Tuesday, December 19, 2017

NGƯỜI ĐẢNG VIÊN GIÀ



Diệu Tần.


Ông về hưu với quân hàm bốn sao một gạch. Đại uý Thoả như thế nghỉ hưu đã lâu. Suốt hai mươi lăm năm trong bộ đội, ông mãn nguyện với "ve áo" đó. Là mẫu người chất phác, trong sạch, ông đã phục vụ trong ngành hậu cần, nhưng bàn tay không bị dính bẩn, ông vẫn tự hào về điều ấy. Bà vợ khen ông là hiền lành tròn trịa, không mất lòng ai. Nhưng có lúc bà chê "Hiền quá hoá đần". Nhà cửa tiện nghi đồ đạc trong nhà vẫn tềnh toàng cổ lổ. Toàn những thứ sắm từ những năm sáu mươi. Ông sống giản dị, nhiều khi quá quê mùa. Ông không bao giờ mặc quần áo may bằng sợi tổng hợp (đa-công, pô-li-ét-tơ). Ăn uống thế nào xong thôi, không uống rượu, không mê một món gì khác.
Bà Thoả là dân gốc Thái Bình, thường bị chê là dân Thái "Lọ". Năm Ất Dậu chết đói đầy đường, do tội của Phát-Xít Nhật gây ra. Theo bố mẹ anh em lây lất kéo nhau lên Hà Nội kiếm ăn, cả nhà chết dần chết mòn, lê lết đến ga Hàng Cỏ thì chỉ còn một mình cái đĩ Tũn, là bà, sống sót. Bà không nhớ và không hiểu tại sao bà còn sống được. Cho đến bây giờ bà không biết quê mình ở cái thôn xã xơ xác nào tận Thái Bình. Đến tên thật của mình, bà cũng không biết, sau năm 54, kiểm tra, bà mới làm khai sinh lại, tự đặt tên là Dậu. Ý muốn kỷ niệm cái đói năm Dậu khủng khiếp. Cái đĩ Tũn dạo đó đi lang thang cầu bơ cầu bất, đi ở cho nhà người ta, chán rồi gồng thuê gánh mướn, lưu lạc mãi lên Thái Nguyên. Ở đó cô Dậu gặp anh bố cu Thoả. Chẳng là Thoả, không có tiền nộp lệ làng, là dân đen bị khinh bỉ, buồn đời bỏ đi theo Việt Minh. Hai người gặp nhau tại chiến khu, thương cảm nhau cùng cảnh nghèo rồi nên vợ nên chồng, chả cần cheo cưới gì. Đến bây giờ các con đều chọc ông bà Thoả "không ai vô sản chuyên chính hơn bố mẹ".

Ông vô sản thật, nhưng đến khi có con lại đặt tên con theo từ Hán Việt nghe kêu lốp bốp. Thứ tự là Lễ, Tín rồi cái Trinh cái Thục. Bà không bằng lòng nhưng nể chồng, phải chịu. Cứ như bà thì nên đặt cho có tính quần chúng hơn như No, Ấm, Hiền, Lành v.v... Bà bị cái đói năm đó hành hạ, nên luôn luôn muốn được no và mong các con không bị đói.
Cả đời bà vất vả ngược xuôi. Thời kỳ ấy, không nhà không cửa, bà gánh hai cái thúng, một thúng chăn, áo và cu Lễ, thúng đầu kia là gạo, khoai, theo chồng khắp mọi mặt trận kháng chiến. Đến lúc này bà vẫn không thuộc mặt chữ và mặt số. Chỉ phân biệt đồng bạc này với đồng bạc kia bằng màu sắc, khổ giấy mà thôi. Dạo còn con gái không được đi học, khi muốn học lại bận nuôi con, nuôi chồng. Khi về già bà bảo: "Thôi tôi già rồi, học làm gì cho mệt. Các anh các chị nhớn cả rồi, chữ nghĩa giỏi giang, đọc cho tôi nghe là đủ rồi". Chữ nghĩa bà không thông, nhưng bà tính toán, thu va thu vén nhanh như cắt.

Thục hai mươi bảy, chưa chịu xây dựng với ai, cứ cười bà "Chắc con thừa kế được cái giỏi tính của mẹ". Thục đã tốt nghiệp trung học kế toán và đang làm việc trong một xí nghiệp. Lễ, Trí đã có vợ. Trinh cũng đã lấy chồng. Tất cả đã là đảng viên, trừ vợ Trí chưa vào và Thục không muốn vào. Năm đảng viên hợp với ông bố già nữa là sáu, ông "cựu trào" nhất với 38 tuổi đảng, có thể lập một chi bộ đảng ngay trong nhà với ông là ủy viên thường vụ.
Khi mới về hưu, ông sắm lưới sắm te, tong tẩy đi đánh cá. Đó là một trong những nghề cũ hồi ông còn là dân đinh hèn mạt. Vừa tìm vui vừa có cá tươi cải thiện bữa ăn cho cả nhà. Mấy năm nay, cựu đại uý nhà ta bị một bịnh quái ác là liệt nửa người, hậu quả của đời chết sống cực khổ trong bộ đội. Là người năng động, phải nằm một chỗ, ông đau đớn lắm. Ông đang hy vọng hai năm nữa, vào dịp được nhận huy hiệu 40 năm tuổi đảng, sẽ tổ chức một tiệc trà với kẹo ăn mừng. Ông đã tự nhủ dốc lòng theo đảng đến hơi thở cuối cùng. Ngã bệnh, không những không đi đánh cá được, còn phải phiền đến vợ con, ông khổ sở lắm. Thuốc thang, thầy thợ tiêu pha về ông khiến nền kinh tế trong nhà suy sụp đến phát hoảng. Đồ đạc trong nhà, đội nón theo nhau khỏi nhà mau quá. Lương hưu của ông không đủ để ông ăn bữa sáng. Đấy là hai bìa đậu phụ nóng, bác sĩ dặn phải cho ông ăn để không tăng áp huyết, tránh tai biến đột xuất cho người bệnh.

Ngày xưa, trong đơn vị, tuy không là chính trị viên, nhưng ông rất sốt sắng công tác đảng. Về hưu, rất chăm lo đóng đảng phí đúng kỳ hạn, rất mong đến kỳ sinh hoạt chi bộ đảng. Ông buồn vì phải nằm bẹp một chỗ. Nhưng lòng tin vào đảng không suy suyển mà còn tăng thêm. Niềm vui duy nhất của ông chỉ còn có bấy nhiêu thôi. Cũng như mấy bà già tin vào vía cô vía bà lên đồng lên bóng ấy mà. Trên đầu chõng ông nằm treo ảnh cụ Hồ để ông luôn được chiêm ngưỡng bác. Đấy là niềm tin, là tượng trưng cho đảng.
Dạo chưa bị bán thân bất toại, vào kỳ sinh hoạt thì mưa gió giá rét cách mấy, ông cũng đi cho kỳ được. Nằm một chỗ rồi, ông tha thiết nói với con, với dâu rể tình nguyện đề nghị chi bộ xóm chuyển địa điểm họp đến nhà, để ông được họp. Những hôm ấy, ông vui hớn hở từ sáng sớm, giục phải lau sạch bàn ghế, đun đầy mấy phích nước sôi, mua chè, thuốc lá bằng tiền hưu của ông, để sẵn đãi các bạn có đảng tịch trong xóm.

Có nhẽ nhà ông Thoả thuộc loại nghèo nhất xóm. Những nhà khác chỉ có vài người trong biên chế, còn lại họ chia người để chạy ngoài. Hàng xóm bên trái là nhà chuyên buôn bán đường dài. Buôn đủ mặt hàng thuộc diện quản lý của nhà nước. Khi thì cà phê Phú Thọ, Buôn Mê Thuột, tháng thì chè Bờ-Lao hay Thái Nguyên. Có dạo họ kiếm đâu ra rất nhiều những hộp dầu ăn thực vật từ thời Mỹ để lại. Chả thấy tay công an kinh tế nào thò mặt ra bắt bớ cả. Láng giềng chếch bên phải chuyên buôn thuốc Tây. Cả nhà, nhớn bé chỉ phe phẩy món hàng đắt tiền ấy thôi. Họ làu tên thuốc hơn cả Lễ, Trí là hai cán bộ y tế con trai ông. Hỏi mua món thuốc gì cũng có. Những người này vào Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Mình, Đà Lạt, ngược Bắc Thái, ra Hải Phòng xoành xoạch.
Sâu mãi trong xóm phải kể gia đình làm chủ đề, là kẻ mạnh thế nhất. Mỗi tuần xổ đề đông nườm nượp. Lại có hai nhà chứa bạc gần như công khai. Họ không thèm đánh những loại bài lâu ăn thua, chỉ chơi toàn bài Tây và xóc dĩa, đặt bằng nhẫn và vàng lá. Chủ "đề" nghe đồn là anh em kết nghĩa với bí thư quận. Có ai báo công an quận thì con bạc đã biết trước, thản nhiên ngồi uống cà phê, tán chuyện trên trời dưới biển, như không có gì xảy ra. Còn chú công an khu vực thì bị "mua" từ lâu rồi. Sinh hoạt của những nhà này, vì họ có tiền, nên ầm ĩ, sặc sỡ, vênh váo lắm. Nhà ông Thoả kẹt vào giữa, cùng một lúc được nghe đủ các loại nhạc loạn xị từ các loại máy khác nhau, phát ra không kể giờ giấc, bất chấp sự cần yên tĩnh của xóm giềng. Có ai phản ứng gì, mấy thanh niên đó nhăn răng ra cười: "Ấy nhạc Cu-Ba anh em, nhạc Xì-Pa-Nít chứ có phải nhạc đế quốc Mỹ đâu. Khi họ mở nhạc giựt gân thì họ giải thích: "Nhạc Châu Phi, nước Ăng-Gô-La và Li-Bi-A anh em đây, không phải nhạc mất gốc, đồi trụy đâu.

Ghét họ, bực họ, nhưng ngoài chuyện mở nhạc ầm ĩ, họ cũng chẳng trực tiếp làm hại đến ai. Ngược lại, đôi khi họ còn giúp đỡ cho láng giềng nữa. Như trường hợp có lần bệnh ông Thoả bị trở chứng, hai con là y tá, có khả năng cấp cứu bố nhưng không thuốc. Nhà phe phẩy thuốc Tây sẵn sàng đưa thuốc mà chả bao giờ hỏi tiền. Cho đến bây giờ bà Thoả quà cáp lại vẫn chưa đủ giá tiền hộp thuốc quý giá ấy.
Trong nhà họ, thôi thì đủ món tiện nghi xa xỉ. Nào là tivi, tủ lạnh, máy cát- xét. Có nhà tậu cả  máy vi-đê-ô nữa, chiếu phim chưởng liên tục. Bữa cơm của họ, mua thẳng ở ngoài chợ, chả cần qua cửa hàng nào, thịt cá, rau cỏ tươi rói, ê hề. Con cái họ cả nam lẫn nữ vận quần bò, áo phông theo đúng mốt. Cái đài đối với họ thì quá thường.
Vào dịp đại hội đảng kỳ sáu vừa rồi, Thục phải sang nói khó với nhà sát tường cho ông bố được nghe đài những hôm đảng họp đại hội. Đài đang tường thuật hùng hồn, đến chỗ chủ tịch Võ Chí Công tuyên bố, ông đang cố theo dõi ra chiều thích thú, bỗng vỗ xoạch một cái, một điệu nhạc nhảy ồn ào oà lên, làm ông thất vọng quá. Lúc đó nhìn nét mặt ông thật tội nghiệp. Hai má ông giật giật, ông vừa buồn vừa giận, hai hàng nước mắt chảy dài. Các con tê tái xót xa về cảnh nghèo túng, định cố gắng mua cho ông cái máy thu thanh chạy pin mà vẫn chưa mua nỗi. Cũng chẳng giận gì người ta được, của riêng họ muốn nghe băng tần nào, tuỳ họ chứ. Cũng như đám con gái nhà bên, phấn son, cái mặt như diễn viên đoàn văn công sắp lên sân khấu biểu diễn ca múa. Thế mà, nhiều chị vợ cán bộ rủng rỉnh tí tiền cũng mắt trước mắt sau, bắt chước.

Đại uý già nghỉ hưu, nằm một chỗ, lở cả lưng, đâu có hiểu rõ được thực trạng xã hội. Ông những tưởng cứ hồ hởi phấn khởi như hồi đánh Pháp, đánh Mỹ. Nghe kể những chuyện tiêu cực trong cơ quan, đơn vị, ngoài xã hội, ông bị "sốc" mạnh. Nặng nhất là hôm đài hàng xóm tình cờ mở đúng vào chương trình dân ca chèo. Trong bài chèo ca ngợi đảng có câu: "Đảng cầm tay dẫn ta đi..." Bỗng có tiếng cười hô hố của người bố:
- Ối giời ơi! Kìa, chúng mày đưa tay cho đảng cầm nào!
Lũ con hàng xóm cười ồ lên, chúng nháo nhào:
- Con chả dại!
- Con chả dám! Theo đảng chỉ có nước uống nước lã cầm hơi.
Trinh và Thục bên này thấy ông đỏ mặt, lẩm bẩm "Láo quá! Hỏng hết, hỏng hết". Rồi ông cựa quậy, bắt con dựng ông dậy cho tựa lưng vào gối. Ông thở hỗn hễn như bò thở, đập tay vào chõng, bàn chân còn cử động được dậm dậm xuống chiếu. Nước mắt ông trào ra, nửa miệng méo xệch. Khuôn mặt thật thảm hại. Cô chị tức quá, đập vào tường như muốn bảo bên kia im đi. Thục từ tốn hơn, bảo:
- Thôi chị ơi, hơi đâu mà nói với họ.
- Họ phát biểu xúc phạm đến đảng quá. Họ làm cho bố mình đau đớn.
Thục là đứa con chưa vào đảng, nói như dàn hoà:
- Họ cũng là quần chúng như em, chỉ vô tình nói thế thôi.

Hai chị em phải an ủi dỗ dành bố già mãi. Người bóp tay, người nắm chân và chậm nước mắt cho bố. Trinh và chồng là hai giáo viên. Chỉ có vợ Trí là công nhân. Trừ vợ chồng Lễ đã có tí nhau và vì công tác địa điểm xa, đã ra riêng, còn đều sống chung dưới một mái nhà, ăn chung một bếp. Thục chưa chịu vào đảng, không muốn sinh hoạt đoàn nhiều, dù đã là đoàn viên. Do đó chả bao giờ được đề bạt là đối tượng cả.
Nhờ Thục phe phẩy tí chút mà thỉnh thoảng nhà có cá tươi ăn. Hay khéo xoay sở đổi được gạo trắng ngon cho bố ăn. Hỏi làm sao kiếm được mấy của quý đó, Thục chỉ cười "thời buổi này, không ngoại giao là hỏng kiểu hết".
Lễ hỏi cô em út:
- Sao cái Thục không phấn đấu thêm để được kết nạp?
- Vào để làm gì? Vào đảng thì được gì thời buổi này, hả anh?
- Vào để...để trở nên một công dân hoàn toàn của chế độ. Đâu phải vào để hưởng thụ.
- Anh là đảng viên, gần như cả nhà này là đảng viên, thử xem lại đã làm được gì, đã được hưởng gì? Anh có thấy các cán bộ cấp cao đã là công dân gương mẫu chưa?
- Thục đừng lý luận tản mạn. Để lúc nào rỗi, anh sẽ bàn thêm với Thục.
Lễ nói thế, nhưng không thấy bàn rộng vấn đề này với em. Có nhẽ Lễ thấy khó mà thuyết phục nổi cô em gái thông minh.

Thục đã nói lên một phần rất ít của thực trạng xã hội. Bốn anh em từ nhỏ đến lớn được học đến đầu đến đũa. Chỉ biết ăn và học. Trưởng thành rồi thì ăn và đi làm, không có cái tháo vát ngược xuôi như mẹ, trừ Thục. Ngày xưa gọi là lương ba cọc ba đồng, bây giờ là công nhân viên nhà nước chấp hành nghiêm chỉnh giờ giấc, hoàn thành mức độ công việc tốt, cứ chờ đến kỳ để được lên lương. Đồng lương lên không thể nào kịp với giá sinh hoạt nhảy vọt. Thứ lương chỉ tiêu năm ngày là hết. Tiền thưởng ở cơ quan và bỗng lộc rất hiếm hoi. Được vài trăm bạc, đã lấy làm vui sướng lắm, phởn phơ lắm. Người không làm công nhân viên nhà nước là bà Thoả lại là trụ cột trong nhà. Tiếng nói của các giáo viên, y tá, công nhân thảy đều không có trọng lượng. Tất thảy là nghiêng về sự quyết định của mẹ già và của cái Thục đanh đá.
Trong nhà ai có đề ra ý kiến mua sắm này nọ, nghe ra đều có lý, nhưng tiền thì không ai đưa ra cả. Thậm chí đơn giản nhất là ước ao được ăn một bữa gọi là có chất tươi ngày chủ nhật như canh riêu cá hay hoang tí nữa như bún chả nhưng không thấy ai xung phong góp tiền. Bà Thoả chỉ bảo: "đưa tiền đây" là không người nào thò ra đồng bạc. Đúng là:
"Dễ trăm lần, không tiền cũng chịu
Khó vạn lần, tiền liệu cũng xong."
Nhại câu nói của cấp lãnh đạo, thay chữ dân bằng chữ tiền. 

Ông Thoả có đôi lần cáu gắt với vợ. Chung qui cũng do đồng tiền eo hẹp gây ra cả. Ông bảo:
- Tôi ăn uống không bao nhiêu, chỉ cần nóng sốt và tinh tươm một tí. Thỉnh thoảng cho tôi miếng thịt kho.
Bà trả lời:
- Ông cứ đòi hỏi bồi dưỡng làm gì. Ông thừa biết riêng lo cho ông, tôi đã cực nhọc chừng nào?
- Cơm gạo hẩm tôi nhai không được. Tôi xin nước mắm kha khá một tí.
- Giời ơi! Có đứa nào đưa tiền cho tôi nuôi ông đâu. Chỉ có độc mình tôi lo thôi.
- Trước tôi mạnh khỏe, bà có nhăn nhó thế này đâu.
- Bây giờ ông muốn tôi phục vụ ra sao nữa?
Ông phải lặng im. Bệnh nhân nằm nghỉ một chỗ thường có mặc cảm. Về già hai vợ chồng đâm ra lục đục. Sống cả đời với nhau đẹp thế, yên thế, bây giờ thì...
Ông bị dày vò đang ăn bám, bị người thân, bạn bè, xóm giềng quên lãng, thờ ơ. Ông tự ví mình như cây cung đã gãy. Như một khẩu AK vỡ nòng rỉ vất xó nhà. Ông chưa oán đảng và nhà nước, chỉ giận mình, giận vợ, giận con. Giận chán ông lại thương chính mình, thương họ. Họ có làm gì để ông phải  giận đâu. Họ cũng chẳng sung sướng hơn gì ông. Phải lao động "đổ mồ hôi, sôi nước mắt" quần quật tối ngày.

