn và nghèo khốn. Qua kẽ mắt hé và tâm tư hỗn tạp, Tân nhận ra cảnh tượng chung quanh bập bềnh, vụn vỡ màu sắc như lối về âm phủ của những linh hồn tội lỗi, mà mỗi căn phòng trưng bày xác thịt  là một ngục thất a tỳ. Những thân thể gợi cảm kia chỉ là mớ ảo ảnh hiện hình để trừng trị những tham vọng không đáy. Chỉ một va chạm nhẹ, thịt da kia sẽ rã tan thành hư không. Tân hét thầm, chủ nghĩa ơi, lòng sợ hãi ơi, bạo lực ơi...hãy xô ngã những bức tường luận lý đã mất ý nghĩa từ bấy lâu nay. Tiếng hét nội tâm gầm gừ  như mặt đất vừa  chấn động, nứt ra vô số vực sâu, khiến Tân rùng mình nổi gai.

 Anh mở trừng mắt khi nghe tiếng người gọi rối:
 - Ê, ê, anh bạn tới đây cho hỏi cái này!
 Con bé tóc đen đi với Thắng lúc nãy mở cửa, réo hối hả, tay vẫy như lá rung. Tân chạy sang, hấp tấp hỏi:
 - Chuyện gì vậy?
 Năm ngón tay móng nhọn  đưa lên che hờ cặp môi màu dâu Tây, thấp giọng:
- Thằng bạn của mày, nó làm sao ấy!
 - Làm sao là sao?
- Nó không chịu cởi quần ra, cứ ngồi đó hút thuốc lá.
Tân ngớ mặt, không nói nên lời.
- Tao có ra dấu bảo nó cởi quần, mà dường như nó không hiểu, nhìn tao trừng trừng như thôi miên vậy. Mày nói với nó giùm tao được không?
Tân hỏi một câu đần độn:
- Nói cái gì?
Con bé không đáp, giơ cánh tay tròn lẳng, kéo  thốc Tân tới trước, đẩy vào ngục thất a tỳ ngồm ngộp màu đèn đỏ. Cạnh chiếc giường lót nệm bọc sa-teng láng bóng. Thắng đang ngồi trong ghế da, dáng điệu vô tư  như một nhà sư, điếu thuốc kẹp trong tay, nét mặt bình thản tới độ ngu muội. Con bé trỏ nhà sư lạc đường xuống âm phủ, nói như kết tội:
 - Mày xem đó, nó ngồi như vậy hơn năm phút rồi. Mày bảo nó muốn làm thì cởi quần làm nhanh lên, tao còn tiếp đứa khác nữa chứ.
Tân tới vỗ vai Thắng, nói thẳng:
 - Nó bảo cậu tụt quần ra đấy, hiểu không?
Thắng ngước mặt, đáp tỉnh:
 - Gượm đã nào. Anh nói với nó  chờ em hút xong điếu thuốc này đã. Làm gì  mà giục giã  như ăn cướp thế này? Điếm Hà Nội  có bao giờ  như thế đâu, chúng nó tình tứ hơn nhiều.
Tân vỗ về:
 - Con béo này là điếm tư bản, không phải điếm xã hội chủ nghĩa, tình tứ để chết đói à?
- Gượm tí, thúc quá làm sao mà có hứng nỗi!
- Kỹ nghệ bán thịt lợn ở đây làm việc tính theo năng xuất, lao động nhiều lãnh nhiều, thì giờ là tiền bạc. Con này như vậy là dễ thương đấy, gặp đứa mất dạy, nó tống cậu ra cửa từ lâu rồi.
Con bé tóc đen đã bắt đầu mất kiên nhẫn, gay gắt hỏi:
 - Tụi mày nói cái gì mà lâu thế? Nếu bạn mày không chịu làm  thì mày thế cũng được!
Tân há hốc miệng, nuốt nước bọt, hai mắt trợn tròn. Thắng hỏi  nhanh như nuốt trộng  chữ:
 - Nó nói cái gì thế?
Tân ú ớ mắc nghẹn một hồi mới phun ra chữ:
 - Nó bảo...bảo...nếu cậu không muốn thì để tôi...tôi...thay thế.
- Con bé này hay nhỉ? Điếm tư bản lạ nhỉ?
Làu bàu xong, Thắng duỗi người đứng dậy, trước khi đi ra, còn vất lại một câu:
 - Anh Tân đừng kể lại cho Cường nghe nhé! Nó mà biết được, trêu em đến xấu hổ mất thôi!




Ngô Nguyên Dũng



-----------------
Nguồn : Văn, Giai phẩm xuân Nhâm Thân
Số 114-115, tháng 12-1991 và tháng 1-1992

















Friday, September 16, 2016

NHỮNG CHIM BÁO BÃO





                                                                          Nguyễn Mộng Giác




Năm ngoái, trên tạp chí Văn Học số xuân 1991, tôi có ghi nhận tình trạng sáng tác và xuất bản nhẩn nha uể oải trong sinh hoạt văn chương ở hải ngoại và thử đưa ra  một số nguyên nhân giải thích tình trạng đó. Bài viết được nhiều người trong giới cầm bút chú ý, và cũng như bất cứ đề tài nào, có người đồng ý với tôi, có người không. Một năm sau, đọc lại bài "Góp ý về một cách nhìn...", tôi vẫn giữ lại các ghi nhận và lối giải thích cũ, nhưng thấy thiếu sót nhiều điều quan trọng.
Thấy thiếu sót nhờ đọc được một số tạp chí văn chương và sách văn chương xuất bản trong nước gần đây. Sinh hoạt sáng tác và xuất bản  ở quốc nội  hiện có khá hơn ở hải ngoại không? Xin trả lời ngay: chẳng những không khá hơn, mà còn tệ hơn!

Trên tuần báo Văn Nghệ (của hội Nhà văn Việt Nam, xuất bản ở Hà Nội) số 28 ra ngày 13-7-1991, ông Thi Nguyễn viết trong mụcTin Sách:
"Trước cái biển chữ nghĩa được dịch tùm lum, những cuốn sách có giá trị thực sự, được tính đủ "Đầu vào Đầu ra" đang bị một sự cạnh tranh ghê gớm - sức mua bị giảm nghiêm trọng! Bộ ba tập "Anh em nhà Karamazôp của Dôtxtôiepski ra rải vào ba thời kỳ tiêu biểu cho sự suy giảm đó: tập 1 in 10.000 cuốn, đến tập 2 hạ xuống còn 3.000, chả nhẽ lại không ra trọn bộ nhưng tập 3 chỉ dám in 1.000. Vậy là có nhiều đọc giả chỉ mua tập 1, cùng lắm mua tập 2 rồi thôi. Giá sách đắt lên không đủ tiền mua, hay số tiền ít ỏi dành mua sách lại phải mua cuốn khác hấp dẫn hơn ? Đọc cụ Đốt nặng quá, không hấp dẫn! Thì sang lãnh vực hấp dẫn vậy! Ba tập đầu của bộ Thuỷ Hử, nhà xuất bản dám in tới 1000.000 bản vẫn bán được. Đến Hậu Thuỷ Hử chỉ dám in 7.000 cuốn mà vẫn trầy trật cả năm 1990 đến giờ." Tổng cộng ty phát hành (sách) chỉ nhận từ 30 đến 50 cuốn. Tất nhiên phải trông vào phát hành tư nhân".

Các nhà phát hành tư nhân? Trong một nước cộng sản chủ trương độc quyền chân lý, kiểm soát chặc chẻ sinh hoạt sáng tác,  nghiên cứu và xuất bản như Việt Nam hiện nay mà lại có các nhà phát hành ư? Họ là ai vậy? Cũng báo Văn Nghệ, với một giọng ngậm ngùi nhẫn nhục pha lẫn ganh tỵ mỉa mai, gọi họ là các "đầu nậu" các "lái sách".
Chỉ nửa tháng sau, ban biên tập báo Văn Nghệ dành riêng số 30 (ra ngày 27-7-1991) để đăng nhiều bài về nạn sách ế ẩm. Trong bài "Nạn loạn thư. Hay là..." Trần Nhân Ảnh làm bảng tổng kết tình hình xuất bản trong nước như sau:

"Đợt một: khoảng từ 1986 qua 1988 là sách vụ án (tức sách trinh thám), mà khởi thủy của nó là từ Lâm Đồng. Các nhà xuất bản ở trung ương thời điểm này chưa nhập cuộc; nhưng nhiều địa phương và nhất là ở các ngành có tư liệu  nhiều về các vụ án (ý nói ngành công an) đã xuất bản ào ạt.
Vụ án ư, thì đã làm sao? Ông Đốt viết "Tội ác và Hình phạt", "Anh em nhà Ca-ra-ma-dốp", rồi cả ông Lép Tôn-xtôi, Xây Pu-skin, ông Si-mơ-nông, ông Mác-két, ông Nam Cao...ông nào chả có chuyện trọng án trong tác phẩm?