Mới tuần trước, chi ủy khu phố theo chỉ thị trên, ra lệnh chi bộ xóm tổ chức lấy ý kiến quần chúng phê bình đảng viên, chuẩn bị triển khai thực hiện cuộc vận động đổi mới của đồng chí Nguyễn Văn Linh. Xóm đếm được ba mươi hai hộ, chỉ có tám hộ cử người đến dự. Suốt cuộc họp kéo dài hai tiếng đồng hồ, chỉ đúc được bốn ý kiến chung chung. Gọi là ý kiến "không địa chỉ" có ý là ý kiến hay lời phê bình chả biết nhằm vào ai, gửi đến cơ quan nào. Ý kiến ba phải, vô hại, sợ mất lòng, sợ trả thù.
Bà Thoả thoạt đầu không đi, bà cũng là một quần chúng. Ông giục mãi bà mới miễn cưỡng đi. Thục còn dặn với:
- Mẹ đi, nhưng đừng phát biểu gì đấy nhé. Kẻo mang họa vào thân đấy, mẹ ạ.
Bà chán nản:
- Dà à ò ôi, phê với chẳng phán! Chán mớ đời.
- Đấy, bao nhiêu lần rồi, có thấy các ông đảng viên sạch hơn được tí nào đâu.

Bà đi rồi, ông nhì nhèo với con gái:
- Sao con lại nói thế.
- Bố nằm một chỗ, bố không biết đấy thôi. Đảng viên hạng bét như nhà này cứ đói dài. Phải là đảng viên cán bộ cấp lãnh đạo cơ, hay phải ngồi chỗ "bờ sôi ruộng mật" cơ. Phê phán như đấm bùn sang ao thôi.
Ông nghe con gái nói, cô gái quý gần ông nhất, rên hừ hừ. Hai gò má bắt đầu giật giật, dấu hiệu sự xúc động.
- Đừng nói nữa. Hừ...hừ...
- Bố không nghe được câu người ta nói "cán bộ đi trước, tiêu cực theo sau" đâu. Không có chức quyền làm sao tham ô được. Chính vì thế nên con không muốn vào đảng.
- Không còn có pháp chế, kỷ luật gì à?
Đang sẵn Đà, Thục vẫn nói:
- Bố biết không, hiện nay có câu đồng dao:
"Mỗi người làm việc bằng hai, để cho chủ nhiệm mua đài mua xe
Mỗi người làm việc bằng ba, để cho thủ trưởng xây nhà xây sân".
Ông lẩm bẩm:
- Đâu đến nỗi thế.
- Thật đấy bố, cứ như giáo viên nhà này "ăn" cái gì. Chỉ còn nước bán quà vặt cho học sinh thôi. Cán bộ y tế à, tháng trước, anh Tín vào nước biển cho một bệnh nhân, nhỡ đánh vỡ bình phải đền năm trăm đồng đấy.
- Sao không thấy nói...
- Chuyện không xa, ngay giám đốc nhà máy của con này, cách đây hai năm đồ đạc có gì đâu. Nay đến nhà mà xem, ti vi, tủ lạnh, cát xét không thiếu thứ gì. Còn thủ kho chạy xe Honda 70 chứ không thèm lái Honda 50 đâu. Trưởng phòng kế toán trong nhà có cả vì-đê-ô nữa. Tiền đâu mà mua.
- Hừ...hừ...  Đó chỉ là cá thể. Nhìn chung vẫn là tốt chứ.
- Dà ào...ơi, bố không biết đấy thôi. Thủ trưởng, giám đốc nào không ăn cánh trên dưới, trước sau gì cũng bị đi học hay bị điều đi chỗ "chó ăn đá gà leo thang" không thôi, bố ạ.
- Đảng bao giờ cũng đúng, ở dưới chấp hành sai đấy.
- Cái đó con không biết. Chỉ biết nói dân làm chủ mà chỉ thấy dân thấp cổ bé miệng kêu ca rồi bỏ đấy. Nhà nước quản lý nhưng quản lý tồi quá mà báo cáo rất hay. Mới đây bản thân ông tổng bí thư đảng tuyên bố là Hội đồng Chính phủ cũng muốn đổi mới người và việc mà không biết đổi mới cách nào. Dột từ trên dột xuống.
Ông bắt đầu hỏi giọng mệt mỏi:
- Liệu ông Linh cỏ làm được gì không?
- Con không biết, hôm nào bố hỏi anh Lễ, anh Tín xem.
- Không biết cuộc vận động có thực chất không.
- Đó là việc đảng của bố và các anh chị, con không muốn biết. Chỉ biết con đang cố "ngoại giao" để đổi gạo trắng cho bố xơi thôi.

Ông im lặng, vẻ suy tư rất sâu. Sau buổi nói chuyện ấy, ông trở nên ít nói hẳn. Ông ăn uống ít đi, chỉ hay ngước lên nhìn ảnh bác Hồ.
Cả nhà hiểu và thương ông. Cứ nghe tiếng rên hừ hừ và tiếng thở dài thườn  thượt. Cả một đời ông hoạt động, thành kính một niềm tin, một lý tưởng. Nếu con gái không nói cho biết, ông vẫn như người từ một thế giới khác. Trước thực trạng xã hội xuống dốc, ông Thoả bị hụt hẫng. Mà hụt chân rất nặng. Thân xác ông đã phải nằm xuống vì sự tàn phá của bệnh tật. Tinh thần ông, tư tưởng ông chỉ còn biết bám víu vào đảng vào các lãnh đạo.
Từ đấy, Thục không dám phát ngôn nói lên sự thật bên ngoài nữa. Mọi người bảo nhau giấu diếm sinh hoạt xã hội ngoài cho ông khỏi buồn phiền. Càng ngày ông càng ít ngủ đi. Trong lúc này tình hình kinh tế ngày càng khó khăn. Cả nhà chả ai dám xin nghỉ việc để chạy ngoài. Vì cái "mác" đảng viên và biên chế buộc họ lại. Họ có tiếng mà không cỏ miếng, Thục nói với mẹ cho cô nghỉ việc để phe phẩy ngoài, nhưng bà không chịu. Năm người chỉ góp gạo, họa hoằn lắm mới được ít tiền để bà quản lý dùng chung.
Bà bảo Thục: "Mẹ còn sức tần tảo được, con cứ phấn đấu đến xí nghiệp đi". Từ khi lấy ông đến nay bà tần tảo sớm hôm nuôi các con thay chồng cho đến khi trưởng thành. Nhờ tay bà chèo chống, đã vượt qua nhiều khúc hiểm nghèo. Không hiểu kỳ này gay go nhất bà còn đủ sức không. Bà nuôi đàn gà, con lợn, mớ rau mớ cỏ vất vả sớm hôm. Thục thương bố và quý mẹ. Chưa bao giờ bà kêu ca phàn nàn chế độ cả. Không phải bà yêu gì chế độ. Thời Pháp cai trị, bị cường hào ác bá làm khổ, sau 54 bị cán bộ cấp xã làm khó khăn, thời nào đối với bà thì bà vẫn cứ khổ và cứ phải nai lưng ra làm đầu tắt mặt tối. Bà tự an ủi là cái số phận xui ra như thế. Bà quan niệm cuộc đời rất giản dị, là bao giờ trên đầu trên cổ người dân cũng có bóc lột. Cũng như cả đời bà phải tranh đấu làm sao không bị chết đói.


Một chuyện xảy ra, càng khiến ông, người đảng viên già, bị lung lay niềm tin còn sót lại.
Do nhiều y tá xin nghỉ việc hay tự ý bỏ nhiệm sở để chạy chợ trời, do khó khăn về dược liệu, bệnh viện tuyến quận đã bỏ sự chăm sóc tại nhà cho ông Thoả. Họ viện cớ, một là ông chỉ là cán bộ quân sự đã về hưu, hai là quân hàm ông chỉ là đại uý.
Lúc nhận được tin này, ông giận dữ la mắng:
- Đãi ngộ người bệnh thế ấy à. Tệ quá!
Thục can bố, chưa bao giờ cô thấy bố nóng nảy đến thế.
- Bệnh viện từ xưa cũng chẳng giúp bố là bao.
- Tao gần bốn mươi tuổi đảng  - chưa bao giờ ông xưng tao với con cái- chúng nó đãi ngộ thế còn quần chúng thì chúng nó xử tệ đến thế nào? Ít ra cũng còn cái tình cái nghĩa chứ. Tao không cần mấy viên  thuốc lá lẩu ấy, nhưng phải nhìn đến tao chứ.
Chưa bao giờ bà thấy ông cáu  giận quá thế, bà nhẹ nhàng bảo:
- Thì chi bộ xóm và quận vẫn nhớ đến ông mà. Cẩn thận kẻo mang tiếng công thần đấy.
Ông đập tay xuống chõng.
- Mấy thằng ở quận ở tỉnh còn biết nghĩ đến ai. Thật là cạn tàu ráo máng.
Bắp thịt ở má ông lại giật giật. Hai hàng nước mắt lại chảy dài. Thục thấy ngay là ông bị động chạm đến quyền lợi riêng mới phản ứng dữ dội thế.
Chả biết phải an ủi ông cách nào, bà chỉ yếu ớt khuyên:
- Cáu giận làm gì. Tình hình khó khăn cả nước. Thuốc men là do chợ trời nắm, chứ có phải bộ y tế, bộ ngoại thương nắm đâu.

Biến cố cuối cùng xảy ra do việc mua và ép mua công trái. Hôm nhận lương hưu, Lễ được ủy quyền vẫn ký nhận tại quận bị hụt đi một nghìn đồng trong số hơn bốn nghìn đồng thường lệ. Mọi kỳ thì tuỳ ý mua hay không, nhưng kỳ này họ trừ béng ngay vào sổ lương . Ông Thoả chưa bao giờ mua công trái cả, nói lương ít, bệnh lại hiểm nghèo.
Ông đếm tiền rồi sửng sốt hỏi:
- Đâu mất một nghìn?
Anh con trả lời;
- Họ mời mua công trái đợt này đấy, bố ạ.
- Không mua gì xất, ai bảo mua?
- Thì họ bảo chỉ thị ở trên.
- Nhất định là không mua, phải để tự nguyện chứ.
Lễ nghe bố thở mệt nhọc, nói luôn:
- Thôi để chúng con bù vào chỗ ấy. Bố nằm nghỉ  đừng nghĩ gì thêm nữa.
Mặt ông tái mét, lớn tiếng:
- Ít nhất phải dộng viên trước đã chứ. Làm ăn gì lạ thế?
Thục nhẹ nhàng chêm vào:
- Thì cũng là công trái nhà nước, có phải vé số hay số đề đâu.
- Nó ép mua để lấy thành tích báo cáo đây mà. Nó cướp không lương của tao. Nó giật mất cơm trắng, đậu phụ của tao.
Thấy ông găng quá, bà phải can thiệp.
- Tôi sẽ lo đủ cho ông. Thôi đừng nói nữa. Ông là đảng viên phải gương mẫu chứ.

Đến đây thì thấy ông im. Chỉ nghe tiếng thở mạnh, ông thôi đập tay chân xuống chõng. Không thấy ông phản ứng thêm, mọi người tưởng ông đã nguôi ngoai. Thục bước lại gần thấy mắt ông đã trợn ngược, hai vệt nước mắt chảy ngược chếch trên trán. Đầu ông bị hất lên, những sợi tóc bạc trắng xoã trên gối. Một tay còn nắm chặc lấy những tờ giấy bạc rất có ít giá trị. Một chân thõng xuống thành chõng. Khoé miệng, bên chưa bị liệt, thường vẫn thẳng, lúc này đã xuôi cụp xuống như khoé bên kia, khiến cho miệng ông như đang khóc.
Thục nức nở:
- Bố ơi, bố!
Bà Thoả gào to lên.
- Giời đất ơi! Sao thế này.
Thục vùng lên định chạy sang hàng xóm xin thuốc cứu cấp. Lễ hiểu ý em, lắc đầu bảo:
- Còn đi đâu nữa, muộn rồi, Thục.
Sau khi để tay vào mũi ông và vuốt mắt cho ông, Lễ không khóc nổi. Mắt nhoà lệ. Thục nhìn ông bất động, chợt nhìn lên ảnh lãnh tụ, cô thấy hình như miệng lãnh tụ cũng méo xệch như đang khóc.
Lễ và Thục hiểu rằng bố mình không chết vì hụt mất nghìn bạc hưu. Ông chết vì câu nói sau cùng của con gái và bà vợ. Bí mật này cả hai sẽ không bao giờ dám nói cho mẹ biết.



Diệu Tần





-------------
Nguồn:  VĂN
Số 77, tháng 11-1988















Thursday, December 7, 2017

ĐỂ LẠI SAU LƯNG





Nguyễn Thị Ngọc Nhung


Đạm lau nước mắt. Hồ quàng vai vợ, vỗ về. Mọi người đã ra về gần hết. Một người khách từ giã về, rán nán lại, nói dăm ba lời cùng Đạm, nước mắt nàng lại tuôn ra theo lời chia buồn. Hồ không muốn vợ xúc động nhiều có hại cho cái thai gần ngày, đứa con đầu tiên sau bảy năm lấy nhau. Chàng nói nhỏ với Đạm.
- Sửa soạn về em.

Hồ dìu Đạm ngồi xuống chiếc ghế nệm gần cửa. Mấy cái băng gỗ mòn nhẵn ngồi gần cả tiếng cho buổi lễ làm Đạm ê cứng cả người. Hồ vào văn phòng người quản trị tính toán giấy tờ. Đạm sờ mặt mình, da mặt cứng ngắt. Đạm có cảm tưởng lớp son phấn loang lổ trên mặt như lớp vôi dày nứt nẻ theo đường nước mắt. Nàng mở ví lục loại tìm cái gương nhỏ soi mặt. Mắt Đạm đỏ như mắt cá với đường chì nâu kẻ mắt còn có phân nửa phía đuôi nhoè nhoẹt. Lớp phấn hồng đánh nhẹ giờ chỉ còn đôi chút gần màn tang. Nước mắt và lớp kem lót làm da  mặt Đạm ngột ngạt. Nàng có cảm tưởng như một lớp mụn sẵn sàng ngoi đầu dậy. Đạm lấy khăn giấy lau sạch hai má, đánh lại tí phấn, thoa đường chỉ nâu trên mắt đều ra. Xong xuôi, nàng bỏ mọi thứ vào ví, sực nhớ đến son môi, Đạm lại lấy gương ra. Nàng đang chăm chú tô kẻ môi thì có người ngồi kế bên nặng nề. Đạm liếc nhìn. Chú Hoà mở nút cổ áo thở phào. Nóng quá. Nóng quá.
- Trời thế này chú còn chê. Mấy khi San Francisco có được một ngày nắng mà không có gió, nhất là vào đầu năm.
Chú Hoà nới rộng cà vạt. Tiếng thở nặng nề của chú làm Đạm khó chịu. Chú Hoà người mập đẩy đà.  Khi trời nóng, chú có vẻ chậm chạp uể oải, chú thở từng hơi ngắn hỗn hễn như sắp lên cơn suyển. Đạm ghét lại gần chú mỗi khi chú mệt, nhất là từ khi nàng có mang. Cái thai quấy nàng nhừ tử mấy tháng đầu và Đạm đâm ra khó chịu hơn mỗi khi nghe tiếng thở ngắn của chú Hoà. Đôi khi Đạm tưởng như nàng bị hụt hơi theo tiếng thở. Đạm nhích xa về phía đầu ghế nhưng giả vờ như đang kéo cho thẳng nếp áo. Chú Hoà không để ý.

- Cháu có thấy cô bé bồ thằng Công không? Chú chép miệng. Cứ như con mèo ướt vậy.
- Phải cái cô mặc quần jean, tóc rối bù đứng gần cửa không chú?
- Không, cô đứng kế bên kìa. Hình như cô tóc rối cháu nói là chị em chi đó, chú trông hai cô mặt giống nhau lắm.
Đạm cố mới trí nhớ, đông người quá nàng chẳng nhớ được ai ra ai, nhất là đám người ngoại quốc.
- Cháu chỉ nhớ có mỗi cô tóc rối thôi. Cô kia thế nào chú tả cháu xem nào.
- Cô đó tóc dài ngang vai, mặc áo đầm đen. Trông tưởng như người Việt mình vậy.
Đạm ngẫm nghĩ xong lắc đầu.
- Cháu chịu. Nhiều cô Việt Nam mặc đầm đen hôm nay. Thế thì cháu hàng. Cháu chỉ nhớ cô tóc rối vì phần đông ai nấy đều mặc đầm hay áo dài, cô ấy lại mặc jean, tóc quăn rối như da đen, trông khác ngay. Mới đầu cháu tưởng là người Việt, cháu chỉ anh Hồ xem cô bé nào đầu tóc táo bạo. Anh Hồ đoán là người Nhật vì cặp mắt tròn, da trắng.
- Không, chú Hoà nói giọng quả quyết, người Tàu, sinh ở phố Tàu.
- Sao chú biết được?
- Thằng Trí nhà chú có quen với đám đó, cũng qua thằng Công chứ đâu. Chúng nó đấu láo tiếng Mỹ nghe là biết ngay. Dân Việt mình nói thế nào vẫn nghe lơ lớ giọng, trừ mấy đứa bé con, trong khi mấy cô bé đó nói nghe như ...Mỹ đấy.
Đạm cười lời phê bình của chú Hoà. Chú nói tiếp.
- Nó với thằng Công định mua nhẫn cưới rồi đấy. Cháu với chị Cả có biết không?
- Cháu còn chưa biết mặt cô bồ thằng Công thì làm sao biết tin tụi nó định cưới nhau.
Chú Hoà lại chép miệng, hơi thở có phần đều hoà hơn lúc nãy.
- Cả đám trẻ biết tất mình thì cứ như ngỗng trời nghễnh ngãng.
- Cháu ngồi hàng đầu tiếp chuyện với mấy bà cụ có biết gì đâu.

Đạm đảo mắt nhìn quanh chợt dừng lại nơi hàng hoa phúng điếu. Chú Hoà nhìn theo phê bình.
- Xứ này lạ quá. Phúng điếu lại đi hoa đủ màu rực rỡ như đám cưới.
Đạm rưng rưng nước mắt khi nhìn thấy giá đỡ quan tài trống trơn. Chú Hoà thấp giọng.
- Này này, đủ rồi cháu ạ, cẩn thận tránh không làm nhoè lớp phấn vừa đánh lại.
- May là cháu để mẹ cháu ở nhà. Cháu còn dằn không nổi huống gì mẹ cháu thương biết bao nhiêu mà nói. Đạm chậm nước mắt nơi mi, tránh không để rơi xuống má, nói tiếp. Tối qua trời mưa, chú hay không, cháu khóc gần cả đêm. Cứ đi ngang căn phòng trống lại nhìn vào, tưởng như...
Đạm bỏ lửng câu nói nhìn lên. Hồ bước tới.
- Về em, xong rồi.
Đạm chần chờ nhìn Hồ, Hồ nói nhanh.
- Khoảng hai tuần sau họ sẽ cho vào ngăn mình đã lựa.
Đạm đứng dậy chậm chạp. Chú Hoà đỡ một bên.
- Thôi mình về. Thế là xong. Người chết yên thân, khổ người sống thôi.

Chú Hoà vừa lẩm bẩm vừa theo Đạm, Hồ ra cửa. Sân đậu xe chỉ còn rải rác dăm ba chiếc. Trí lái chiếc station wagon đầy nhóc người ngừng trước mặt ba người.
- Con về trước cậu nhé, cậu đi nhờ xe chị Đạm, xe con đầy quá rồi. Anh chị về sau với cậu em.
Chú Hoà xưa tay.
- Chúng mày về đi. Dặn mợ dọn bàn sẵn cậu về ngay.
Xe Trí đi rồi, Đạm, Hồ và chú Hoà thong thả bước ra xe. Trời trong, xanh ngắt không vẫn chút mây. Đạm nghĩ thầm, nếu mình có chết được chôn vào một ngày như thế này cũng thích. Hồ cắt ngang ý nghĩ của Đạm. Em cẩn thận. Đạm nhìn xuống, một cục đá nằm lăn lóc trên  đường. Hồ đá vào bên lề. Tiếng lăn cộc lốc vang vang. Trời thật êm khi không có gió. Khí trời ấm áp một cách kỳ lạ sau những ngày lễ cuối năm, mưa dầm cả tuần. Đạm để tay lên bụng như vuốt ve đứa bé. Hồ mở cửa cho vợ. Chú Hoà vào băng sau, miệng không ngớt than phiền.
- Xe gì cửa bé tí, có cái cửa mà cũng bần tiện.
Hồ nhìn Đạm tủm tỉm cười. Đạm bấm tay Hồ. Lần nào lên xe Đạm chú Hoà cũng than phiền là cửa xe nhỏ, ra vào khó khăn. Chú to béo quá so với chiếc Honda nhỏ bé của vợ chồng Đạm. Hồ vòng xe ngang cửa nhà thờ theo con đường dẫn ra cổng lớn, hai bên cỏ xanh mượt, dốc thoai  thoải. Chú Hoà lại lên tiếng.
- Chôn những chỗ này khối đứa dẫm lên đầu mình không hay. Dân mình chôn phải có mộ bia cao ráo cho ra hồn, đàng này chúng nó cứ đặt mộ bia dẹp lép sát bên sân cỏ. Chúng nó chẳng biết trọng mồ mã ông cha là gì cả. Nghĩa địa mà nhìn xa cứ tưởng như sân golf. Phải không? Chú Hoà lay vai Đạm. Phải không?
Đạm gật đầu. Chú Hoà có tật nói dai.  Chẳng trách Trí tránh  đi xe  với bố cũng phải. Đạm cười thầm với ý nghĩ của mình. Chú Hoà không ngừng miệng.
- Chú mà chết, nhất định không chôn ở đây. À, gần đây có cái nghĩa địa Tàu, lúc sáng đi ngang chú thấy. Tí nữa đến chỉ chúng mày xem. Y hệt như nghĩa địa xứ mình. Chú bảo thằng Trí, con nhớ nhé, có gì bố không về chết ở quê cha được thì đừng có chôn bố ở cái nghĩa địa tân thời của Mỹ, bố không an nghĩ được đâu, mộ bia còn thấp hơn cả ngọn cỏ. Cứ chôn tạm bố ở nghĩa địa Tàu này là bố tạm hả dạ rồi. Đạm quay nhìn Hồ. Chàng lái xe chăm chú. Đạm biết Hồ tránh không tiếp chuyện chú Hoà để chú bớt nói. Hình như sự im lặng của Đạm và Hồ không làm chú Hoà nản chí.
- Nói đến Tàu chú lại nhớ. Cảnh sát có nghi ngờ gì nữa không?
Đạm lắc đầu, tỏ ý hiểu chú Hoà muốn nói gì.
- Chú nghi là nó bị giết.
Hồ nhìn chú Hoà qua kính chiếu hậu.
- Chuyện qua rồi sao chú cứ nhắc đến mãi.
Hồ có vẻ không bằng lòng với câu nói của chú Hoà. Đạm ngạc nhiên ngơ ngác.
- Chú nói thế là sao? Hẳn hòi là nó tự tử kia mà.
Chú Hoà tránh ánh mắt của Hồ trong kính chiếu hậu, thấp giọng.
- Chú nhìn đám bạn của nó đoán được ngay, khó gì. Phố Tàu có khối băng du đãng tranh chấp nhau. Chúng giết người không gớm tay. Nhiều khi nó bị giết lầm thế thôi. Con nít đời nay ngu lắm, chẳng biết lựa người mà chơi.
- Không phải thế đâu chú ơi. Hồ chêm vào. Chú tưởng tượng hơi nhiều.
- Tưởng tượng gì. Đứa nào dám gan ra cầu Golden Gate mà nhảy xuống? Nội cái gió vù vù cũng đủ ngán rồi nói gì đến lội bộ ra tận giữa cầu mà nhảy. Cảnh sát lo tìm dấu trên xác nó, còn cái gì mà tìm? Rửa nát gần hết...

Đạm rùng mình. Nàng không nhìn được xác vì thai nghén nhưng trí tò mò không bỏ được nàng. Nàng nghe gai ốc nổi lên trên da. Đêm qua Đạm đã mơ thấy cái xác trong trí tưởng tượng của mình. Cái xác tơi tả, quần áo rách bươm, gương mặt chỉ còn ba cái hố lở loét, miệng tét mất môi dưới trơ răng như đang cười. Đạm chợt muốn khóc. Nàng nhìn ra cửa. Cái xác trong giấc mơ vẫn còn biết nhìn Đạm bằng hố mắt buồn phiền, bàn tay còn có xương trắng nắm chặc tay Đạm trong cơn giận dữ. Đạm nói, giọng nói rưng đầy nước mắt.
- Phải biết thế đừng cho nó đi đâu cả.
Chú Hoà ngỡ Đạm đồng ý với mình.
- Chúng nó giết người bí mật làm sao ngăn được.
- Không phải thế. Cháu nghĩ tại cháu nhiều hơn. Cháu nặng lời với nó nhiều quá. Dù sao nó còn trẻ con ham chơi, cháu rầy rà nó thế không phải, có vẻ khắc nghiệt với nó quá.
Hồ đanh mắt lại nhìn Đạm.
- Anh đã bảo không phải lỗi tại em, cớ gì em cứ nhận lỗi về mình chi vậy? Chuyện đã qua rồi. Nó chết rồi. Em đổ lỗi mình có làm nó sống lại không? Em phải lo giữ sức khỏe cho em. Cháu nói câu nầy chú đừng giận, cháu phải lo cho Đạm, buồn phiền có hại cho Đạm, chú đừng nhắc đến nó nữa.

Chú Hoà có vẻ hậm hực. Đạm khóc lặng lẽ. Nàng cảm thấy mình là người có tội. Mỗi lần đám bạn của Công nhìn nàng, nàng có cảm tưởng như chúng đang chê bai nàng. Thế nào Công lại chẳng kể cho tụi nó nghe về nàng. Tao có bà chị khó chịu. Có lần Công nói thế trên điện thoại vô tình Đạm nghe được. Đạm nghĩ đến lời đồn thiên hạ về mình. Tại chị nó mà nó chết. Bà ấy khó chịu khắc khe với nó lắm... Càng nghĩ, nước mắt Đạm lại tuôn ra nhiều hơn. Mình đâu có ý cấm đoán nó gì đâu. Chị em có hai đứa, không thương nhau thì thương ai bây giờ. Phải cái nó xài tiền không suy nghĩ thì phải ngăn ngừa nó chứ. Đạm tưởng như mình đang đứng trước một hội đồng buộc tội, hàng ngàn ngón tay xỉa xói mặt mình. Đêm đó nàng đã giận dữ bảo Công đừng về nhà xin tiền nữa, đừng về nhà chỉ để ăn cắp đồ đem bán, đừng về nhà làm phiền nàng nữa. Đạm biết em nàng có tự ái lớn, mới mười chín tuổi có khôn hơn ai đâu. Có lẽ nàng nói quá nặng, đã lỡ lời bảo Công đi đâu cho khuất mắt. Giờ Công đi khuất thật, nàng lại hối tiếc. Công không thèm để lại lời nào biện minh cho hành động của mình. Tại sao? Đạm không biết, nàng có cảm tưởng Công muốn hành hạ lại mình cho bỏ ghét, nên không để lại một chữ một lời. Nàng nhớ lại lần cuối cùng gặp Công. Ôi nó vui vẻ biết bao, còn đùa nàng rằng thế nào nó cũng có cháu trai. Biết đâu đó là dấu hiệu rằng nó đã quyết định. Ô, Đạm không biết. Nàng cứ đoán, cứ ngẫm nghĩ, cứ trách mình rồi lại khóc. Có khi Đạm nghĩ thế mà khỏe nợ. Nhưng rồi hối hận cho ý nghĩ tồi tệ của mình. Đạm buộc tội mình nặng nề hơn nữa. Chưa bao giờ nàng lại nghĩ rằng Công chết bởi tay người khác. Như ra khỏi cơn mê, Đạm sực nhớ lời chú Hoà. Nàng lau nước mắt, hỉ mủi vào chiếc khăn giấy Kleenex xong nhét nó vào gạt tàn thuốc trên xe. Hồ nhìn theo.
- Em đừng nhét vào đó nữa. Nó đầy lắm rồi. Cứ bỏ đại trên sàn xe anh tính sau.

Đạm lôi dúm khăn ra, ngần ngừ giây lát rồi bỏ trên nệm ghế của mình. Chú Hoà lại chắc lưỡi định nói thêm câu gì, bắt gặp ánh mắt của Hồ qua kính chiếu hậu, chú lắc đầu im ngay. Đạm nghe tiếng thở của  chú Hoà ngắn và nặng nề như sát bên tai nàng. Bỗng chú Hoà nhấp nhổm nhìn lui.
- Cái nghĩa địa Tàu đâu đây mà sao nãy giờ đi mãi không thấy nó đâu cả. Chú đổi giọng mừng rỡ. Kia rồi. Nhìn mà xem, chúng mày thấy nó có giống nghĩa địa Việt Nam không? Hừm, mùi hương thơm phức đây này.
Đạm và Hồ cũng nhìn theo hướng chú Hoà chỉ. Cái nghĩa địa nhỏ tí so với cái nghĩa địa cỏ xanh um ba người vừa rời khỏi, chung quanh lại là vách tường cao bao phủ, trước cửa là một cổng sắt đen lớn. Đạm chỉ thấy thấp thoáng qua những song sắt cửa. Nàng tưởng như mình vừa thấy lại Việt Nam trong chớp mắt. Và nhất là mùi hương, y hệt như lễ Thanh Minh đi tảo mộ.
- Chú nói phải đấy. Chôn tạm ở đây cũng đỡ được phần nào nhớ nhà.
Chú Hoà có vẻ hả dạ với khám phá mới của mình, Khệnh khạng lôi bút mực trong túi áo ra.
- Đường này là đường gì nhỉ? Nghĩa địa tên gì cháu có nhớ không? Chú phải ghi ngay kẻo lại quên. Cái này tối cần. Chị Cả biết là rối lên đi xem ngay đấy.
Hồ nhíu mày.
- Đường này là El Camino Real, còn cái nghĩa địa thì cháu chịu. Hình như họ để chữ Tàu trên cổng.
Đạm gật đầu.
- Đúng rồi anh, trên cổng toàn là chữ Tàu không. Chú lo gì, cứ ghi là nó khoảng block 17000 là mò ra ngay.
- Con bé này thế mà khôn. Chú chẳng nghĩ ra điều đó, cứ muốn ghi tên của nó. Chữ Nho lâu ngày không dùng đến cũng quên mất cả.

Từ đoạn đường đó về, chú Hoà đắm chìm trong suy nghĩ chi đó nên im lặng không nói thêm lời nào. Đạm và Hồ lấy làm lạ nhưng không muốn khơi chuyện, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng tư. Hồ chợt đưa tay vỗ nhẹ tay Đạm. Nàng nhìn Hồ mĩm cười. Hồ nhìn nàng cười lại xong quay đi nhìn thẳng ra phía trước. Đạm không hề biết là Hồ đang nghĩ đến Công. Chàng nghĩ đến Công như một của nợ vừa dứt. Tuy ý nghĩ có hơi trắng trợn nhưng Hồ không sao xua đuổi nó ra khỏi đầu mình được. Chàng hoàn toàn không chút cảm tình với Công, nếu không muốn nói là ghét bỏ nhưng chàng khôn khéo che dấu Đạm. Hồ không muốn tiếp tục nuôi một đứa em chỉ biết ăn chơi xài tiền phung phí. Công là một thất bại trên mọi phương diện. Đôi khi Hồ có thương hại Công nhưng chàng không muốn phí thì giờ chỉnh đốn Công. Theo chàng, Công đã là một căn bệnh không thuốc chữa. Học hành thì khoá nào Công cũng đóng tiền rồi giữa khoá lại bỏ gần hết, GPA không lên nổi trên 2. Đã mấy lần trường gửi thư cho Công cơ hội chỉnh đốn việc học nhưng rồi đâu lại vào đấy. Bạn bè thì Hồ không đếm được bao nhiêu mà nói trừ bạn gái ra. Công xấu trai, rất xấu trai, mặc dù Công có được dáng cao lớn nhưng Hồ để ý thấy không có cô nào muốn chơi với Công. Lúc này Hồ lại thấy Công quen toàn là những cô Tàu, Đại Hàn hay Phi Luật Tân, nhưng cũng chẳng kéo dài bao lâu. Hồ biết Công mặc cảm về điều đó nhưng chàng không muốn dính dáng đến, dù chỉ là một lời khuyên hay trấn an. Dĩ nhiên chàng không trách thói quen xài tiền phí của Công được. Gia đình Đạm giàu có tiếng ở Sài Gòn. Của hồi môn của Đạm gồm nhiều thứ nữ trang mà chính Hồ còn ngạc nhiên khi nhìn thấy. Công là con út nên sự cưng chiều của mợ Công dần dà biến thành loại vì trùng nghiệt ngã khoét sâu vào con người Công. Đã nhiều lần Công dọn ra khỏi nhà, lấy cớ mình lớn cần tự lập nhưng chỉ được vài tháng lại dọn về. Cũng có khi Công tỏ vẻ hăng hái muốn tìm việc làm để không phải mang tiếng là ăn bám, nhưng cũng chỉ kéo dài được dăm ba tuần thì bị đuổi, phần lớn là vì lỗi của Công. Hồ cũng chẳng buồn để ý đến Công với những chuyện gấu ó. Chàng không muốn mang tiếng dính dáng vào chuyện gia đình vợ, hơn nữa, Hồ tự cho mình không có trách nhiệm hay bổn phận gì với Công, một thanh niên gần hai mươi tuổi. Đôi lần Hồ có ý trách móc Đạm để phòng Công trống không ích lợi. Công dọn đi dọn về trăm lần, trong khi đứa bé sắp ra đời rồi sẽ lớn, cần một phòng riêng. Mỗi lần hai vợ chồng tranh chấp về phòng Công là mỗi lần Đạm buộc tội Hồ không thương Đạm. Hồ chẳng hiểu Đạm dựa vào đâu để kết luận một cách ngộ nghĩnh buồn cười như vậy. Chàng chỉ muốn Công dọn ra hẳn hoặc có thái độ dứt khoát để Hồ còn toàn tính cho con mình. Những lúc Đạm rầy rà Công, Hồ tưởng Đạm nghĩ như mình nhưng chàng đã lầm. Đạm rầy rà Công trước mặt nhưng lại mãnh liệt bênh vực em sau lưng. Lắm lần Hồ cười Đạm rằng Đạm tối mắt trong tình cảm, cho dù Đạm biết rõ hơn ai hết sự hư hỏng của Công, nàng vẫn sẵn sàng che dấu mọi thứ với tất cả mọi người kể cả Hồ là chồng Đạm. Sau đó, Hồ lại hối hận đã nói thẳng tim đen của vợ mình. Dù sao, Đạm chỉ có mỗi Công là em, giữa hai chị em lại là khoảng thời gian khá dài, mười năm, Đạm nửa như chị, nửa như người mẹ thứ hai của Công. Và cứ thế, Đạm cũng chìm Công không khác gì mợ của Đạm. Hồ cũng tự đắc nhờ mình mà Đạm  có mở mắt đôi chút để bớt nuông chìu em, đẩy Công ra để Công rán tự lập. Hồ cho rằng công của mình trong việc uốn nắn Công đã bị mọi người bỏ quên, không có chàng chắc chắn Công còn xuống dốc thể thảm hơn nữa, nhất là từ khi cả nhà đặt chân lên xứ này.

Hồ ngừng xe nơi ngã tư, đèn đỏ sáng rực. Hai cô gái vừa đi vừa nhún nhẩy theo điệu nhạc vẳng ra từ chiếc radio cầm tay. Hồ nhìn theo hai gương mặt con nít đầy son phấn, quần áo màu sắc sặc sỡ. Con mình không thể nào giống như vậy được, Hồ nghĩ thầm. Chàng chép miệng nói với Đạm.
- Em thấy hai cô nhỏ đó em có sợ không?
Đạm lắc đầu.
- Có gì mà sợ? Hai con bé con diện có phần quá đáng đôi chút chắc là mới tập tễnh dùng son phấn mới loè loẹt thế kia.
- Thế mà em không nghĩ ra sao? Ăn mặc thế kia, đi nhún nhảy như thế, miệng chưa ráo sữa mà đã bày đặt này nọ, chỉ tổ  làm cha mẹ thêm đau tim mà thôi.
Đạm có vẻ thờ ơ.
- Ăn nhằm gì mình. Con thiên hạ thì thiên hạ lo, có phải con mình đâu mà anh lo quàng.
Chú Hoà ngồi phía sau vọt miệng.
- Con nít xứ này chú trông ghê quá. Mới mười ba, mười bốn mà đứng muốn cao hơn mình cả đầu, xe cộ lái như đi ăn cướp, đầu tóc nhìn cứ tưởng như chưa bao giờ nghe đến cái gương cái lược là gì. Chú cũng chẳng hiểu sao bố mẹ chúng lại chịu được. Con chú mà thế là chú từ nó ngay. Làm nhơ danh cha mẹ.
Đạm nhìn Hồ như có ý trách sao lại khơi chuyện cho chú nói.
- Dân xứ này hết trọng đàn bà lại đến trẻ con đến chó mèo. Chú thấy ngứa mắt thêm thôi. Người nào có địa vị người nấy, chó mèo chỉ là súc vật, trẻ con chỉ là con nít con nôi, chúng biết gì mà đòi này đòi nọ. Trứng đòi khôn hơn rận sao được. Còn đàn bà thì lo bếp núc, bày đặt đòi bình đẳng bình quyền, mãi rồi sanh loạn chúng mày xem, chú nói không ngoa đâu. Ông bà mình xưa đã dạy thế, thì mình cứ thế mà thi hành. Trong nhà trước sau đâu ra đấy thì xã hội không thể nào trụy lạc được. Con phải biết bố mẹ trên đầu, vợ phải biết nép mình nghe chồng, học trò phải biết kính thầy cô. Xứ gì hở ra là bố mẹ thưa trường, thưa thầy cô, thế thì làm sao lũ trẻ trọng thầy cô lo ăn học được. Con Tâm nhà chú, về nhà cứ than phiền lương thấp với lại lương cao so với mấy tên đàn ông cùng sở. Chủ bảo nó có "dốp" là may lắm rồi, ở đó còn so đo kỳ thị nam nữ. Đừng có bắt chước mấy con Mỹ đòi này đòi nọ, chúng đuổi thì đói cả lũ. Đàn ông con trai thì tháo vát hơn đàn bà con gái, lương cao hơn là phải, kỳ kèo nữa là thế nào.