Đợt hai: 1988-1990 là nạn sách dịch. Không ít những cuốn ở chính nước họ đã bị dư luận rộng rãi đào thải, căm giận bởi chính những yếu tố sa đọa của nó, thì đến ta lại thành trúng quả và ăn khách! Có cuốn dịch rồi, nay được đổi tên dịch giả, đổi cả tên sách để xuất bản lại- y như mới!

Đợt ba: chậm đôi chút, nhưng cũng có thể coi như song hành với đợt hai, là việc tái bản ào ạt không chọn lọc sách tiền chiến và sách thời Mỹ Nguỵ. Đặc biệt sách thời Mỹ Nguỵ được đổi đầu đề và cả ...phóng tác lại. Nhất là loại sách ba tình: Tình báo, Tình yêu, Tình dục. Người ta còn ghi chép lại cốt chuyện, thậm chí đối thoại ở những phim vi-đê-ô rồi chắp vá thành những "thiên tiểu thuyết mới", đến mức thành ngữ "người cầm bút" để chỉ nhà văn đã biến thành "người cầm nút" (nút bấm vi-đê-ô).

Đợt bốn: xem ra cả ba "tình" đều không mặn mà lắm nữa, "văn" không ăn thì đã có "võ"! Ấy là hàng loạt những sách võ hiệp kỳ tình, dã sử lâm ly...Đợt này bắt đầu từ khoảng 1989 và cho đến nay vẫn còn ra chiều tấp nập trên khắp các vỉa hè, quán xá... Ấy là chưa kể đến hàng trăm đầu sách bói toán, tử vi áo bí đủ loại của các bậc "Quỷ cốc tiên sinh" hiện đại...

Sau khi ta thán  nạn "loạn thư", báo Văn Nghệ trang trọng nêu lên những gương tốt. Một tủ sách (đúng ra phải gọi là nhà xuất bản) dũng cảm. Nhà xuất bản địa phương Khánh Hoà cho ra một tủ sách phê bình văn học tuyển chọn và trích dẫn các bài phê bình bình luận văn học của các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam và thế giới về từng chuyên đề, từng tác giả quan trọng, như Aragon, Molière, Schiller, Frank Kafka, Cervantes, Hemingway, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Thôi Hiệu, La Quán Trung, Homère, Sử Thi Ấn Độ, Thơ Tagore, Shakespeare, Balzac, Victor Hugo, Mỵ Châu Trọng Thuỷ, Đam San, Hồ Xuân Hương, Xuân Diệu, Huy Cận, Ca Dao, Truyện Cười, Nguyễn Đình Chiểu...

Chuyên đề và tác giả được đề cập tới có vẻ nghiêm chỉnh, thuần văn hoá, né tránh chính trị. Loại  sách đó có  bán chạy như các loại văn khác  bìa "tiêu chuẩn" có đủ "Một cậu một cô một  ô tô một nhà lầu" không ?
Hãy nghe Thuý Toàn, tác giả bài "Một tủ sách...dũng cảm " trong Văn nghệ số 30 trả lời:
"Tôi hỏi cô bán sách xem loại sách này tiêu thụ ra sao ? Ít người hỏi đến. Bán chậm lắm! Tôi được trả lời như vậy. Câu trả lời đó không đáng ngạc nhiên trong lúc này, nhưng dù sao cũng thật đáng tiếc! Có cái gì đó còn đáng buồn nữa! Có những người nhiệt tình làm ra loại sách như thế, rõ ràng là cần thiết và có ích. Số lượng chỉ 3000 bản một đầu sách. Vậy mà có cơ sẽ lại chịu số phận của không ít sách nghiêm túc khác: bán giá hạ rồi đưa vào kho đắp chiếu để ít lâu sau đem bán cân!"

Một trong những cuốn sách nghiêm túc từng bị đem bán sale trước khi chịu đắp chiếu và bán ra thị trường ve chai là bộ tuyển tập thơ văn Pasternak dày trên 1000 trang, giá chỉ 6000 đồng (trong đó có cả tiểu thuyết Bác sĩ Jivago được giải Nobel năm 1957). Các biên tập viên báo Văn Nghệ cung cấp cho chúng ta biết một vài con số: tập 3 bộ "Anh em nhà Karamazôp " in 1000 cuốn, sách nghiên cứu văn chương cổ điển  in 3000 bản bán ế. Nhà Tổng phát hành trung ương (cơ quan nhà nước trên danh nghĩa độc quyền phát hành sách báo) chỉ nhận mỗi nhan sách (loại xuất bản trong vòng kiểm soát được của chính quyền) từ 35 đến 50 cuốn.