Chú Hoà chắc lưỡi, lắc đầu. Đạm có cảm tưởng như là chú đang bênh vực cho cả một nam phái sắp hàng sau lưng chú. Nàng nghe ngột ngạt khó chịu với ánh nắng gay gắt xuyên qua kính xe. Đạm quay kính xuống một tí. Gió ùa vào vù vù.
- Gió làm chú khó chịu không? Cháu mở kính xe cho dễ thở một tí.
Chú Hoà lắc đầu.
- Không, không sao cả. Chú cũng muốn ngộp thở. Xứ gì kỳ quá. Đóng kín cửa thì ngộp, mà mở kính thì lại gió lạnh. Chỗ thì sương mù kín mít chẳng thấy đường sá đâu cả, chỗ thì lại nắng chang chang. Cái thành phố này chú trông nó quái đản làm sao ấy. Phong thổ như thế chẳng trách người ngợm cũng không ra gì. Cái đất ở ảnh hưởng con người ghê lắm đấy, chúng mày có nhận thấy thế không?
Đạm và Hồ gật gật đầu không nói. Chú Hoà gần như độc thoại suốt đoạn đường còn lại. Chúng mày không thấy mấy thằng "ghê" đó sao. Chúng nó tụ về đây là phải. Đất đai phong thổ chướng thế này, chúng nó cũng chẳng phải là giống người. Nếu ai cũng như chúng thì diệt chủng còn gì. Bồ bịch gì lại là đàn ông với nhau. Trông chướng không thể tả. Xứ thanh bình quá nên đâm ra loạn là thế. Sống yên ổn quá rồi bày đặt. Xứ chiến tranh như mình làm gì có thì giờ nghĩ vẫn nghĩ vơ, bệnh tâm lý với lại phân tâm học. Đi ngược với thiên nhiên thế chẳng chóng thì chầy, xứ này diệt chủng. Hồ cười thầm khi nghe chú Hoà nói thế. Xứ này có diệt chủng cũng vài trăm năm nữa! Sợ chú Hoà biết mình đang cười, Hồ làm mặt nghiêm nhìn thẳng lái xe. Chú Hoà tiếp tục thao thao. Đạm thở dài  mệt mỏi. Chú Hoà nói nhiều câu Đạm không đồng ý và nàng muốn cãi lại. Đó là cái tính xấu của Đạm, mỗi khi ai nói câu nào không vừa ý với quan niệm của Đạm là nàng nhất định cãi lại cho bằng được. Từ lúc có mang đến giờ, nàng cố tập cho mình bớt cái tính đó. Nàng muốn đứa bé con sinh ra tính tình đằm thắm dịu dàng. Đạm che dấu không muốn Hồ biết rằng nàng muốn con gái hơn là con trai. Con trai, nàng chỉ sợ nó giống Công, dù sao, máu huyết của nàng, làm sao tránh khỏi? Hồ cười nàng lo nghĩ viễn vông nhưng Hồ nào biết rằng Đạm không thể tránh được ý nghĩ buộc tội mình, buộc tội Công. Công đã mất rồi nhưng lời nói đùa vẫn ám ảnh Đạm, nặng nề hơn bao giờ hết. Thế nào chị cũng có con trai, mà con trai thì phải giống em mới được, đừng giống anh Hồ, cứng đơ lạnh lùng như khúc gỗ, nó phải giống em, nhiều tình cảm. Đạm không muốn con mình giống Công. Công là món nợ Đạm vừa thoát khỏi, một thứ nợ buồn phiền chua chát hơn là quấy rầy phá rối

Đạm sực nghe chú Hoà nhắc đến tên Công, nàng lắng nghe.
- Cái thằng cũng kỳ. Chú nói gì nó cũng cãi lý cho bằng được, giống con Đạm như hình với bóng. Nó bảo chú cổ hủ như cái bình tích. Cái thằng, ăn nói ngang không? Nó bênh mấy thằng "ghê" bạn nó đó mà. Nó kêu đấy chỉ là bệnh thôi. Bệnh gì? Bệnh thì có thuốc chữa. Nó lại cãi ong óng rằng bệnh tâm lý, phải chữa bằng tâm lý, thế này thế kia, xứ tự do, ai muốn sống sao thì sống. Đời sống cá nhân khác đời sống xã hội. Úi giời, thằng Công dùng toàn chữ kêu như sáo ấy. Con Đạm cũng thế.
Đạm bực dọc, bỗng dưng chú Hoà lại bảo là Công giống nàng.
- Công nó giống cháu là thế nào? Chị em giống nhau là chuyện thường tình, nhưng đâu có nghĩa là cứ anh chị em thì phải giống nhau. Cháu thấy nhiều anh chị em tính tình một trời một vực.
- Đấy, đấy. Chú Hoà cười sằng sặc, chú có nói ngoa đâu. Chị em chúng mày ưa cãi lý lắm, giống chị Cả. Cái này là từ chị Cả mà ra. Gì cũng cãi cả, tánh nóng như lửa ấy. Gì không hài lòng là nói ngay. Đuối lý vẫn cố cãi như thường, cãi chầy cãi cối cũng tiếp tục cãi.
Đạm liếc chú Hoà một cái.
- Cháu cãi chú bao giờ. Chú bảo thằng Công giống cháu. Vâng nó giống cháu, giống là giống mặt mày tướng tá chớ còn tính tình thì không. Nó không biết lo, không biết suy nghĩ sâu xa, thích lo cho bạn bè hơn là gia đình thân thuộc.
- Tại nó nhiều tình cảm. Hồ buộc miệng.
Đạm quay qua Hồ, có vẻ gây sự.
- Anh bảo nhiều tình cảm là sao? Nhiều tình cảm thì phải thương gia đình trước chứ nhiều tình cảm để người dưng có lợi à?
Hồ vả lả.
- Anh nói nhiều tình cảm nhưng đặt không đúng chỗ.
- Anh nói thế mới phải. Đạm có vẻ vừa lòng với câu nói chữa của Hồ. Nó ngu nên chỉ biết bạn bè. Bây giờ nó chết rồi, đem theo được đứa bạn nào nói em nghe thử. Nhiều lắm là dăm bữa rồi tụi bạn nó cũng quên. Ai ngồi đó thương tiếc nó suốt đời? Cái thằng nhiều tình cảm mà ngu. Nói gì nó cũng chẳng hiểu được mình. Nói gì nó cũng bảo là mình khó chịu, bảo thủ. Nói gì nó cũng bảo nó là em chứ không phải là con mà mình muốn đặt đâu nó phải ngoan ngoãn ngồi đó. Mình lo cho nó mà cứ bảo là mình xen vào đời tư nó.

Mắt Đạm long lanh ướt. Giọng nói bắt đầu muốn nghẹn.
- Mình nghĩ tốt cho nó, phải biết chuyện của nó mới phụ nó giải quyết được, nó lại bảo mình nhiều chuyện, đời nó để nó lo. Còn lên giọng giải thích, nó là nó, mình là mình, độc lập. Không ai có quyền ảnh hưởng ai. Bảo nó lo đi học thì nó lại gân cổ rằng đi học như chị xong ra trường đi làm, chỉ có thế thôi, cuộc đời gì mà chán nản, phí phạm. Hỏi nó muốn làm gì với đời nó thì nó bảo sống.
Sống như thế nào mới được chứ? Đâu phải chỉ nói sống là đủ. Sống bằng gì? Phải thực tế chứ, mợ đâu sống hoài để nuôi nó đi chơi. Cuộc đời đâu đo bằng bạn bè hay bồ bịch. Cái thời trung học ngu dại đã qua rồi, nó phải biết thế, phải nhận thức thế. Cái thằng cứng đầu. Nói êm dịu nó chẳng thèm nghe. Làm dữ thì nó giận hờn bỏ đi. Dù gì đi nữa, nó phải hiểu nó là em, có lo cho nó, có để ý đến nó, mình mới rầy la nó. Không hiểu sao nó lại dại đến thế, đi tự tử làm gì? Khối người muốn sống lại không được sống, trong khi nó có mọi thứ quanh mình.
Chú Hoà không dằn được, lỡ lời.
- Đã bảo nó điên gì đi tự tử, phải có người khác nhúng tay vào. Biết mình nói hớ, sẵn trớn, chú Hoà nói luôn cho hết ý nghĩ của mình rồi ra sao tính sau. Người ta ai chẳng ham sống huống chi nó còn trẻ, còn ham sống thì không có cớ gì để nó tự tử cả. Có ai hờn anh chị mình chuyện la rầy nhỏ nhặt đi tự tử bao giờ. Thử tưởng tượng ra nó đứng đấy, gió lạnh vù vù, chưa kể đi bộ bao xa mới ra đến giữa cầu? Không ai thấy nó đi sao? Vô lý lắm. Nó phải đậu xe gần cầu rồi đi bộ dọc theo cầu. Trong khoảng thời gian đi như thế, thánh cũng phải nguôi cơn giận. Chưa kể nhìn xuống nước biển xa tít mù, gió ào ạt, thằng Công làm gì đủ gan để ra đó nhảy xuống.

Đạm nhăn mặt, cố tránh cơn nôn ngấp nghé tới cổ họng. Mặt Đạm dần dần xanh mét theo cái xác rửa nát tưởng tượng trong trí qua từng lời nói của chú Hoà. Đạm nhắm mắt, như chợt thấy rõ ràng dáng Công đi lửng thửng trên cầu. Đạm lại mở mắt, chung quanh nàng mờ ảo như sương mù lấp đầy trong xe, nàng nghe ngộp thở. Dáng Công nghiêng nghiêng trèo qua lan can cầu, đứng cheo leo. Đạm thở mạnh dồn dập, nàng choáng váng như vừa uống một ly rượu mạnh. Hình ảnh  Công nơi cầu không thay đổi. Đạm muốn đưa tay giữ em mình lại. Quá trễ, Công đã nhảy xuống, gió vù đưa xéo vào chân cầu xi măng. Trong khoảnh khắc, Công lại trôi lên, mặt mày rửa nát, chỉ còn mấy hố sâu, hàm răng nhe mất môi trên như đang cười, quần áo te tua rách bươm. Cá rỉa, cá rỉa. Đạm nhắm mắt, buông mình theo tay níu của Công.

Chú Hoà rướn người lắc vai Đạm. Tỉnh dậy Đạm, Đạm, sao kỳ thế này. Hồ ơi! Chạy nhanh lên, về nhà đi, không, chở nó vào bệnh viện luôn. Nó bất tỉnh rồi.
Hồ nhấn ga, đưa tay mặt sờ Đạm, tay nàng lạnh ngắt. Mặt Đạm xanh mét. Hồ mở cửa kính xuống cho ít gió lùa vào xong đóng lại. Chàng lái xe thẳng vào bệnh viện trên đồi gần nhà. Mắt Hồ chai cứng với cơn giận. Chú Hoà tránh không nhìn Hồ cho đến mười mấy giờ sau, khi cả hai cùng đứng trước phòng trẻ sơ sinh.
Nhìn đứa bé trai mắt nhắm kín đỏ hỏn, chú Hoà vỗ vỗ vai Hồ.
- Lên chức bố rồi đấy nhé. Chú có người gọi bằng ông rồi. Tóc nhiều thế kia, tướng tốt. Tốt. Tốt.
Hồ chẳng hiểu sao chú Hoà cứ lập đi lập lại chữ tốt. Chàng đang vui sướng với chữ bố nên cảm thấy vị tha. Hồ muốn xá tội cho tất cả mọi người, kể cả chú Hoà, kể cả Công.


Nguyễn Thị Ngọc Nhung


--------
Nguồn: VĂN
Số 28, tháng 10-1984
















Friday, December 1, 2017

VÔ CHÙA THĂM MẸ



Nguyễn Thạch Giang



Thanh vô chùa thăm mẹ trước khi đi sang tiểu bang khác sinh sống, ráng lo tu tỉnh làm ăn, mong cuộc đời sau này sẽ khá hơn. Chứ còn ở đây quanh năm suốt tháng nhậu nhẹt cờ bạc, bỏ hoài không được.   Mẹ anh đã đi tu từ lâu sống trong chùa. Mẹ anh nay là sư cô Diệu Lam.
Hôm nay là ngày rằm lại nhằm thứ bảy, chùa đông nghẹt người đi lễ, parking không còn chỗ Thanh phải đậu xe ngoài lề đường gần đó, đi bộ vào chùa.
Thanh đi vòng ra phía sau hậu liêu chỗ mẹ ở, không thấy bà anh bước lên chánh điện sư thầy đang thuyết pháp, thiện nam tín nữ ngồi kín gian phòng. Anh bước ra sân thì thấy dáng mẹ đứng đàng xa bèn gọi lớn:
- Má, má! Sư cô Diệu Lam!
Sư cô thấy thằng con mừng rỡ, và theo thói quen, bà chấp tay:
- Nam mô a di đà Phật.
Anh con lúng túng. Con gọi má được không? Hay là phải kêu sư cô.
Sư cô im lặng giây lát, gương mặt thoáng vẻ buồn. Má đã vào chùa quy y, từ lâu đã không còn vướng bận chuyện đời, thôi con cứ gọi má là sư cô.
Anh con thấy mẹ mặc áo lam, đầu cạo trọc đội nón nỉ, dáng điệu khắc khổ của một người tu hành, lòng chợt buồn nói ngập ngừng...
- Con sắp đi qua Florida ở, có hai vợ chồng người bạn mới mở tiệm nail, kêu con qua bển họ giúp dạy nghề. Con cũng muốn đi thay đổi chỗ ở một thời gian coi có khá hơn không, chớ còn ở đây hoài...
Chợt có người dưới bếp đến nhờ sư cô Diệu Lam phụ giúp sửa soạn bữa ăn cho khách. Bà nói Thanh vào chánh điện lạy Phật, chút xong việc bà trở lại.

Nhìn dáng mẹ già nua còm cõi còn phải lăng xăng làm việc cả ngày Thanh cảm thấy buồn vô hạn. Tự nghĩ mẹ vào chùa cũng bởi lầm lỗi của mình. Bao năm qua chỉ biết ăn chơi nhậu nhẹt trai gái cờ bạc. Qua Mỹ đã hơn hai mươi năm mà trong nhà bank không có lấy một đồng, không có được chiếc xe để đi coi cho ra hồn. Lúc mẹ còn ở nhà, ngày ta ngày tết chẳng biết mua một món quà gì cho mẹ, tiền bạc bà có bao nhiêu cũng rút rỉa.
Thanh bước đến tượng Phật Bà Quan Thế Âm ở góc vườn đứng chấp tay cầu nguyện. Anh cầu xin ơn trên phù hộ độ trì cho mẹ là sư cô Diệu Lam luôn mạnh khỏe, anh cầu nguyện cho mình sang Florida gặp nhiều thuận lợi. Thanh bước vào chánh điện lạy Phật, muốn đọc một hồi kinh sám hối mà không thuộc bèn lạy ba lạy rồi bước ra ngoài.

Sư cô Diệu Lam trở lại kêu Thanh vào hậu liêu ăn bún bì chay. Bà còn múc một bình nước súp chay nấu bằng các loại rau củ cho Thanh mang về. Bà nấu ăn rất khéo, biết làm nhiều món chay, cả ngày phụ dưới bếp.
- Con ăn no chưa? Muốn ăn thêm nữa không?
- Dạ không, con no rồi. Má làm công chuyện cả ngày có mệt không?
- Không con, mà chỉ làm lắc xắc công chuyện nhẹ nhàng. Chừng nào thì con đi?
- Dạ tối thứ năm, đi máy bay, chiếc xe con bán rồi.
Bà ngồi im trầm ngâm, đôi mắt đượm vẻ buồn buồn.
- Con qua đó ở với ai? Con nói qua đó làm nail? Mà con có biết làm không?
- Chỗ đó là Ocala, thành phố nhỏ miền trung Florida, con ở tạm với gia đinh người bạn. Tụi nó giúp con thi lấy bằng rồi tập cho con làm.
- Thôi con ráng lo làm ăn, tuổi ngày một lớn, còn phải tính việc lập gia đình chớ lông bông như vầy hoài sao.
- Dạ.
Bà ngồi trầm ngâm nhìn thằng con mặt mày hốc hác thân hình tiều tụy xác xơ. Đứa con mà bà rất thương yêu, đứa con khi còn trẻ rất ngoan mà ngờ đâu lớn lên lại vướng vào đường nghiện ngập.
- Má ngày nào cũng cầu xin Đức Phật giúp cho con thay đổi.
- Dạ, con thật là có lỗi.
Nhìn thằng con khi biết lỗi thì đã thân tàn ma dại, bà cảm thấy tội nghiệp cho nó thời gian qua bị anh chị ghét bỏ, sống lủi thủi một thân một mình sớm tối đi về không ai thèm ngó tới.
- Qua đó sống với người ta, tiền nhà tiền ăn phải lo cho đàng hoàng, không phải như ở nhà lúc có lúc không. Ăn xài vừa phải, rán dành dụm chút đỉnh, đừng ăn trước trả sau mượn nợ mượn nần trả hoài không dứt nhe con.
- Dạ.
- Anh chị của con lúc nào cũng yêu thương con, con đừng hờn trách, dù có thế nào thì cũng là anh em ruột thịt.
- Dạ con biết. Để con qua đó làm một thời gian để dành tiền về Việt Nam chơi một chuyến.

Bà mẹ nhìn thằng con giờ thay đổi, biết nhìn xa xa một chút chớ không như lúc trước sống ngày nào biết ngày đó.
- Ờ về đó chơi, kiếm vợ luôn, chú Tám hỏi thăm con hoài nói con về bển chú làm mai cho một cô.
- Má đi với con nhe.
Bà mẹ bật cười, vui lây cái vui của thằng con. "Biết có ngồi máy bay nổi không đây".
- Má bửa nay mấy tuổi rồi?
- Mày tệ quá! Không nhớ tuổi của má! 76 rồi con.
Anh con đứng dậy. "Thôi con về, má rán khỏe chờ ngày con kiếm tiền về đây dẫn má đi Việt Nam nhe".
Sư cô Diệu Lam cảm động ứa nước mắt chờ thằng con đi khuất trở vào đọc kinh lạy Phật.








Sunday, November 26, 2017

NỖI BUỒN CON GÁI



Nguyễn Thạch Giang



Jenny cảm thấy buồn quá cần đi ra ngoài một chút, ở trong phòng một mình hoài chắc phát khùng. Nàng đến quán cà phê chỗ Ty Na làm đem theo sách vở ngồi học bài, sắp thi học kỳ mà phát hiện ra người tình đang hẹn hò với người khác. Đã nói lời chia tay sao vẫn cứ buồn.
Nàng lựa bàn chỗ góc khuất cạnh cửa sổ, ngồi một mình lơ đãng nhìn ra ngoài tay cầm quyển sách mà đầu óc để đâu đâu. Ly cà phê đã tan hết đá mà vẫn còn nguyên, lâu lâu Ty Na chạy đến đưa miếng kẹo miếng bánh.

Nhứt mang đồ ăn trưa đến cho Ty Na, không quên mang thêm một phần cho bà chủ quán, lần nào cũng vậy. Nhờ nó biết điệu như vậy mà bà Thu Sương trở nên dễ dãi với Ty Na, khi nào nó tới hai đứa tự nhiên chuyện trò ăn uống thoải mái. Nó bước tới quầy tính tiền hỏi vậy chớ lễ này bà chủ không nghỉ đi chơi đâu sao. Bà Thu Sương chu cái miệng nói tỉnh queo: "Ai đồn lễ, ai đồn lễ ". Nhứt cười thầm trong bụng cái bà thích nói tục, nó nhìn quanh hỏi Hương hôm nay có đi làm không. Có, chiều vô. Hương cũng bằng tuổi Ty Na, là gái chưa chồng nhưng hợp với bà Thu Sương chỗ nói trây, lâu lâu tỉnh bơ rủ Ty Na lên núi bắt cọp. Lúc đầu Ty Na không hiểu hỏi thằng Nhứt chớ bộ trên núi này có cọp. Nó ôm bụng cười cho con ghệ của mình sao mà khờ quá. Cọp ở đây có sẵn khỏi cần lên núi.