Những con số ít ỏi này quả thực làm cho tôi vô cùng ngạc nhiên. Không kể làm chi số ấn bản 200.000, 100.000 của những "Thơ Tố Hữu", "Thơ Hồ Chí Minh", "Dưới lá cờ vẻ vang..." của  thời kỳ Đảng và nhà nước còn tóm thâu hết mọi quyền sinh sát, phải trái. Chỉ mới bốn năm trước đây thôi, cuốn tiểu thuyết "Thời xa vắng " của Lê Lựu còn in được tới 30.000 bản, nhờ đề tài truyện là những trăn trở khó khăn của người bộ đội thời hậu chiến. Bốn năm sau, cũng với đề tài đó nhưng được viết sâu hơn, bi thảm hơn, tàn bạo khốc liệt hơn, cuốn "Thân phận của tình yêu" ( vừa được giải thưởng Hội Nhà văn VN cùng với cuốn "Bến không chồng " của Dương Hướng và "Mãnh đất lắm người nhiều ma" của Nguyễn Khắc Trường) của Bảo Ninh chỉ in 2000 bản.

Theo một người cầm bút am tường sinh hoạt báo chí và xuất bản  ở Việt Nam mới đến Hoa Kỳ gần đây cho biết, thì một cuốn sách in được 2000 bản ở quốc nội được xem là ăn khách, bán chạy.

Số ấn bản ngày càng ít ỏi của sách đi ngược với số ấn bản ngày càng tăng của các loại báo đáp đúng thị hiếu bình thường của đại chúng. Cũng theo lời người bạn vừa mới tới Hoa Kỳ nói trên cho biết, thì tờ "Công an thành phố Hồ Chí Minh" nhờ chuyên khai thác các vụ án  và thủ tục xuất cảnh mà có thời in đến nửa triệu số mỗi kỳ. Các " lái báo" hiện sống như những ông hoàng đầy quyền uy ở Sài Gòn. Loại báo như "Kiến Thức Ngày Nay" ra hàng tháng mỗi kỳ in 100.000 số, và ở Sài Gòn  có đến 40 tên báo cùng thuộc loại đó, tức là một tuyển tập gồm  nhiều bài ngắn có hình ảnh hấp dẫn pha trộn một tí sex, một tí tình, một tí bạo lực, một tí chuyện lạ phương xa gợi óc tò mò, một tí mê tín dị đoan.... nghĩa là những kiến thức bình thường cho những cuộc sống bình thường. Không có những suy tưởng đau đầu hỏng kiểu, lại càng không có những lời kêu gọi, những bài hịch xuống đường...

Thuý Toàn than tình trạng đó "thật đáng tiếc", "thật đáng buồn" dù "không đáng ngạc nhiên trong lúc này". Tôi chưa biết rõ Thuý Toàn là ai, nên tạm suy diễn theo hai lối: tiếc và buồn vì cái thời Đảng độc quyền tuyên truyền không còn nữa, hoặc tiếc và buồn vì cụ Dostoievsky cụ Tagore không đủ sức cạnh tranh với La Lan, Từ Tốc. Thuý Toàn không ngạc nhiên vì biết rõ các hiện tượng đáng tiếc, đáng buồn ấy là sản phẩm tất nhiên của một xã hội bắt đầu nền kinh tế thị trường sau một thời kỳ dài thất bại, khốn cùng, và nghẹt thở  vì chính sách độc quyền kinh tế và tư tưởng.