Bà Thu Sương có cái tật hay để ý đến chuyện phòng the của người khác. Bà tự nhiên hỏi Ty Na vậy chớ hai đứa, đứa nào mạnh hơn đứa nào, không chừng bà còn hỏi hàng của nó là hàng hiệu hay hàng dỏm. Lúc đầu nó tưởng bà này chắc dâm đãng dữ lắm, ông chồng ốm nhách chịu sao thấu. Nhưng không, thấy vậy chớ không phải vậy. Bà thích nói tục nhưng không thích mấy cái chuyện đó. Từng tuổi này mà ổng còn sung lắm, một tuần đòi mấy lần. Nhưng tui không cho, đòi hoài không được ổng phải tự xử sướng một mình. Chuyện gì bà cũng kể cho Ty Na nghe, chuyện gì Ty Na cũng về nhà kể lại cho thằng Nhứt nghe. Chuyện bạn gái rủ rê hai đứa tay không đi bắt cọp cũng kể cho nó nghe.
Thằng Nhứt hỏi Ty Na ông Thu Sương có thả dê mấy cô làm trong quán không. Không, ổng sợ bả lắm không dám hó hé, mà ổng cũng khôn lắm, ra ngoài quậy chớ chỗ làm ăn phải giữ gìn. Bà Thu Sương giờ chỉ mê tiền, ngó lơ cho ổng muốn làm gì thì làm, miễn là tiền bạc có bao nhiêu đưa bà giữ. Ông Thu Sương là người giỏi kiếm tiền, buông cái này bắt cái kia, có hai ba căn nhà cho mướn. Bởi vậy bà Thu Sương lâu lâu phải cho ổng về Việt Nam "làm ăn". Bà hăm he ông mà lạng quạng tui cho ông đi ra cái mình không.

Thằng Tùng bước vô quán ngó dáo dát tìm thằng Nhứt xáp lại ngồi. Mày không có đi làm hay sao giờ này đi đâu đây. Thằng Tùng miệng nói mà đôi mắt nhìn lom lom đám thanh niên trẻ ngồi bàn gần bên đang chơi bài tiến lên. Hãng ế không có việc, em xin về sớm đi chơi, ngang qua thấy xe anh em ghé vô.
Thằng này có tật không cần che đậy hễ thấy trai trẻ là nhìn người ta thiếu điều rớt con mắt. Ê Tùng, cái kiểu nhìn của mày về Việt Nam chắc bị ăn đòn. Không có đâu, ở Việt Nam tụi nó chỉ ghét thằng có cái nhìn "đểu", em đâu có nhìn đểu, em chỉ nhìn xuyên thấu. Ừ, mày nhìn xuyên thấu mà lại thích nhìn mấy chỗ nhạy cảm. Thằng Tùng cười hê hê.
Mày ăn gì chưa, tao với mầy qua bên kia đường kiếm cái gì ăn. Thằng Tùng chợt thấy Ty Na và Jenny ngồi bàn xéo góc đang ăn gà chiên. À há! Phần ăn trưa của chàng hôm nay phải nhường cho bạn của người tình. Nó bước đến hello Jenny, hello Ty Na. Ty Na cho mình mượn anh Nhứt vài tiếng đồng hồ nhe. Ty Na nhoẻn miệng cười, tự nhiên, bao lâu cũng được, sáng đêm cũng được. Thằng Tùng chỉ chờ có vậy nói chêm thêm, ở đời muôn sự của chung. Hai đứa bước ra ngoài, thằng Nhứt gõ đầu nó, thôi đừng có ham nhe con.

Ăn vừa xong thì Ty Na gọi điện thoại rủ Nhứt và thằng Tùng theo Ty Na và Jenny đi "bắt ghen". Jenny muốn chỉ cho Ty Na biết "cái con nhỏ đó". Bốn đứa dẫn nhau vào khuôn viên trường đại học, vì là trường của Jenny nên nàng quen lối dẫn ba đứa đi thẳng đến thư viện của trường ngồi chờ ở đó.
"Con nhỏ đó" từ trong thư viện bước ra, từ đàng xa đã nhận ra là người Á Đông, nửa giống Tàu nửa giống Nhật Bản. Cô nàng chỉ được cái dáng cao chớ mặt mày tướng tá thua xa Jenny. Jenny bắt đầu bối rối tay chân quờ quạng. Nàng xoay qua hỏi Nhứt cho mượn Ty Na chút nhe. Thằng Nhứt làm thinh không nói, hồi nãy thì thằng Tùng mượn nó đi chơi chút, giờ thì Jenny mượn bồ của nó đi chơi chút. Hình như cái câu "ở đời muôn sự của chung " đang bị lạm dụng.

Jenny kéo Ty Na đến chỗ lối đi, nơi tình địch và người tình cũ đi ngang, nàng ôm Ty Na cố ý cho con nhỏ đó thấy. Và khi người tình cũ đưa mắt nhìn, nàng bỗng ôm Ty Na hôn đắm đuối. Không biết nụ hôn trả thù đời đó có làm nàng vơi bớt được nỗi buồn chút nào không.
Người tình cũ của Jenny cắt tóc ngắn mặc áo sơ mi quần jean, mới nhìn cứ tưởng là đàn ông, mà là đàn ông xấu trai, vừa mập vừa lùn. Thằng Nhứt lắc đầu, xấu như vậy sao Jenny thương được. Thằng Tùng nói người ta xấu mà người ta có nghề. Thằng này còn trẻ mà có nhiều kinh nghiệm. Có lần nó khoe với thằng Nhứt, mười bốn tuổi nó đã biết đi chơi, mười bốn tuổi là đã...mất nết.
Thằng Nhứt đưa Jenny về nhà, suốt quãng đường nàng khóc sướt mướt. Nhìn cô nàng bước đi  xiêu dẹo vào nhà, nó thấy tội nghiệp, không hiểu sao một đứa con gái xinh đẹp như thế lại khổ vì yêu.

Jenny vẫn còn buồn. Cuối tuần rủ Nhứt và Ty Na đi chơi, có thằng Tùng đi theo. Đi đâu cũng được, miễn là đi ra khỏi nhà cho nó qua cái cơn buồn. Trời còn sớm cả bọn dẫn nhau lên đỉnh đồi ngắm cảnh, nhìn xuống thung lũng xa xa phía dưới kia. Jenny muốn hút thuốc mặc dù cả bọn bốn đứa không đứa nào hút thuốc. Cô nàng biết trước thủ sẵn một gói Marlboro trắng. Nàng nghĩ khói thuốc sẽ mang đến cho nàng một cảm giác bình yên. Ty Na thì sẵn lòng chiều bạn, ai sao mình vậy. Làm quán cà phê hít khói thuốc lá suốt ngày, vậy mà giờ cầm điếu thuốc lại thấy lọng cọng.
Trời vừa sẫm tối, bốn đứa dẫn nhau đi ăn. Ăn xong, Jenny không muốn về nhà, rủ đi vô quán bar chơi. Thằng Nhứt rủ thằng Tùng đánh bi da, chừng trở ra thấy Ty Na và Jenny đang đứng nói chuyện với hai người đàn ông trên tay cầm ly rượu. Rồi, khi con gái buồn, hồi nãy thì hút thuốc giờ lại uống rượu. Nó buồn tình trở vô đánh bi da tiếp, lần này chơi một mình, thằng Tùng lấy rượu uống rồi đi lòng vòng cua trai.
Lúc nửa đêm thằng Nhứt thấy Ty Na mặt mày đỏ chói nói cười linh tinh. Nó nghĩ thầm trong bụng không biết uống mà bày đặt. Nó nói thôi đi về. Jenny cũng đã say rượu rồi. Thằng Tùng thì còn ham vui nói nó ở lại về sau. Mày gọi taxi về nhe con, đừng kêu tao đến đón.  Nhớ bảo trọng. Biết mà, anh đừng lo, em biết đi chơi từ lúc mười bốn. Biết mà, mày mười bốn là đã mất nết.

Trên đường về nhà, Ty Na và Jenny ngồi làm thinh, đôi mắt lim dim. Lúc nhìn cô nàng Jenny say rượu bước đi lảo đảo, nó chợt nhận ra con trai hay con gái lúc thất tình thì cũng giống như nhau.



Tháng 11-2017







Thursday, November 16, 2017

ĐỈNH HẢI VÂN



Diệu Tần



Lóng ngóng chờ xe đi nhờ vào Quảng Ngãi, trung uý Đỗ Thanh Đào, ban tham mưu một trung đoàn đóng ở miền núi Ba Tơ, vừa mệt vừa đói. Những nắm cơm cô em gái Đào nắm cho khi rời quê, Đào đã ăn hết nắm cuối cùng ở thị trấn Đông Hà này rồi.
Đào thấy một đoàn năm xe tải bộ đội có mui che kín mít phóng trên đường số 1. Mừng trong bụng, Đào đứng sát lề đường bụi dơ dơ tay vẫy xin quá giang. Gặp xe quân đội là không lo tiền vé xe, lại còn có thể đi thẳng đến thị xã Quảng Ngãi không biết chừng.
Từng chiếc xe phóng tung trời, trên buồng lái còn có bóng phụ nữ. Không chiếc nào dừng lại đón Đào cả. Kẻ lái chiếc xe sau cùng còn ngoái cổ lại, trợn mắt quát:
- Muốn chết hả? Sao đứng ra ngoài đường.

Đào chán nản vào mái hiên một quán ăn ngồi nghỉ. Khát khô cả họng, lại thêm bụi đường bắn vào miệng mũi làm Đào thở khèn khẹt. Dù gì cũng phải uống hớp nước, đói có thể cầm cự được chứ khát khó nhịn. Chiếc bình đông nước đem theo đã cạn, chàng trung uý đi phép về lại đơn vị, bước vào quán nói nhỏ với cô đứng trong quầy:
- Chị làm ơn bán cho tôi mấy trăm đồng nước chè.
Cô gái ngạc nhiên trả lời:
- Chúng tôi không bán nước trà, chỉ bán cơm thôi. Anh ăn cơm rồi uống trà khỏi trả tiền.
Đào nhăn nhó:
- Tôi ăn no rồi, chỉ cần nước uống thôi.
Cô gái nhìn ông khách bộ đội như nhìn một vật lạ:
- Anh đưa bình đây tôi lấy cho, khỏi trả tiền.
- Cám ơn chị nhiều.

Đào lại ra phía hè ngồi uống nước. Loáng thoáng Đào nghe một nhóm bốn người, một đàn bà, ba đàn ông từ quán bước ra, nói chuyện. Người đàn bà hơi đẩy đà có nước da thật trắng, cặp mắt lẳng lơ, dáng chừng là chủ xe, nói:
- Cơm rượu no đủ rồi, lái cho ngon lành nhe anh.
Người chồng:
- Bảo đảm, em thấy có bao giờ anh gây ra tai nạn không?
Một thanh niên, có lẽ là người em:
- Đi một lèo đến Huế hãy ăn cơm tối. Từ đó em sẽ lái thay anh.
Nghe được câu chuyện, Đào đứng bật dậy, hỏi người đàn bà:
- Thưa chị, chị làm ơn cho tôi đi nhờ vào Huế được không ạ?
Người đàn bà nhìn Đào từ đầu xuống chân như nhìn kẻ ăn mày:
- Xe chúng tôi chạy về Quảng Ngãi. Anh muốn quá giang cũng được.
Đào mừng quá:
- Xin chị cho theo vào Quảng Ngãi luôn. Cám ơn anh chị quá.
Người chồng nhìn Đào với vẻ nghi ngờ, cái nhìn đánh giá thật thấp:
- Chúng tôi đi còn ghé nhiều nơi, mất nhiều thì giờ lắm.
Chỉ sợ mất dịp may hiếm có, Đào cầu khẩn:
- Thưa đi bao lâu cũng được. Bộ đội quen vất vã cực nhọc rồi.
Người chồng không nhìn lại, tặc lưỡi:
- Ồ, muốn đi thì leo lên xe.

Đó là một chiếc xe tải cở  nhỏ, có càng bịt kín. Người phụ lái là Lợi và người em tên Cường cùng với Đào ngồi phía sau. Vợ chồng Hoa và Mai ngồi buồng lái.
Thế là gặp may, không còn lo chuyện đón xe đi nhờ nữa, lại được về đến Quảng Ngãi. Đào ngồi thở, nhớ đến tia nhìn của vợ chồng chủ xe lúc nãy. Ngẫm lại bản thân, Đào thấy mình bị đánh giá thấp cũng không có gì là lạ. Toàn con người Đào phủ một lớp bụi đỏ từ mũ đến đôi giày vải rách. Đào đã cẩn thận gở quân hàm hai sao vàng một vạch ở ve áo ra rồi. Chỉ còn cái mũ mềm trên đầu là không tháo được huy hiệu sao vàng trong vành tròn vàng ra được, cho người tinh ý biết Đào là sĩ quan quân đội nhân dân.

Khác với dự tính, để tranh thủ thời gian, họ không ghé thành phố Huế. Chiếc xe chỉ ghé lại ở một ngã tư trên quốc lộ. Bốn người vào quán ăn cơm. Lợi, người phụ xe hỏi Đào:
- Tối rồi, vào ăn cơm chứ?
Đào ấp úng:
- Mời các anh chị cứ tự nhiên. Tôi sẽ ăn sau.
Mai lẩm bẩm, nhưng Đào nghe được:
- Cái ngữ này không có tiền vào quán đâu. Kệ hắn.
Đào đói lắm, cũng phải mua tí cơm bỏ bụng chứ chịu gì nổi. Trước khi rời nhà cô em gái dúi cho Đào hai mươi nghìn đồng, tiền bán đàn gà.
- Anh ăn hết cơm nắm rồi mua cơm dọc đường kẻo đói chết.
Đào chưa mua cơm đã mua hết ba nghìn tiền thuốc rê Cẩm Lệ rồi. Tật hút thuốc rê của Đào là đầu mối bất hoà giữa người chủ xe và người đi nhờ xe.
Mùi khói rẻ tiền khét lẹt khiến Hoa phát ho, tuy mụ ta đã ngồi trên buồng lái. Mai quay lại hỏi:
- Anh hút thuốc gì khét quá thể. Làm ơn bỏ đi dùm.
Đào cố hút cho xong điếu thuốc. Mai lại nhắc:
- Làm ơn quay ra sau hút đi, thuốc gì hôi quá!
Đào bực lắm, nhưng ở thế kẹt, đành chịu. Một lúc sau nhảy ra xe, Đào chọn một quán nhỏ nhất, rụt rè  bước vào bảo nhỏ bà bán quán:
- Bà làm ơn bán cho tôi ba bát cơm trắng, tôi có thức ăn ngoài xe.
- Không bán cơm trắng anh ơi. Để cơm bán cơm dĩa cho khách. Anh ăn cơm dĩa đi, sườn hay gà.
- Thôi làm ơn mà, bộ đội về phép làm gì có nhiều tiền.
Bà quán lại ngó Đào như một quái vật vừa ngạc nhiên vừa thương hại. Trả một ngàn đồng lấy ba bát cơm trắng, Đào quay đi nghe được câu nói:
- Biết đi bộ đội ít tiền thì đừng có đi nữa được không?
Đào trèo lên sau xe, lấy muổng nhựa xúc cơm ăn ngấu nghiến. Bà quán thương tình người ít tiền đã rưới vào cơm cho một ít nước mắm pha. Đào ăn ngon lành, xong làm một hớp nước trà. Nhìn trước nhìn sau chủ xe chưa ra, Đào lấy điếu thuốc rê ra hút cho mau. Đang mơ màng, bốn người đã kéo ra xe. Mai hít thấy hơi khói, nhăn mặt khó chịu:
- Tôi đã nói anh đừng hút nữa. Anh muốn ngồi trên xe này thì nhịn thuốc đi,  còn thích hút, xin mời anh đón xe khác.
Tuy giận lắm nhưng Đào đành chịu, nói nhỏ và vất điếu thuốc đi.
- Xin lỗi anh, tôi không hút nữa.
Lợi móc bao thuốc lá Winston ra bảo:
- Này, bạn hút một điếu cho vui.
Trong đời, chưa bao giờ Đào dám hút một điếu thuốc thơm nước ngoài, run run đở lấy điếu thuốc có sợi vàng óng.
- Cám ơn chú quá, chú Lợi.

Cường cầm tay bánh thay cho Mai. Họ bảo Đào lên ngồi ca bin chung với Lợi, lấy chỗ sau xe cho vợ chồng Mai, Hoa ngủ. Đào tình cờ nhìn thấy Hoa xách xuống một túi vải căng phồng, đồng thời còn bắt gặp một khoảng đã thật trắng ở eo áo. Chàng trung uý độc thân rùng mình vì khoảng đã thịt ấy. Xe chạy một quãng, Đào nghe tiếng lục cục sau xe cùng tiếng cười rúc rích.
- Này đừng có lộn xộn, anh kỳ quá.
Tiếng cười đàn bà trẻ đối với Đào lúc này thật khêu gợi. Ngót bốn chục tuổi đầu vẫn chưa có tiền lấy vợ. Đào nghèo quá, nghèo rớt mùng tơi. Thèm lấy vợ nhưng đào đâu ra tiền? Lấy gái tân trẻ, đã không dám mơ đến, có một hai đám goá chồng, Đào gấm ghé, bị họ từ chối khéo. Chỉ vì lương trung uý phải sống rất chật vật. Ăn cơm trong trại, mặc quần áo bộ đội, hút thuốc rê, không bao giờ dám uống rượu và cà phê. Đào gầy và đen, tóc lấm tấm bạc, nhất là ở tóc mai, trông như người đã năm mươi tuổi. Ở vùng Ba Tơ, Gia Vực rất hiếm người Kinh, chỉ có các cô gái Thượng. Một hôm tình cờ nhìn được cặp vú to đen nhẫy, tròn căng của cô gái Thượng tắm vòi nước ngoài khe đá, Đào xúc động tình dục quá chừng. Từ đó Đào hay lò mò ra các khe có vòi nước.
Quay qua hỏi chuyện Lợi, do Đào biết chỉ có Lợi là không ghét mình.
- Các anh chị đi công tác đâu về đấy?
Cường hừ một tiếng:
- Công với tư tác gì. Thời buổi này còn đi công tác là đói dài dài. Cứ diễn vai công nhân, bộ đội hoài là đi tàu suốt.
Lợi trả lời thêm:
- Đem hàng ra Vinh bán ấy mà. Cất đường thẻ và đường phổi Quảng Ngãi ra bán cho các cửa hàng tư nhân ngoài ấy.
Cường lườm Lợi:
- Sao mau miệng thế? Bị chửi mãi vẫn cái tật không chừa.
Đào xì xầm nói chuyện với Lợi và Cường, chợt có tiếng nói ở phía sau:
 - Nói nhỏ cho người ta ngủ. Cả cái anh bộ đội nữa, không biết điều gì cả. Cho đi nhờ xe cứ oang oang cái mồm. Kỳ quá!

Đào phải im, không dám nói chuyện nữa. Tuy xe xóc, nhưng Đào cũng thiu thiu ngủ. Trong cơn chập chờn, loáng thoáng nghe Lợi và Cường thì thầm.
- Chuyến này ông Mai vớ bở.
- Có lời đến vài "tê" không?
- Cỡ độ năm "tê" là ít. Dân Hà Tĩnh, Nghệ An thấy đường như mèo thấy mỡ.
- Tay bộ đội này ngủ ngon lành nhỉ? Ông bà ấy cũng ngáy đều rồi.

Độ năm giờ sáng trời còn tờ mờ, Đào thức giấc. Tiếng nói chuyện vẫn rì rầm.
- Ông bà ấy du dương trên xe được tài thật!
- Lại muốn nghe chửi à?
Đào quay lại sau xe còn thoáng thấy bắp chân trắng mờ mờ của Hoa. Người cán bộ quân sự nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam lại lờ mờ chìm vào giấc ngủ. Trong cơn mê thấp thoáng bộ ngực đen bóng và bắp chân trắng ám ảnh. Đào thức giấc vì tiếng ho và tiếng Mai chửi:
- Cha tiên sư hai thằng quỷ không cho chúng tao ngủ, nói chuyện rầm rầm.
Cường bào chữa:
- Không nói chuyện nhỡ buồn ngủ leo xuống đèo là chết cả đám.
- Câm cái mồm mày lại, còn cãi hả? Còn cái người kia hút thuốc rê phun vải trong xe, hôi quá không ngủ được.
Đào thấy cần phải lên tiếng:
- Từ lúc anh dặn, tôi có dám hút nữa đâu!
- Không hiểu sao có người có thể hút thứ thuốc vất đi đó được. Bận sau gặp cỡ này, xin vái cả nón không dám cho đi nhờ.
Bị chạm tự ái, Đào phản ứng:
- Anh nói thế chứ, tôi ít tiền hút thuốc rê, anh có nhiều tiền hút thuốc thơm. Có gì lạ đâu?
Nghe giọng lý luận của đối phương, Mai càng tức:
 - Khi nào anh có xe riêng hay ngồi xe bộ đội, hút gì mặc xác anh. Còn đi xe tôi là không được hút.
Đào vẫn nén giận:
- Anh cho tôi đi nhờ, nhưng anh hơi thiếu lịch thiệp.
- Vậy đó, có tức thì đón xe khác đi. Chỉ cần lịch sự với người lịch sự thôi.

Nếu bỏ xe này, Đào nghĩ biết bao giờ gặp xe khác dọc đường bằng lòng cho quá giang lúc tờ mờ sáng này. Còn đúng mười sáu nghìn đồng trong túi làm sao đủ tiền mua vé xe hàng về đến đơn vị, chưa kể tiền ăn dọc đường. Đào đã phải nhịn ba năm rồi vay thêm tiền bạn bè mới đủ tiền vé một lượt về Thanh Hoá. Đào nói nhưng không rời khỏi xe.
- Tôi có làm gì bất nhã đâu, anh đừng nóng chứ!
- Không bất nhã à, vợ chồng người ta ngủ cứ bô bô cái miệng. Phun khói hôi như chuột chết vào xe người ta, còn lý sự cùn.
Đào giận tím mặt, không nói được câu nào nữa. Hoa lên tiếng:
- Thôi người ta im rồi, sao anh nóng quá. Thôi, nằm xuống nghỉ đi cưng.

Có tiếng hôn và tiếng cười khúc khích của Hoa. Đây là lần và chạm mạnh và lâu với đời thường bên ngoài. Ở ngoài đời người ta sống thoải mái nếu có tiền. Ăn uống phủ phê, rượu, thuốc lá thơm, đàn bà đẹp lại có cả túi tiền. Ăn ngủ đi lại tuỳ tiện. Còn Đào, nếp sống đơn vị chẳng những chật vật vì đồng lương, còn sống lên gân, giả tạo. Bỗng Đào thấy mình bị lừa dối kinh khiếp. Cơn giận của Đào không bùng lên bằng lời nói được. Nước da đen tái lúc giận chuyển sang màu tím xanh như người chết vì  bị sét đánh. Phải nén giận làm bàn tay Đào run run, hai cánh môi cũng run run. Bất giác Đào đụng phải bao súng cứng trong túi xách. Chắc phải nổ súng mới hả được giận. Đào không đeo súng, đã cất đi, nghĩ rằng nếu đi xe quân đội hay xe hàng mới tiện đeo quân hàm và đeo súng hẳn hoi. Trong giấc mơ vừa rồi thân thể hở hang phụ  nữ đã làm Đào dâng lên một thèm muốn khó tả. Đang bị dồn nén, ẩn ức cả về nghèo đói, tiền bạc, bị lừa bịp bằng lời nói, lại bị những lời xỉ vả của một kẻ đắc thế. Mặt Đào nóng bừng bừng. Hoa lại dại dột hôn hít vuốt ve chồng, Đào cho đó là một xúc phạm, cũng như Hoa đã khơi động nỗi đau thầm kín của Đào là đã vô tình để hở những khoảng da thịt kêu gọi. Đào chợt nhớ đến cái túi xách căng phồng, lúc nào cũng được đeo sát người Hoa, kể cả lúc đi ngủ.
Lời năm triệu, ít nhất cũng phải có gấp đôi như thế tiền vốn. Đột nhiên ý định giết người lại bùng lên. Một công hai việc. Phải giết thằng chồng đã dám hỗn hào chửi rủa mình. Từ khi đeo quân hàm sỹ quan đến giờ, chưa bao giờ Đào bị xỉ vả nặng thế. Luôn luôn được nghe lời khen tặng, tâng bốc, nịnh bợ,  tuy biết là giả dối, từ nhân dân và anh em đội viên. Sẽ lấy túi tiền trốn về quê trở lại, ai biết được. Ông bố đã ngoài bảy mươi ốm yếu. Đứa em gái làm nông không đủ sống. Nó không đẹp lại nghèo không lấy được chồng. Ít nhất trong túi kia phải có mười triệu đồng. Giời ơi! Chưa bao giờ Đào có trong tay một trăm nghìn chứ đừng nói mười triệu đồng. Sẽ đem tiền về quê kéo ông bố và đứa em gái trốn ra Hà Nội hay Hải Phòng, thay tên đổi họ, xin thường trú, vào hộ khẩu đút lót độ mười vạn đồng là xong.

Thấy ánh mắt kỳ lạ của Đào, Lợi vỗ vai:
- Này hút điếu thuốc thơm cho đỡ buồn.
Hơi thuốc thơm, Đào bớt run tay, nhưng vẻ sang quý của điếu thuốc lại càng thúc giục ý định phải nổ súng.
Cường cho xe ghé Lăng Cô để ăn sáng, trước khi leo đèo. Khác với dự đoán của bốn người, Đào đường hoàng bước vào quán, ngồi bàn riêng lặng lẽ gọi một tô bún bò và một ly cà phê sữa nóng. Trước khi đoạt mười triệu, còn mười sáu nghìn lẻ tiêu cho hết. Khi Đào ăn thêm chiếc kẹo mè xửng,  mua đem theo hai đòn bánh tét rồi cho hết tiền lẻ chủ quán là lúc số phận Mai, Hoa, và  Cường đã được quyết định. Đồ ăn thức uống thơm ngon thế này tại sao nửa đời người mình cực khổ nhịn thèm như một nhà tu? Nhưng phải tha thằng Lợi, chú em dễ thương, đã biết mời mình hai điếu thuốc thơm.

Từ lúc lên xe để leo đèo không ai nói chuyện nữa. Đào ngầm quan sát chờ cơ hội, chờ địa thế tốt. Hoa bám chặc cánh tay Mai bước lên xe. Thằng Cường nhìn Đào vẻ chế nhạo, nghèo mà ham. Lợi thì thắc mắc không hiểu sao Đào lại ăn sang thế. Theo lệnh Mai, Lợi ra sau xe để Cường lái không bị vướng víu. Gió thổi vù vù, tay lái Cường khá vững. Hắn phanh ken két ở những khúc quanh gắt. Mùi thuốc thơm phảng phất. Đào quay ra hít thở không khí trong lành bên ngoài. Mây và sương còn phủ kín đỉnh đèo. Sương là đà xuống ngang mắt Đào, mát lạnh. Những giải mây từ trên cao như những giải lụa trắng. Cuộc đời trong sáng đẹp biết bao! Cảnh vật hùng vĩ biết bao, tại sao phải sống nghèo? Nghĩ đến cái nhục qua những ánh mắt khinh rẻ, thương hại, những câu chì chiết nặng nề, Đào lại bừng bừng nổi giận. Vỗ vỗ vào túi xách rồi mở sẵn nút cài, Đào yên tâm khẩu P38 vẫn nằm bên trong. Đến một khúc có đất rộng bằng phẳng, Đào cúi xuống thật nhanh rút súng lên đạn dí vào nách Cường gằn giọng:
- Đến chỗ kia đậu lại nếu không tao bắn mày ngay.
Cường kinh ngạc tột cùng, cho xe đậu lại chỗ Đào muốn.
- Tắt máy đi.
Cường theo lệnh nhưng lại phác cử chỉ chống đối bị bắn ngang hông gục trên tay lái. Đào tung cửa chạy vòng ra sau, không nói không rằng nhắm bắn Mai trước lúc hắn định nhảy xuống cửa sau xe. Sức Mai khá mạnh bị trúng ngực nhưng vẫn nhào vào Đào. Đào ngã nhưng chồm dậy đuổi theo Hoa đang lạch bạch chạy xuống dốc. Một phát vào đầu, nạn nhân chết ngay. Đào chạy trở lại xe, Mai vẫn chưa chết hẳn, được tặng thêm một viên kết liễu. Chừng đó thời gian đã đủ cho Lợi chạy được một quãng xa. Đào dơ tay gọi loa:
- Tha cho chú, chú Lợi.

Lợi cắm đầu chạy về phía Lăng Cô. Quay về xe Đào giật lấy cái túi vải. Mở ra Đào loá mắt, tiền 1000 và 5000 đồng đầy ăm ắp. Thay băng đạn khác vì đã bắn đi bốn viên. Tiếng súng nổ nghe đanh và lạnh, buổi sáng vắng lặng đã vang đi xa.

Giám đốc công an Thừa Thiên-Huế, đại tá Nguyễn Hồng Bàng đích thân chỉ huy cuộc vây bắt hung thủ. Lão huy động một lực lượng hùng hậu gồm cảnh sát điều tra, cảnh sát đặc nhiệm, có vũ trang tiểu liên, cảnh sát giao thông và hình sự kinh tế. Đồn bộ đội biên phòng trên đỉnh đèo cùng phối hợp với cảnh sát, cộng thêm công an huyện Phú Lộc và xã Lộc Hải. Bàng còn gọi máy xin công an Quảng Nam - Đà Nẵng tiếp tay vây ở phía Liên Chiểu. Lão bố trí các ổ mật phục, người đón lõng ở các ngã đường, bến xe, ga xe lửa, phối hợp với bao vây truy lùng. Bàng quyết bắt cho được Đào để lấy tiếng, bởi lão đang nhắm vào ghế trưởng khối hình sự kinh tế, một chỗ hái ra tiền và có cơ được lên tướng.

Quá mệt, Đào lẫn vào một khe suối cách đường nhựa vào khoảng ba cây số, còn nghe tiếng xe chạy vi vút bên ngoài. Giở túi ra đếm được tất cả 14 triệu 780 nghìn đồng, con số vượt xa ước đoán của Đào. Đào chưa có đủ thời giờ để hối hận, còn quá sung sướng với số tiền quá lớn. Niềm sung sướng trộn lẫn với lo lắng làm sao trốn thoát và bảo vệ được số tiền. Có đầu óc quân sự, Đào tính như sau: Chúng nó sẽ bao vây và chú trọng mặt Bắc, mặt Lăng Cô cho rằng mình sẽ đi xuôi xuống đèo để trốn về Thanh Hoá. Vậy mình sẽ vượt tắt đường đèo đi về phía Nam, nhưng cuối cùng Đào lại đổi ý, vì đi về Nam lại càng xa quê hơn, thêm khó ra. Đào uống hớp nước rồi tiếp tục vượt suối leo đèo lướt lên lau lách. Sẽ phải thay hình đổi dạng, thuê cho được xe, bất cứ xe nào, đi cho khỏi địa bàn Thừa Thiên. Khỏi Thừa Thiên coi như đã thoát, Đào sẽ ghé từng thị trấn mua vàng lá, rồi thuê xe con trốn về quê.
Cơn giận qua, bốn phát súng đã giải tỏa  được nỗi dồn nén, căm hận. Đào không còn nhớ đến Mai, Cường, chỉ nhớ đến khoảng đã bụng trắng nõn của Hoa nằm chết trên lề đường, và nhớ đến hai điếu thuốc ngoại đầy tình nghĩa Lợi cho. Đào tiếc rẻ đã quá nhân đạo với Lợi, tha cho Lợi. Chính Lợi bây giờ là nguồn tin tức cho công an. Phải chi mình bắn nó luôn cho tịt ngòi truy tầm. Băng đèo lội suối đến sẫm tối, đến đâu mệt thì ngồi thở. Đào đã vất bao súng, vất mũ và cả hai túi xách đi. Thay bộ áo quần dân sự, lấy một áo sơ mi làm thành tay nải đựng tiền. Đào ăn một đòn bánh tét rồi uống hết nước trà, xuống suối lấy sẵn một bình đông nước khác để phòng xa. Khẩu súng ngắn đã được giấu trong thắt lưng. Mình sẽ đem vàng về phụng dưỡng bố già, nuôi em cấp vốn cho buôn bán. Riêng mình sẽ là một người mới, sẽ chọn một cô vợ trẻ biết kinh doanh, sẽ mua một ngôi nhà nhỏ. Tương lại màu hồng ấy động viên thúc giục Đào đi băng băng quên cả lâu lách cắt ống chân, quên cả hiểm nguy đang chờ đón. Sẽ không còn ai dám khinh mình nữa, Đào thấy rõ một điều từ xưa chưa được thấy. Ở xã hội đảo điên bát nháo này giá trị đồng tiền là mạnh nhất, trong khi người ta cứ lừa dối nhau bằng những mỹ từ cao đẹp. Thằng Mai là cái thá gì mà dám khinh mình. Mình vào sinh ra tử, còn nó làm gì trong chiến tranh vừa qua? "Biết ít tiền thì đừng có đi bộ đội nữa được không?" Đây là một chân lý rành rành. Đào thấy rõ là mình bất lực, không có vây cánh, chỉ lý luận hảo để hai mươi năm qua mới leo lên được trung uý. Bạn bè và đàn em Đào, có ô dù lên vùn vụt. Bởi họ kiếm được tiền bất hợp pháp và biết nộp cho ô dù. Còn Đào lý tưởng quá, ngây ngô quá nên mới bị khinh rẽ, bị bỏ quên. Như thế vụ bất hoà, cơn dồn nén vừa qua chỉ là một cái cớ phụ, như giọt nước đầy tràn. Nói theo kinh điển chỉ tất nhiên như hủy thể của một hủy thể, mâu thuẫn đột biến để biến hoá thôi.

Chín giờ tối, Đào tìm được đến ga Bắc Hải Vân, nhưng không định đón tàu đi ra Huế. Đi bằng phương tiện này dễ bị tóm cổ. Đào đứng hỏi thăm một người dân bên ngoài ga, định tìm chỗ ngủ để sáng mai thay hình đổi dạng thuê xe lam đi Quảng Trị rồi sẽ ra thẳng Thanh Hoá. Chỉ hành động riêng lẻ, không kế hoạch nghiên cứu dự trù trước, Đào có rất nhiều sơ hở và sẽ gặp nhiều khó khăn không thể vượt qua được. Nhưng chuyện đã lỡ, đâm lao phải theo lao.

Bỗng có ánh đèn pin rọi loang loáng về phía Đào. Một sĩ quan công an tiến đến đòi kiểm trả giấy tờ. Đào định bỏ chạy nhưng đã muộn, từ ba phía đã có ba công an khác vây lại. Đào cố bình tĩnh tìm cách đối phó.
- Anh không có quyền kiểm tra tôi, tôi là cán bộ quân sự.
- Cứ đưa xem, anh đang mặc quần áo dân thường.
Đào đưa ra giấy chứng minh và giấy phép, có ghi rõ: "Trung uý Đỗ Nguyên Đào tức Đỗ Thanh Đào, sinh năm 1954 quê ở Thọ Xuân, Thanh Hoá." Đào trì hoãn để tìm giây phút thuận tiện chống trả.
- Anh cho kiểm trả cả cái túi kia nữa.
- Anh không có quyền, gọi đội kiểm soát quân sự đến đây nói chuyện.
- Cướp của giết người trên đỉnh đèo, trốn sao được, còn già lọng.
- Tôi cấm anh không được vu oan cho một sỹ quan quân đội nhân dân.
- Là nghi can và chắc chắn là tội phạm, anh không đáng hưởng quy chế cán bộ quân sự.
- Tôi thách anh đụng vào sở hữu của tôi. Tôi sẽ kiện anh đến Viện Kiểm Sát cao nhất.

Nhanh như cắt, Đào thò tay vào túi rút súng ra, nhưng đối phương còn nhanh hơn. Hắn dùng một thế võ quật sấp Đào xuống, tước khẩu P38. Hai người khác đã dí súng vào lưng, và người thứ ba lấy còng số tám khoá tay Đào lại. Đào biết mình đã thất bại, thất bại hoàn toàn, thất bại một cách rất mau chóng và dễ dàng, không buồn vùng vẫy cựa quậy nữa. Tổ trưởng công an tháo băng đạn và tìm thấy hai viên trong túi tiền. Hắn lẩm bẩm:
- Bắn bốn viên còn lại hai viên lẻ là đúng rồi. Làm xấu tiếng quân đội. Cán bộ gì đi cướp của giết một hơi ba mạng?
Đến phút này lại càng bị khinh khi, Đào lại nổi giận, giận bản thân đã để bị bắt dễ dàng. Đào được kéo ngồi dậy, bèn nhảy tung lên đá vào cạnh sườn tên tổ trưởng thật mạnh và hét:
 - Công an chúng mày thì có gì hơn?

Một báng súng AK giáng vào ngực Đào. Những ngôi sao  li ti toé quanh đầu, Đào ngất đi. Hồi sau không rõ mê hay tỉnh, Đào lờ mờ thấy mình đang lênh đênh trên biển Lăng Cô ngồi trên bè với cô gái Thượng ngực trần, rập rền rập rền sóng nước. Đó là khi Đào đã bị vất lên xe giải về Huế. Trong sóng nước mù xa, như sương sa, như mây vờn trên đỉnh Hải Vân, chập chờn khuôn mặt ông bố nhăn nheo với chòm râu bạc lưa thưa, khuôn mặt cô em gái xanh xao đầy nước mắt. Lãng đãng đâu đây, Đào nghe tiếng cười lẳng lơ và thấy ẩn hiện bắp chân trắng của Hoa. Những con mắt lần lượt hiện ra và chiếu vào Đào, ánh mắt lái xe bộ đội dọa nạt, ánh mắt hai phụ nữ bán quán thương hại, ánh mắt Mai, Cường, Hoa khinh bỉ.

Ngất đi, Đào không nghe được mẫu đối thoại giữa giám đốc công an và tổ trưởng bắt Đào.
- Thưa thủ trưởng, giờ ta lập biên bản ra sao? Bộ đội đi giết người cướp của là kẹt lắm.
- Ồ, có gì đâu, đơn giản thôi. Bảo hình sự và điều tra chữa biên bản đi. Cứ cho nó là thằng nghiện ma tuý mạo nhận danh bộ đội đi làm bậy. Thế là gọn nhất, nghe rõ chưa?



Diệu Tần



----------
Nguồn: VĂN
Giai phẩm xuân Quý Dậu
Số 126-127 tháng 12-1992 và tháng 1-1993















Monday, October 30, 2017

MẬU THÂN




Vũ Phương Nam



Tuổi niên thiếu của tôi trãi dài trên những bãi cát trắng miền biển. Thị xã Vũng Tàu nhỏ bé như...đi dăm phút đã về chốn cũ. Những ngày ngâm mình dưới làn nước ấm, tầm mắt nhìn mãi ra chân trời mù khơi. Con đường dẫn lên ngọn hải đăng dốc đứng ở núi nhỏ. Con đường quanh co vòng núi lớn, qua những ngôi chùa cheo leo trên sườn núi, Bạch Dinh của toàn quyền Pháp xa xưa. Từ bãi trước với những rặng phi lao, qua Bãi Dâu, về Thích Ca Phật Đài, xuống Bến Đá và chợ Bến Đình... Tuổi nhỏ tôi chỉ biết vui chơi và đùa nghịch.