Những hiện tượng hỗn loạn trên thị trường truyền thông ở Việt Nam chắc chắn không khác gì với các nước Đông Âu, Liên Xô, và cả Trung Quốc hiện nay. Báo chí nhà nước ở Bắc Kinh không ngớt than phiền về nạn sách báo video kích thích tình dục và bạo động cùng tiểu thuyết diễm tình từ Hongkong tràn vào Hoa lục - Cùng với công cuộc đổi mới - sản phẩm "tự do" dân Moscow được hưởng sớm sủa hơn hết là những loại  tạp chí như Playboy, Penthouse, Hustler... Đó là cái giá bắt buộc phải trả của một nền kinh tế thị trường, của một nền văn minh tiêu thụ dựa trên thị hiếu đại chúng mà làm đòn bẩy phát triển kinh tế. Trên thế giới, có lẽ chỉ có Singapore là quốc gia duy nhất vừa áp dụng chính sách tự do kinh doanh, vừa áp dụng chính sách kiểm soát văn hoá, cố duy trì một thứ luân lý Khổng Mạnh trong một xã hội kỹ nghệ hoá - nhưng liệu Lý Quang Diệu  duy trì được tình trạng ấy được bao lâu ?

Còn ở các nước kỹ nghệ hoá khác, hễ chấp nhận kinh tế thị trường thì đồng thời phải chấp nhận những hậu quả khó ưa của loại sách báo phim ảnh chạy theo thị hiếu của giới tiêu thụ.

Đáng tiếc, đáng buồn? Mặc! Việt Nam không thể ở ngoài thông lệ, khi nhà nước còn độc quyền tư tưởng, kiểm soát chặc chẻ việc sáng tạo, sản xuất và phân phối văn hoá phẩm theo nhu cầu chính trị, độc quyền ban phát ân huệ cho những người ngoan ngoãn và trừng trị cô lập đàn áp những ai chống đối, thì thơ Hồ Chí Minh, thơ Tố Hữu, thơ Lê Đức Thọ, thơ Sông Hồng in vài trăm nghìn bản là chuyện tất nhiên. Quần chúng không được quyền chọn lựa, chỉ được quyền nhận sách và giả vờ ca tụng cho đẹp lòng bề trên. Nhưng khi nguồn ngoại viện chấm dứt, công khố trống rỗng, quản lý kinh tế và tài chánh tồi tệ gây thâm thũng lạm phát khủng khiếp, chế độ bao cấp phải ngưng thì những người ngoan ngoãn  phải đứng trước một lựa chọn: hoặc phải chịu nghèo đói để vừa lòng bề trên, hoặc phải chạy theo thị hiếu giới tiêu thụ.

 Thế giới chuyển biến từng ngày, chủ nghĩa Cộng Sản không còn chút hào quang nào, thần tượng giả hiệu sụp đổ - thì bề trên hết còn là kẻ đáng sợ. Ngược lại là khác. Vậy thì tại sao không chạy theo thị hiếu đám đông để sống còn trong thời buổi khó khăn này ?

Những gì giới cầm bút ở Việt Nam đang trải  qua, kẻ nô nức chộp cơ hội làm giàu, kẻ ngỡ ngàng luyến tiếc, thì giới cầm bút khắp nơi (nhất là ở các quốc gia tự do dân chủ về tư tưởng và cạnh tranh kinh tế theo luật cung cầu thị trường) đều đã từng trải  qua. Văn nghệ sĩ thay vì chỉ lo làm sao làm vừa lòng bề trên để hưởng bỗng lộc, phải diện đối diện với lương tâm của mình, diện đối diện với quần chúng thưởng ngoạn. "Sức mua"  của giới tiêu thụ là thước đo chính xác để biết người viết thỏa mãn  được yêu cầu của người đọc đến mức độ nào. Thị hiếu của đại chúng không có tốt xấu vì đó là luật đời, là dòng sống. Người xuôi theo dòng bao giờ cũng thuận chiều mát mái hơn kẻ bơi ngược dòng.

Một câu hỏi: Thế thì cái dòng sống của 68 triệu người Việt không "nuốt" nổi 1000 cuốn "Anh em nhà Karamazov" mà lại "ngốn" trọn 100.000 cuốn báo "Kiến thức ngày nay", để đắp chiếu "Bác sĩ Jivago" mà lại nâng niu sách vụ án, là cái dòng sống gì? Trong hay đục? Êm ả bình yên hay chứa đầy sóng ngầm? Nếu cứ lấy theo lẽ bình thường mà xét, thì trong một xã hội hỗn loạn, kinh tế suy sụp, đạo đức xuống dốc, trật tự tan rã như thế thì những tiếng nói của Dostoievsky, của Pasternak, hoặc những lời cảnh tỉnh can đảm của Lưu Quang Vũ, Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Bảo Ninh...phải  được 68 triệu đọc giả đón nhận nồng nhiệt - sách của họ, kịch của họ phải bán chạy như tôm tươi, phải giành giật nhau mà mua mới phải.

Tôi dò hỏi những người mới qua, được biết cả những sách tố cáo chủ nghĩa Cộng Sản, chống đối chính quyền Việt Nam cũng bị thờ ơ. Thế là thế nào? Những tuyệt phẩm của văn chương cổ điển thế giới bị thờ ơ còn hiểu được, vì nó xa vời quá, tinh hoa của nhân loại chắc chắn vẫn còn đó, không lúc này đọc thì lúc khác, chờ no đủ hơn, tâm trí thanh thản hơn ta hãy thưởng thức. Nhưng chuyện nóng hổi trước mắt là cái chủ nghĩa lỗi  thời, cái guồng máy chính quyền rệu rã bất lực trực tiếp gây ra cái nghèo cái khổ cái nhục cho ta, tại sao lại thờ ơ?

 Căn cứ theo số in, thị hiếu của đa số giới thưởng ngoạn Việt Nam  là tìm những món giải trí dễ dãi hấp dẫn chứ không tìm  những món chính trị đau đầu. Một thị hiếu của xã hội tiêu thụ trên một đất nước đang trăn trở về chính trị. Điều đó không bình thường. Điều đó chứng tỏ 68 triệu người Việt ở trong nước (kể cả những người từng một thời bị choáng ngợp vì lá cờ giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội) đang sống trong một cuộc khủng hoảng niềm tin tột độ. Họ không tin vào bất cứ điều gì nữa, họ khổ sở với những lúng túng trăn trở quá nhiều  nên quyết định buông trôi, phó mặc cho bản  năng và dòng sống bên ngoài đưa đến đâu thì đưa. Tình trạng đó chẳng những có hại cho những vận động cứu vãn Việt Nam trong hiện tại, mà còn di hại cho những vận động xây dựng tổ quốc trong tương lai. Người muốn duy trì chế độ Cộng sản than "đáng buồn, đáng tiếc" đã đành, người muốn chế độ đó tan rã để phục hồi tự do, dân chủ và thịnh vượng cho dân tộc cũng không nên mừng.

Những suy nghĩ trên đưa đến câu hỏi thứ hai: Trong tình trạng thị hiếu đám đông gặp khủng hoảng bất thường như thế, người cầm bút nên xuôi dòng hay nên lội ngược?
 Câu hỏi dễ khiến những người đang vùng vẫy cố ngoi lên khỏi dòng cuốn của đời sống khắc nghiệt tại Việt Nam nổi giận, câu hỏi của khán giả đứng an toàn trên bờ. Vâng, thì tôi xin đặt câu hỏi cho những người cầm bút nói chung, khi họ băn khoăn trước một câu hỏi cũng chung chung không kém: Viết cho ai? Biết luồn lách lúc nào cho hợp thời hợp thị hiếu thì lúc nào cũng được đám đông đón rước nồng hậu, danh vọng tiền bạc lúc nào cũng thừa mứa. Chạy theo sau đám đông thì phải an toàn, chẳng những không cô đơn mà còn đông vui náo nhiệt. Người viết theo thị hiếu của  đám đông phải có cái nhạy bén nắm bắt cho được bản năng muôn thuở của con người và ý thích trái chứng thay đổi bất thường của từng giai đoạn. Lại phải nhạy bén chộp đúng thời cơ để với tài năng, thúc đẩy thị hiếu ấy thành thời thượng, thành phong trào. Phải nhạy về thị trường như một nhà kinh doanh lão luyện. Phải có máu con buôn trong huyết quản.

Giới nghệ sĩ mẫn cảm dễ bị cảm xúc lôi cuốn, sống bằng trái tim hơn bằng đầu óc tính toán  nên ít người thành công trong lãnh vực kinh doanh này, may mắn lắm họ chỉ nhận được một phần nhỏ trong  khối lợi to tát do các tay con buôn văn nghệ chuyên nghiệp nhín cho. Vì không có óc kinh doanh nên đa số văn nghệ sĩ đành chọn con đường cô đơn hơn: viết cho mình để hy vọng những lời tâm sự riêng tư mang lại những hồi âm đồng điệu; hoặc tách ra khỏi đám đông, tách ra khỏi dòng sống, quan sát ghi nhận phê  phán nó để hy vọng trở thành "Chim báo bão". Sự lựa chọn đó là kết quả của nhiều khuyết tật: đam mê, thơ ngây, thiếu khả năng hội nhập, thiếu khả năng tác động lên cái dòng sống phức tạp trước mắt. Nói như Bertrand Russell, họ không đủ sức áp đặt quyền lực lên xã hội hiện tại như các chính trị gia, nên đặt hy vọng  quyền lực vào một môi trường ít gay go hơn là đời sống tinh thần và vị lai.