Gia đình tôi di cư vào Nam từ 1954 khi tôi còn được bế trên tay. Bên nội tôi tất cả đều ở lại miền Bắc. Bên ngoại tôi thì vào Nam từ trước 54. Gia đình ông bà ngoại tôi ở Sài Gòn. Ông có một văn phòng xuất nhập cảng ở đường Pasteur, đối diện bên hông trường kỹ thuật Cao Thắng. Căn phố ông ngoại tôi mướn ở tầng trệt, phía ngoài làm văn phòng, phía trong làm nhà ở. Căn phố chỉ có chiều sâu, bít bùng như một đường hầm, không có cửa sổ, chỉ có nhà bếp ở cuối là đâm sâu ra một đường hẻm lầy lội, khu nhà ổ chuột của dân lao động.

Một năm đôi ba lần, tôi theo bố mẹ lên Sài Gòn chơi, thăm ông bà ngoại và các dì, cậu của tôi. Con đường quốc lộ 15 nối liền Vũng Tàu-Sài Gòn khá tốt, đi bằng xe đò nhỏ chưa đến hai tiếng đã tới. Trong đầu óc một thiếu niên mới lớn như tôi, Sài Gòn lúc đó quả là một thành phố vĩ đại vô cùng, so với cái thị xã nhỏ bé tôi đang ở. Phố Nguyễn Huệ, Lê Lợi...đồ sộ với nhà lầu và xe cộ nườm nượp như mắc cửi, tôi có muốn băng qua đường còn chưa dám đi một mình. Những ngày ở nhà ông ngoại tôi, trong khi bố mẹ tôi bận nói chuyện, tôi thường một mình dạo quanh khu phố. Tôi hay thả bộ qua chợ bán thú vật ở phố Hàm Nghi. Những khi có tiền còm trong túi, tôi hay chui vào rạp hát Nam Việt ở góc Huỳnh Thúc Kháng coi phim chưởng, hoặc lang thang quanh mấy xe đẩy bán quà vặt. Những miếng lòng bò, những cuốn bò bía,  những ly nước mía vắt một chút cam. Nhưng tôi khoái nhất cái món bột chiên, có tiền thì thêm một trứng vịt, không thì bột chiên không cũng khoái khẩu lắm rồi. Chưa có lần nào lên Sài Gòn mà tôi bỏ qua món này.

Đó là những năm tôi khoảng chín mười tuổi, tôi chỉ dám dạo quanh khu phố gần nhà và ăn quà vặt dọc đường. Sau này lúc mười hai mười ba tuổi, tôi từ từ đi xa hơn. Tôi thả xuống Lê Lợi, góc Nguyễn Huệ, có cái bùng binh thỉnh thoảng phun nước mù mịt. Ngó xéo qua bên kia là toà nhà Quốc Hội, bên này là Toà Đô Chính, kèm hai bên là hai rạp hát lớn , Rex và Eden. Sau này tôi đã biết vào Rex coi xi nê, dù phải trả thêm chút tiền, nhưng có máy lạnh cũng đã hơn. Những khi tài chánh eo hẹp, tôi chỉ dám dạo chơi. Nhà sách Khai Trí người ra vào tấp nập,  tôi chỉ ghé mắt một chút rồi bỏ đi, sách vở với tôi lúc đó không có gì hấp dẫn. Có khi tôi thả xuống Tự Do, có nhà hàng La Pagode, cửa kính trong suốt, trong đó những công tử Sài Gòn áo eo quần loe ngồi nhâm nhi cà phê, thả khói thuốc mù mịt, ngẫm nghĩ sự đời, hoặc phóng tầm mắt ra ngoài nhìn thiên hạ qua lại. Trong cái ý nghĩ non nớt của tôi lúc đó, Pagode muốn vào chắc phải nhiều tiền, vì không khí trông có vẻ sang trọng, mấy người bồi quần đen áo trắng, cổ thắt nơ, trông rất ư là lịch sự.

Đó là nói về những chuyến đi bình thường trong một năm. Nhưng vào dịp Tết, năm nào cũng vậy, bố mẹ tôi cũng lên Sài Gòn để chúc Tết ông bà ngoại tôi kèm theo một ít quà biếu. Và năm nào tôi cũng được tháp tùng, thường thì trước Tết vài ba ngày và trở lại Vũng Tàu ngày 30 để ăn Tết. Cho đến năm tôi được mười bốn tuổi, bố mẹ tôi quyết định cho tôi đi Sài Gòn một mình, mang quà về biếu ông bà ngoại và ở lại ăn Tết luôn, đến ra giêng mới trở về Vũng Tàu đi học lại. Có lẽ bố mẹ nghĩ tôi đã đủ lớn để cáng đáng một chuyện nhỏ như vậy. Riêng tôi, tôi chẳng có một ý nghĩ gì về sợ sệt khi phải đi một mình.
Ngày 29 Tết tôi chuẩn bị lên đường, cũng tay xách nách mang. Một cặp bánh chưng nấu ở nhà từ mấy hôm trước, một số bánh mứt và chai rượu Hennessy cổ lùn. Bố tôi đưa tôi ra tận bến xe đò, dặn dò tài xế một cách cẩn thận cho tôi xuống đường Hiền Vương, để tôi có thể đón taxi hoặc xích lô về Pasteur. Khúc này thì tôi nhớ vì Hiền Vương chỉ qua Đa Kao một khúc. Bố tôi còn cẩn thận dặn đi dặn lại phải nói gì khi đưa quà cho ông bà ngoại. Tôi phải dùng chữ biếu, chứ không phải cho. Khi một người vai nhỏ cho quà một người vai lớn phải dùng chữ biếu thay vì chữ cho, tôi được dạy dỗ như vậy từ nhỏ.

Chiếc xe tôi đi, được gọi là xe đò nhỏ, là một chiếc Citroen biến cải. Xe thật sự nhỏ xíu, tiêu chuẩn chỉ chở bốn người, vậy mà chủ xe làm thêm một băng ghế phía sau và nhét thêm người phía trước, cuối cùng xe chở tất cả chín người. Ngồi trên xe gần hai tiếng, tôi tê cả cặp đùi. Dù vậy, trời vào xuân phơi phới, nắng xuân ấm áp. Xe qua cầu Cây Khế, đến Bà Rịa, tôi ngoái cổ nhìn qua cửa kính, Núi Lớn với đài ra đa mờ dần phía sau. Xe tiếp tục trực chỉ Sài Gòn, những mái nhà tranh ẩn hiện dưới mấy hàng dừa, những đồng ruộng bát ngát lùi dần về phía sau.
Được khoảng một tiếng đồng hồ, xe đến Long  Thành. Tài xế ngừng lại bên một sạp bán trái cây cho hành khách nào muốn mua làm quà cho thân nhân. Những chùm chôm chôm đỏ thắm, những trái sầu riêng nứt nẻ thơm phức, những trái măng cụt chất đống, những trái mít căng phồng vàng rực. Tiếng rao hàng lãnh lót mời chào...mía ghim, cơm sườn, nước dừa, nem Thủ Đức, bánh tét, bánh phồng tôm...
Sau khi hành khách mua xong quà, xe tiếp tục lên đường. Trước khi vào Biên Hoà, xe chạy qua vườn cao su Long Thành, những hàng cây thẳng tấp ngút ngàn phía xa. Những vườn cây ăn trái trĩu nặng. Những cây mít thân xù xì lủng lẳng những chùm trái vàng  tươi. Qua khỏi Long Thành, xe đụng phải cổng  căn cứ Long Bình, quẹo trái vào xa lộ Đại Hàn, Thủ Đức. Đến Hàng Xanh, một số hành khách xuống và xe tiếp tục vào thành phố. Trạm thứ hai, thêm một số hành xuống Đa Kao, sau đó xe ghé Hiền Vương và tôi xuống đây trong khi xe tiếp tục vào bến xe trong Chợ Lớn.

Tôi xách giỏ quà chĩu nặng, đứng nép vào lề đường đón xe. Bố mẹ tôi dặn đi xích lô hay taxi cũng được, nhưng phải trả giá, chỉ khoảng một trăm đồng thôi. Thấy tôi đứng lớ ngớ, một chiếc xe tắc xi trờ  tới, gã tài xế hỏi:
- Đi đâu?
- Cho tui về Pasteur góc Hàm Nghi.
Gã với tay mở cửa: "lên đi"
Tôi ngập ngừng: "bao nhiêu?"
- Hai trăm
Tôi trả lời không suy nghĩ, một trăm thì đi. Gã đóng cửa xe cái rầm rồi bỏ đi. Tôi đợi thêm một lát thì có chiếc xe xích lô đạp chạy ngang, tôi đưa tay vẫy. Gã tài xế đạp xe, với chiếc áo ca rô phanh ngực, chiếc quần đùi đen bạc phếch, mồ hôi nhễ nhại trên mặt, vội vàng đưa tay kéo cái thắng ở dưới háng, cái bánh xe lết xềnh xệch trên mặt đường nhựa và chiếc xe dừng hẳn lại.
Tôi chưa đợi gã hoàn hồn đã vội nói:
- Cho tui về Pasteur góc Hàm Nghi, một trăm đồng thì đi.
Gã ngập ngừng một chút rồi nói:
- Thôi lên đi, gần Tết rồi sao cũng được.
Tôi xách giỏ đồ leo lên xe, ngồi thỏm trong cái nệm xe nhún nhún. Tôi nói số nhà rồi dựa lưng nhìn xe cộ lao qua vùng vụt. Chiếc xe nhủi nhủi tới trước theo đà đạp.

Nửa tiếng sau xe tới nơi. Tôi bước xuống xích lô, tần ngần trước hai cánh cửa sắt. Phố xá im lặng. Sinh hoạt hằng ngày như ngưng đọng lại đón Tết. Tôi đưa tay đập cửa rầm rầm. Ông ngoại tôi ra mở cửa, giọng vồ vã:
- Ủa thằng cháu của ông đấy hả?
- Dạ!
Ông đưa tay xách giỏ đồ:
- Cháu đem cái gì cho ông vậy. Thôi, vào đây cái đã. Cháu đi một mình hả?
- Dạ!
Ông dẫn tôi ra tuốt sau bếp, nơi có được một chút ánh sáng thiên nhiên từ trên trời chiếu xuống.
Tôi ngập ngừng, chuẩn bị nói những cái gì tôi sẽ phải nói.
- Thưa ông bà...bố mẹ cháu mắc bận không đi được, có...nhờ cháu mang ít quà về...biếu ông bà.
Bà tôi ngồi gần đó cười mĩm:
- Thằng bố mày, cháu phải nói là bố mẹ cháu sai cháu chứ không phải nhờ, nghe chưa.
Tôi dạ lí nhí cho qua chuyện.

Đêm ba mươi Tết. Đêm trừ tịch. Đèn Sài Gòn quá sáng để thấy được đêm đen ngòm của bầu trời không trăng sao. Tôi vẫn thích thức khuya để đón giao thừa, cái đón háo hức đầu năm mới. Cái thích nhất là được ăn sau khi cúng xong. Ít nhất cũng có món gà luộc và xôi chè, có khi còn thêm món lòng gà xào với nắm đông cô và su hào. Thêm vào đó là tiếng pháo. Tiếng đì đùng hằng loạt làm lòng tôi rộn rã, báo hiệu một mùa xuân mới.

Nhưng tiếng pháo năm đó, năm Mậu Thân, đã xen lẫn tiếng súng, xen lẫn máu và nước mắt.

Đêm thiêng liêng đã trở thành đêm kinh hoàng. Ngay lúc đó, chưa ai hay biết tai họa đang đổ xuống. Những cửa tiệm của người Tàu từ những nhà cao tầng với hàng chục thước pháo tiếp tục nổ đì đùng. Hoà ước ngưng bắn trở thành tờ giấy lộn, che đậy cho một mưu đồ đen tối.
Đêm hôm đó, sau khi đón giao thừa xong, bằng tiếng pháo và tiếng súng, chúng tôi đi ngủ mà vẫn chưa biết chuyện gì đã xảy ra, vì ở khu tôi đang ở vẫn yên tĩnh. Chỉ đến sáng hôm sau, chúng tôi mới biết được qua đài phát thanh, là Việt Cộng đã xâm nhập vào thành phố, và tấn công hầu hết các cơ quan chánh quyền.
Năm giờ sáng, tôi đã thức giấc, một phần vì lạ nhà, một phần vì trong nhà đang bàn tán xông xao về biến cố đêm qua. Tôi cảm thấy đói bụng cồn cào, dù cho chiến sự có phần căng thẳng, đó chỉ là thói quen vào lứa tuổi của tôi vào lúc đó. Mặc dù trong nhà chưa chuẩn bị buổi ăn sáng, tôi vẫn không thể chờ đợi được. Tôi nói với ông ngoại:
- Ông à! Cháu đói bụng rồi.
Ông tôi bật cười vỗ đầu tôi.
- Thằng bố mày, đúng là thanh niên đang lớn. Thôi, để ông dẫn cháu đi ăn hủ tiếu.
Bà ngoại tôi đang ngồi kẻ cặp lông mày cong vút, nghe vậy nói với theo:
- Ông ghé qua chợ Cũ xem có gà qué gì thì mua vài con, lộn xộn như vậy, không khéo lại ăn Tết với dưa hành củ kiệu. Khổ thân thằng cháu lần đầu tiên lên ăn Tết với ông bà.
- Được, để tôi lo.

Ông thay quần áo rồi dẫn tôi đi. Sáng mùng một Tết, tiếng nổ đì đùng xa xa, tiếng súng hay tiếng pháo? Trên lề đường xác pháo đón giao thừa hôm qua ngập đỏ. Chiến tranh đã đổ ập xuống thành phố. Chỉ cách nhà ông ngoại tôi vài ba căn là một tiệm hủ tiếu. Nói chung cả dãy phố, ở tầng trệt đều buôn bán. Ông dẫn tôi vào tiệm.
- Cháu vào đây ăn với ông, tiệm này nấu cũng được.
Bên trong vắng ngắt. Có lẽ vì còn hơi sớm và vì tình hình chiến sự hiện thời. Vách tường lát gạch men trắng toát. Những chiếc bàn kê dọc hai bên tường cũng trãi khăn màu trắng. Trên mỗi bàn có hai cái ống tre bóng lưỡng đựng đủa và thìa. Một chai xì dầu, một lọ tiêu, và một hủ ớt đỏ tươi xắt lát ngâm dấm.
- Cháu muốn ăn hủ tiếu gì? Bò kho, Nam Vang, thập cẩm? Ông ngoại tôi hỏi.
- Dạ...gì cũng được. Tôi ngập ngừng đáp, vì món nào nghe cũng hấp dẫn hết.
- Thôi để ông gọi cho cháu nhé.
Ông tôi ngoắc người bồi bàn lại: "Chú cho hai tô hủ tiếu thập cẩm". Trong khi chờ đợi, nhà hàng mang ra nào bánh bao, xíu mại, giò cháo quẩy, bánh ngọt, nước trà...sắp đầy bàn.
Một lát, hai tô hủ tiếu được bưng ra, khói bốc lên ngào ngạt. Tôi nuốt nước bọt ừng ực. Cái tô kiểu trắng ngà có mạ vàng quanh mép, chung quanh là những nhánh hoa nằm vắt ngang. Bên trong, sóng sánh nước dùng trong vắt, những sợi hủ tiếu trắng ngần, trên mặt một vài lát xà lách xanh xanh ôm gọn những lát gan, thịt heo, tôm lột xắt mỏng, và một vài cọng hẹ. Tôi với tay lấy hủ ớt, gắp một vài khoanh bỏ vào tô, điểm thêm vài nét chấm phá. Tôi thọc đôi đũa xuống đáy tô bắt đầu trộn, miệng thì nói: "Cháu mời ông xơi ạ!". Ông ngoại tôi cũng lay hoay trộn xới. "Ừ, ăn đi cháu, có muốn ăn thêm cái gì trên bàn này thì cứ tự nhiên". Dạ. Tôi nhìn tô hủ tiếu và ước lượng sức của mình. Tôi thầm nghĩ, tô cỡ này chỉ để cho dân Sài Gòn, với tôi, đủ để trán bao tử. Tôi thò tay vào đĩa, nhón một cái giò cháo quẩy, xé nhỏ trộn chung vào tô hủ tiếu. Tôi lùa hết tô hủ tiếu chưa đầy năm phút. Cái vị ngọt còn đang phảng phất trên đầu lưỡi, trong cổ họng. Tôi lấy bình trà rót ra hai ly, cầm một ly lên nhấp nhấp. Ông ngoại tôi vẫn còn nửa tô chưa ăn xong. Tôi nhìn dĩa cháo quẩy, còn một cái. Tôi thấy bụng mình còn lưng lửng, tôi nhón  cái thứ hai, vừa ăn vừa uống nước trà, coi như món tráng miệng, trong khi chờ ông tôi ăn cho xong.
Sau khi ăn xong, ông ngoại tôi hỏi:
- Cháu ăn nó chưa?
- Dạ cũng đỡ đỡ.
Ông tôi kêu bồi tính tiền và hối tôi đi. "Thôi, ông cháu mình đi mua gà cho bà, không khéo lại không có gì ăn ba bữa Tết."

Ông dẫn tôi đi về phía đường Hàm Nghi, quẹo trái qua phía chợ Cũ. Mấy cửa hàng bán heo quay, vịt quay đóng cửa im lìm. Rau cỏ, trái cây, cũng không thấy ai bán. Ông cháu đi xuống một ngã tư nữa thì thấy một bà xẩm bày xuống lề đường mấy con gà đã làm lông sẵn. Khi ông cháu đến nơi, chỉ còn một con cuối cùng, hỏi ra thì giá đắt gấp ba lần ngày thường. Ông ngoại tôi còn đang phân vân, thì có một bà ghé vào. Người đàn bà trạc ngũ tuần, đầu tóc bới cao, son phấn loè loẹt. Bà mặc một chiếc áo dài kiểu bà Ngô Đình Nhu hở một khoảng ngực khá rộng. Chiếc áo dài màu tím than có thêu con chim phượng phía trước, con chim ngóng cổ lên trời đúng vào cái chỗ khe rãnh giữa cặp ngực thổn thện của bà. Bà chu cặp môi son đỏ chót:
- Ông không mua thì chị bán cho tôi đi. Bà ta xăm xăm giơ tay định cầm con gà. Ông ngoại tôi mới quay sang bà ta.
- Bà này kỳ cục quá! Sao bà biết tôi không mua. Ông ngoại tôi vội đưa tiền và lấy con gà. Đó là con gà duy nhất trong những ngày tôi ăn Tết giữa Sài Gòn. Ăn  Tết giữa thành phố chiến tranh.

Lệnh cấm đốt pháo đã có hiệu lực, chỉ còn tiếng súng nổ đì đùng khắp nơi. Tiếp theo đó là lệnh giới nghiêm 24/24. Đường xá vắng ngắt, thỉnh thoảng chỉ có một vài chiếc xe nhà binh chạy vội vã. Ai cũng co rút trong nhà. Tôi chỉ biết ngồi co ro trước cái  tivi theo dõi tin tức chiến sự diễn ra hằng ngày. Những toà nhà bị pháo kích, những khu phố bị đốt cháy. Xác người phơi đầy đường, xác những người Việt bị giết bởi những người Việt. Hình ảnh tướng Loan dùng súng bắn vào đầu tên Việt Cộng, máu phun có vòi. Khu Hàng Xanh với những cụm khói màu đen bốc lên ngùn ngụt. Những cơ quan chính quyền bị tấn công.