Người cầm bút làm "Chim Báo Bão" ? Chế Lan Viên là một tay phù thủy ngôn ngữ khi dùng hình ảnh đó để vuốt ve tự ái giới cầm bút, để quên đi thân phận "cỏ nội hoa hèn". Cơn bão đã tới, từ lâu, Chế Lan Viên vẫn không hề làm nhiệm vụ người dự báo thời tiết. Cho đến lúc lìa đời, ông chỉ dùng tài thơ và trí tuệ uyên bác của mình khua lên những lời báo động giả. Nhiều người cầm bút khác ở Việt Nam tuy tài  ba và kiến thức kém hơn Chế Lan Viên nhưng họ dám báo động thật. Họ đã xuôi dòng cho an thân, rồi đến một lúc nào đó, giật mình, trăn trở, họ quyết định bơi ngược, làm "Chim Báo Bão" đúng nghĩa.

Có một thời họ được đón nhận nồng nhiệt nhờ họ nói hộ cho đám đông những điều đám đông âm thầm ấp ủ trong lòng không dám nói ra. Thiên hạ đua nhau mua vé xem kịch Lưu Quang Vũ, phim Trần Văn Thuỷ, mua sách của Nguyễn Huy Thiệp, chuyền tay nhau những bản sao bài phát biểu của Dương Thu Hương. Cái thời những lời báo bão tuy còn rụt rè nhưng đã được in thành vài chục nghìn bản, diễn thành vài nghìn xuất trình diễn chiếu phim. Cái thời đó dường như đã qua, dành chỗ cho những cuốn sách tiêu chuẩn "Một cậu một cô một ô tô một nhà lầu". Giấc mơ no đủ giàu sang thay thế được những thao thức muốn xoá bỏ bất công nghèo đói để thực hiện giấc mơ thịnh vượng ?

Đỗ hết tội lỗi lên "thị hiếu" chẳng những không giải quyết được vấn đề, mà còn bất công. Thị hiếu không có tốt xấu, vì nó tự nhiên. Ngược lại, chính những người cầm bút mơ làm "Chim báo bão" phải tự nhìn lại mình, rà lại xem khả năng dự báo thời tiết đã chính xác chưa, tác phẩm của mình bị đám đông thờ ơ vì đâu?
Sẽ có người hỏi lại: Đám đông nào? Câu hỏi hợp lý! Có những đọc giả sẵn sàng bỏ tiền ra mua hàng lô sách vụ án đọc ngấu nghiến giữa hai cuộc thậm thụt làm ăn nhưng nhất định không thèm tò mò tìm biết cái ông râu rậm mắt nhìn lờ đờ điên dại trên bìa sách "Anh em nhà Karamazov" là ai - Sách của Dostoievsky không hợp khẩu vị của họ, và họ có quyền lựa chọn chứ! Họ là dân chợ trời ư? Thì đã sao! Không có dân chợ trời, không có những người cơ hội, không có những "lái" này "lái" nọ, dân Việt sẽ còn khốn khổ đến đâu  trong cái  guồng máy kinh tế tồi tệ mà  nhà nước cố nắm độc quyền. Họ có "Sứ mệnh lịch sử" của họ.

Cũng có những đọc giả gốc miền Nam (Việt Nam Cộng Hoà cũ) ôm nặng nỗi nhục nhằn bại trận, không còn tha thiết gì nữa, không còn tin ai nữa (nhất là những lời của kẻ thắng). Một người bạn của tôi năm 1989 về Sài Gòn hỏi ý kiến một bạn văn khác (còn ở lại) về tiểu thuyết những cây bút như Trần Mạnh Hảo, Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp. Người bạn đó trả lời gắt gỏng: "Việc chúng nó cấu xé nhau, mày để ý làm gì!"
"Chúng ta" , "Chúng nó"... dường như đây là vấn đề chính, là mắc mứu quan trọng, khiến ngay những người cầm bút muốn làm "Chim Báo Bão" cũng lúng túng, nghĩ nửa vời, viết nửa vời. Tôi có cảm tưởng đó khi đọc những bài thơ, những ký, những truyện ngắn truyện dài nhiều ít có tính chân thực, tính phản kháng được xuất bản ở Việt Nam mấy năm gần đây. Không ai phủ nhận được thiện chí và lòng thảnh thực của những người "báo bão" ấy. Sự  giả dối không lọt vào được  nghệ thuật. Họ muốn " giải ảo" khi phát biểu về văn nghệ "phải đạo", cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu tàn nhẫn, kể cả những bạo hành điên loạn của cuộc chiến tranh vừa qua.

Nhưng rõ ràng là họ vẫn hãnh diện là kẻ thắng, và không hề muốn nhường cho ai cái quyền của kẻ thắng. Mười sáu năm đã trôi qua từ ngày Nam Bắc trở thành một nước, nhưng thử đọc hầu hết sách văn chương được xuất bản ở Việt Nam, chúng ta thấy tâm tình của người miền Nam, đời sống của người miền Nam hoàn toàn mờ nhạt, đôi khi méo mó dị hình. Sân khấu vẫn do kẻ thắng độc quyền, dù trên đó diễn hài kịch tô hồng hay diễn bi kịch giải  ảo. Tôi có cảm tưởng những "Chim báo bão" ấy đang nghĩ: "Công nhận chúng ông sai, nhưng chỉ có chúng ông mới được quyền sửa sai. Xê ra, cho chúng ông cứu nước!"

Vì thế văn  chương "báo bão" chỉ phản ảnh được tâm trạng của những người miền Bắc, xã hội miền Bắc trong cuộc khủng hoảng niềm tin trầm trọng này - Người  bạn văn ở Sài Gòn gắt gỏng nói chuyện "chúng ta chúng nó",  vì ngay cả những bạn đồng nghiệp chịu "giải ảo" nhất cũng còn đặt ra ranh giới "chúng ta chúng nó". Văn chương phản kháng chỉ mới là vấn đề của "chúng ta, kẻ thắng trên chiến trường nhưng thất bại thảm hại trong thời bình". Còn kẻ thua trận còn sống nhan nhản  quanh đây, tuy ngày thường gặp nhau vẫn mày tao cà phê thuốc lá, nhưng chỉ là phy  diễn, hoặc  là cái bị bông để đấm khi tức giận vu vơ. Do đó mới có một quy luật bất thành văn: "Điều này chúng ông nói được, nhưng tụi bây không được phép nói". Nguyễn Huy Thiệp viết thế thì được, Doãn Quốc Sỹ viết thế thì đi tù. Phạm Thị Hoài viết thế thì được, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ viết thế là "nọc độc Mỹ Nguỵ " , Nguyễn Duy làm thơ như thế thì không sao, Tô Thuỳ Yên viết thế thì lại đi cải tạo.

Có cái gì đưa đẩy tới niềm kiêu hãnh mặc nhiên và lòng khinh thị đáng ghét đó? Tờ Văn Nghệ của Hội Nhà Văn Việt Nam vẫn còn in trang trọng hàng chữ đầu trang bìa  khẩu hiệu: "Vì tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội". Bài vở trên Văn Nghệ chứng tỏ vế sau "vì chủ nghĩa xã hội" đã gượng gạo, bất đắc dĩ lắm rồi. Còn vế đầu "vì tổ quốc" thì vẫn dõng dạc như xưa!

Bất cứ người Việt Nam nào, dù khác nhau về quá khứ, chính kiến,  giai tầng xã hội, dù hiện sống trên quê hương hay phải lưu lạc tha phương cầu thực, đều có chung một nỗi đau khi quê hương lầm than, đồng bào của mình bị đánh đập khinh bỉ nơi xứ người, đều vui mừng khi dân tộc được no ấm, hạnh phúc. Ai cũng thành thực vui buồn theo vận nước, "vì tổ quốc". Không  ai được tự xem chỉ có mình mới độc quyền yêu nước, chỉ có mình (kể cả những lầm lẫn thất bại) mới "vì tổ quốc". Khi đã  chấp nhận được  điều đơn giản ấy, thì không còn những sự thực nửa vời, những giải ảo nửa vời, những báo bão nửa  vời.
Và biết đâu được, số in mỗi tác phẩm văn chương chẳng những tăng gấp đôi, mà còn gấp mười, gấp trăm!



Nguyễn Mộng Giác






------------------------
Nguồn: Văn, Giai phẩm xuân Nhâm Thân
Số 114-115 tháng 12-1991 và tháng 1-1992