Tôi nhớ những dĩa bột chiên và rạp hát Nam Việt mà đành bó gối ngồi nhà. Tiền lì xì tôi xếp gọn trong túi mà không biết làm gì. Chiều mùng hai Tết, giao tranh vẫn còn tiếp diễn. Tôi hé cửa nhìn ra ngoài đường, phố xá vẫn vắng lặng. Góc đường Hàm Nghi và Pasteur có vài người cảnh sát dã chiến cầm súng M16 chống cạnh sườn chỉa thẳng lên trời, đi qua đi lại bên chiếc xe Jeep có cần ăng ten dài sọc.
Khu phố tôi đang ở tương đối yên tĩnh. Tiếng súng tôi có nghe được cũng từ xa vọng lại. Thình lình có một chiếc xích lô đạp đi lại từ hướng bùng binh chợ Bến Thành, theo đường Hàm Nghi. Tới ngã tư Pasteur thì bị cảnh sát chận lại. Người thanh niên đạp xích lô có làn đã sạm nắng. Chiếc quần đùi đen và cái áo ca rô sọc bạc phếch làm gương mặt càng thêm khắc khổ. Chiếc xích lô bị chận lại có lẽ vì vì phạm lệnh giới nghiêm. Mấy người cảnh sát lục soát khắp nơi, mùi xe, nệm xe, khám phá ra một bọc giấy dầu gói vuông vức. Người đạp xích lô lập tức bị còng tay đẩy lên xe Jeep. Có lẽ đó là một gói chất nổ plastic. Tôi tưởng tượng nếu cái gói giấy đó đi đến nơi đến chốn không biết có thêm bao nhiêu người nữa bị chết oan uổng.

Tôi tiếp tục ăn cái Tết buồn tẻ và trong nỗi lo âu. Khi nào những bộ quần áo kaki đen và súng AK tràn ngập trong khu tôi đang ở?
Sau khi ăn hết con gà trong ngày mồng một Tết, chúng tôi chỉ ăn uống ngày ba bữa với dưa hành tôm khô củ kiệu. Tình hình dần dần lắng dịu. Âm mưu thôn tỉnh miền Nam vào năm đó của Việt cộng hoàn toàn thất bại. Đã có bao nhiêu người chết oan vì một quyết định sai lầm. Vì sao lúc đó tôi chưa có một khái niệm gì về một chủ nghĩa. Khi tôi sinh ra đã có chiến tranh, một cuộc chiến triền miên. Tôi cho rằng chiến tranh là một điều tự nhiên, phải có. Tôi không bao giờ nghĩ rằng lại có những xứ sở không có chiến tranh, ở đó mọi người đều sống yên vui hạnh phúc.

Đã qua hai chu kỳ mười hai con giáp. Năm Mậu Thân trở lại. Biến cố Mậu Thân hầu như bị quên lãng, nhất là đối với những người tha hương, đang quay cuồng với nhịp sống mới. Với tôi, mỗi lần Tết đến, tôi vẫn không quên được hình ảnh của năm đó. Tôi nhớ rõ nhất, hình ảnh của một phóng viên ngoại quốc quay được, cảnh một người mẹ nằm vật vã trên lề đường bên cạnh xác đứa con nhỏ, ngực loang đầy máu. Gương mặt người mẹ hằn lên nét thống khổ và kinh hoàng. Phía sau là dãy nhà lá lợp tôn khu lao động, khói bốc lên cuồn cuộn, lửa đỏ ngập trời. Đứa trẻ chết đi cho một chủ nghĩa, vẫn không hiểu tại sao. Người mẹ đau khổ cũng không hiểu tại sao. Và tôi, tôi cũng không hiểu tại sao.



Vũ Phương Nam




---------
Nguồn:   VĂN
Giai phẩm Xuân Quý Dậu
Số 126-127, tháng 12-1992 và tháng 1-1993











Saturday, October 28, 2017

ĐÔI BẠN



Ngô Du Trung


Tao không biết làm gì, thịt con gà nuôi bấy lâu đãi mày một bữa nhậu, gọi là mừng mầy đã sớm giác ngộ, lao động tốt, học tập tốt, nên được "Cách mạng" khoan hồng cho về đoàn tụ với gia đình.
Nghe cái giọng đúng bài bản của bạn, Kha nổi cáu văng tục:
- Đù má, giác cái con khỉ. Mày học ở đâu mà nói năng đúng điệu một thằng răng đen mã tấu thế?
Thân mĩm cười nhìn thoáng qua Thương rồi trả lời Kha:
- Đùa chơi vậy thôi, đừng có nóng. Tao cũng không tin cái trò cải tạo tư tưởng của chúng.
Giọng Kha vẫn còn bực dọc:
- Tao biết tụi mầy ngại, nhưng cái quân cộng sản đó chẳng cải tạo được ai. Mà cải tạo gì? Nó bịp cả thế giới bằng trò chơi chữ. Học tập cải tạo! Mẹ kiếp! Tao cam đoan là thằng nào được hân hạnh đi "học tập" một lần rồi thì cả đời hễ nghe nói tới hai tiếng học tập là xanh mặt.
Thương tự nãy giờ ngồi im lặng, đưa tay đẩy ly rượu đế đến trước mặt Kha:
- Thôi uống cái đã. Rượu bây giờ họ pha loạn xạ đủ thứ, chắc không ngon, nhưng có còn hơn không.
Kha nâng ly lên hớp một ngụm, nhăn mặt vì mùi alcohol nồng quá. Anh đặt ly rượu xuống bàn trợn mắt nhìn Thân ngữa cổ tu một hơi hết phần rượu trong ly rồi khà một tiếng lớn y như một bợm nhậu thứ thiệt.
- Mày cũng biết uống rượu nữa à? Sao "tiến bộ" thế?
Thương cười hô hố:
- Nhà tu hành của chúng ta kỳ này phá giới, trà rượu, thuốc lá đủ cả, chỉ thiếu cái món kia thôi.
Thân giã lã:
- Thì cũng đại khái cho biết với đời. Thôi ăn đi, ăn rồi kể cho tụi tao nghe mày "học" cái giống gì trong đó.

Kha cầm đũa gắp một miếng thịt gà đưa lên miệng. Mùi thịt gà bóp lá chanh thơm nồng nàn nơi đầu lưỡi. Đã lâu lắm Kha mới được ăn thịt. Nhớ lại những cơn đói triền miên trong tù, mỗi bữa ăn chỉ vỏn vẹn một chén cơm lưng với nửa lon guigoz canh lỏng bỏng mấy cọng rau muống già, thành thử anh tù nào cũng cho thật nhiều muối vào để ăn xong còn uống được vài lon nước. Sau mỗi bữa cơm, bước đi bụng cứ kêu lịch bịch.
Nuốt xong miếng thịt gà, tu một ngụm rượu, đặt ly xuống bàn Kha nói với bạn:
- Học cái gì? Đầu tiên là học...đói. Đói triền miên. Đói đến độ thấy cái gì cũng muốn cho vào miệng, đầu óc lúc nào cũng loay hoay với cái ăn. Mẹ! Ai muốn nói gì thì nói, phê bình thế nào thì phê, nhưng cứ thử ăn đói vài năm đi rồi biết. Tụi mầy thấy tao to con như vầy mà mỗi bữa chỉ có lưng chén cơm với chút canh rau muống thì chịu sao thấu, mà ăn xong còn phải đi lao động chứ không phải nằm duỗi cẳng ra đó đâu. Hồi đầu mới vô, đói quá tụi tao hái rau sam, rau lang, cải trời luộc ăn phụ thêm. Bọn quản giáo thấy được, nó tịch thu tất cả mọi dụng cụ nấu nướng, rồi tập trung tù lại xỉ vả, chửi bới đủ điều. Nó bảo tụi tao làm như vậy là bêu xấu Cách Mạng. Nó nói Cách Mạng không phải là không có đủ gạo, nhưng cho tù ăn thiếu một chút là để tù thấy được giá trị của lao động, của của cải. Rồi nó bảo tụi tao quen thói làm tay sai, bóc lột nhân dân, giờ mới đói một chút mà đã quýnh quáng lên rồi. Tiên sư, nó chửi bới mà cũng có đường lối chính sách nữa...
Thương nói chen vào:
- Mà ăn đói trường kỳ như vậy bao tử có quen đi không mày?
- Quen? Chẳng có bao tử nào mà quen với cái đói được hết, lần đói nào cũng xót như nhau.
Thân hỏi:
- Mày lao động gì trong đó?
- Cuốc đất trồng mì, lên rừng lấy gỗ về đốt than, chặt cây, cắt tranh về lợp nhà. Hầm bà lằng đủ thứ hết. Vừa ăn đói vừa lao động khổ sai như vậy thì cực thật nhưng việc hành hạ thể xác đó chưa khiếp bằng cái khủng bố tinh thần. Nói bất cứ chuyện trên trời dưới đất gì rồi cuối cùng nó cũng kết luận rằng tụi tao là những thằng bán nước, tay sai đế quốc, có nợ máu với nhân dân.

Kha dừng lại, hai tay mân mê ly rượu đế trước mặt. Hai người bạn ngồi im lặng. Kha uống cạn ly rượu rồi tiếp:
- Còn cái trò làm nhục tù nữa. Tụi mày biết không, hôm nào đau không thể đi lao động bên ngoài được, khai bệnh ở nhà thì nó bắt đi hốt phân pha nước tưới rau...
Thân hỏi:
- Phân gì?
- Còn phân gì nữa. Phân người! Nó cho như vậy là làm việc nhẹ. Tụi mày thử tưởng tượng coi, đau mà phải chui xuống mấy cái nhà cầu dã chiến hốt mớ phân còn ...tươi rói đi pha với nước tưới cho hết  mấy chục luống rau chung quanh trại thì nội cái mùi thúi không thôi cũng đủ chết người rồi. Đã vậy khi rau cải lên tươi tốt, tù xin được thu hoạch, nó không cho, đợi đến khi rau ngồng, già úa rồi nó bắt hái đem vô nấu canh. Cái thứ rau đó đem cho heo ăn, heo nó còn chê.
Ngừng lại đốt điếu thuốc, hít một hơi dài, Kha nói tiếp:
- Tao ớn nhất là màn học tập chính trị dù trong thời gian đó không phải lao động gì cả. Sáng sáng tụ tập ở hội trường nghe thằng cán bộ ba hoa về một đề tài, đại khái như: "Xã hội chủ nghĩa tiên tiến ưu việt", "Ngụy quân, Ngụy quyền: công cụ của đế quốc"...vv... Rồi nó ra bốn năm câu hỏi tuỳ đề tài dài hay ngắn đem về nhà thảo luận. Thường một câu hỏi phải thảo luận ít nhất là một buổi. Mỗi nhà có một thằng cán bộ quản giáo phụ trách. Nó ngồi chình ình giữa nhà theo dõi từng ly từng tý, săm soi từng cử động nhỏ, từng cái nghiêng người, cái cười mĩm, bắt bẻ từng lời từng chữ khi tù phát biểu ý kiến. Tao nhớ có lần một anh tù phởn chí sao đó mà dở giọng văn hoa, gọi Nha Trang miền Thuỳ dương cát trắng.
Thằng cán bộ quản giáo sưng mặt lên xỉa xói: "Anh nói xấu Cách mạng hả? Anh nói Cách Mạng về biến Nha Trang thành một vùng cát trắng không trồng tỉa được gì hả? "
Mà nếu mày sợ bị hố không nói năng gì cả, chỉ ngồi ỳ ra đó chờ hết giờ cũng không được. Nó sẽ bảo mày còn tư tưởng phản động, chống đối ngầm, không thành khẩn thú nhận tội lỗi...v...v... Mà hễ nó "phát hiện" ra một cái lỗi của mày y như là có vô số những tội tày đình khác kèm theo...
Thương mĩm cười:
- Thì cũng phát biểu nhưng phát biểu đại khái thôi, kiểu con voi có cái vòi...
- Nó sẽ bảo mày phát biểu chung chung, không có chất lượng, không chịu đào sâu, như vậy cũng là chưa thành khẩn, còn có tư tưởng chống đối, còn muốn bám theo chân đế quốc...
- Thương nhăn mặt:
- Mẹ kiếp! Sao mà khó thế.
- Đại khái việc học tập cải tạo như vậy đó, vừa hành hạ thể xác, vừa khủng bố tinh thần. Thôi để tao kể cho nghe một chuyện vui. Trong trại tao có một thằng chính trị viên mà tao gọi là thằng nhuốm máu nhân dân.
- Thân cắt ngang:
- Thằng nhuốm máu nhân dân?
- Ừ! Vì mỗi lần tập hợp tù lại, câu đầu tiên của nó luôn luôn là: "Các anh là những người cỏ tội, bàn tay các anh đã từng nhuốm máu nhân dân".
Thương vỗ đùi khoái trá:
- Mày đúng là tên phản động. Nhưng nhậu tiếp đi, lâu lâu mới có một bữa thịt gà, đừng...e lệ.
- Thân phụ họa:
- Ừ! Ăn mạnh đi mày.
Kha vui vẻ đáp:
- E lệ khỉ gì, có lẽ tại chúng "cải tạo" tao kỹ quá, giờ thấy miếng ăn đâm ra dè xẻng, sợ hết. Mà tụi mày cũng ăn đi chứ. Rồi xoay qua Thân, Kha tiếp:
- Lâu nay mày làm cái nghề ngỗng gì?
- Tao đăng ký làm công nhân đường sắt, được vài tháng nó khám phá ra ông già tao là ngụy quyền bèn đuổi cổ tao về. Giờ đang thất nghiệp.
- Còn mày? Kha hỏi Thương.
Thương vừa nhai thịt gà vừa trả lời, giọng diễu cợt:
- Còn làm gì nữa? Không công nhân viên tiên tiến thì cũng nông dân...hậu tiến. Tao phụ ông già làm ruộng.
- Mày vậy là mồ yên mã đẹp rồi. Còn thằng Thân này, ông anh tao còn phát được một miếng rẫy kha khá, mày muốn tao chia cho một nửa.
Thân nâng ly lên mời bạn:
- Muốn đứt đuôi con nòng nọc đi chứ. Thôi mình cạn ly rồi thanh toán cho hết mấy miếng thịt này.

Thân theo Kha làm rẫy từ đó. Sáng sáng họ vác cuốc, vác rựa, mang theo một lon guigoz cơm lên rừng cuốc đất. Khu rẫy đã được khai thác từ năm ngoái nên họ cũng đỡ vất vả phần nào.
Kha đã trãi qua một thời gian ở tù, quen với công việc nặng nhọc thì không nói làm gì, nhưng Thân vốn là "thư sinh mặt trắng", Kha không ngờ bạn mình làm việc rất siêng năng mà sức chịu đựng lại dẻo dai vô cùng.

Bên cạnh rẫy có con sông nhỏ, mỗi trưa Kha và Thân thường ra rửa ráy, trốn nắng và ăn trưa. Kha lại sắm một chiếc cần câu, hôm nào khỏe Kha đào mớ trùng làm mồi câu cá trắng. Nhưng thời buổi khó khăn cá dường như cũng hiếm, họa hoằn lắm Kha mới câu được vài con nho nhỏ. Một buổi trưa Thân nằm nghỉ trên một nhánh ba nhô ra sát mặt sông, hai chân thòng xuống nước, thỉnh thoảng buông  chân đạp mạnh làm nước văng tung toé. Kha đang ngồi câu bên cạnh la chói lói:
- Mầy đạp ầm ầm lên như vậy tao câu làm sao được, thằng ông nội.
Thân cười:
- Thôi dẹp đi, nghỉ cho khỏe chút còn có sức mà cuốc.

Kha quăng cần tìm một thân cây nằm nghỉ. Gió sông thổi mát lạnh. Kha nằm ngữa lên nhìn vòm cây lá trên cao. Những tia nắng mặt trời lấp lánh qua khe lá. Mấy con chim nhỏ đang đuổi bắt nhau kêu ríu rít. Một chú sóc dọ dẫm bò từ ngọn cây xuống. Đến một chảng ba, nó dừng lại dí mũi vào thân cây linh cảm một hiểm nguy đang rình rập, rồi bất chợt xoay mình phóng ngược trở lên. Kha nằm lẳng lặng theo dõi con sóc chạy tới chạy lui lăng quăng, mơ màng nhớ lại những ngày thơ ấu theo lũ bạn ra đồng đào bắt những con chuột mập ú đem thui, mỡ chảy đầm đìa. Những đêm trăng bát ngát mấy anh em Kha nô đùa đuổi bắt nhau quanh mấy đụn rơm, hay nằm dưới gốc cây sung già nhìn trăng lên và hít thở cái không khí thoảng thoảng mùi thơm của hoa chanh hoa bưởi. Những buổi sáng thả trâu ra đồng cho thợ cày rơi nằm dài trên đám cỏ non còn đẫm ướt  sương đêm, nhìn bầu trời chỉ còn lác đác mấy vì sao mà mơ về một phương trời nào xa lạ. Và căn nhà nhỏ với cái cổng có cây đuối    thật to uốn công thành hình vòng cung  trông thật đẹp mắt. Khu vườn trũng thấp, vào mùa đông nước đọng lại như một cái ao nhỏ, đêm đêm nằm nghe tiếng ễnh ương kêu buồn bã lạ thường...

Kha Bùi ngùi nhớ đến dự tính ra đi của mình. Bất chợt Kha hỏi bạn:
- Ê! Thân, mày đi không?
Bị hỏi bất ngờ, Thân ngơ ngác:
- Đi đâu?
- Vượt biên!
Thân ngồi ngay người dậy ngó bạn:
- Mày tính đi à?
- Ừ, bạn ông anh tao có tàu. Hai anh em tao lo phần bãi, dầu, thức ăn. Thằng Thương sẽ đi với tao. Nếu mày muốn, tao kéo đi luôn. Tao định nói với mày lâu rồi nhưng chưa có dịp.
Thân không nói gì, trở lại thế nằm cũ, hai chân đong đưa trong giòng nước mát lạnh. Hồi lâu Thân nói:
- Chắc tao không đi được. Gia đình tao...Thân ngập ngừng rồi đổi hướng...ra ngoài đó được cái có tự do nhưng lại mất quê hương.
Kha ngậm ngùi:
- Tao thật tình cũng không muốn đi. Tao chỉ muốn lên rừng đánh tiếp. Nhưng mấy năm nay ông anh tao lội nát hết mấy dãy núi này tìm kháng chiến mà có thấy quái gì đâu. Còn cứ sống mãi như thế này thật là bi đát. Tao không nói đến chuyện khổ cực. Gia đình tao vốn nghèo, tao đã quen với những chuyện nặng nhọc như vầy từ nhỏ. Vả lại đất nước nào sau chiến tranh mà lại không có những khó khăn, nhân dân phải thắt lưng buộc bụng để tái  thiết lại quốc gia là chuyện dĩ nhiên. Tao biết vậy chứ, nhưng họ không muốn vậy. Mày thấy không, mỗi ngày tao đều phải trình diện công an xã, không được đi đâu xa. Vắng tao một ngày là tụi nó cho người lãng vãng chung quanh nhà dòm ngó...

Kha dừng lại, ngồi dậy chạy đi lục túi áo móc trên một cành cây gần bờ sông tìm gói thuốc. Đốt một điếu cho mình, trao gói thuốc cho bạn xong trở về chỗ nằm.
- Mẹ, nó canh tao như canh...một con vợ lăng loàn. Độ rày bà già tao lại thúc tao lấy vợ. Ui chao, một thân tao lo còn chưa xong lo gì đến vợ. Nhưng chuyện này làm tao suy nghĩ. Tao có lấy vợ, có con thì con tao cũng là thằng con ngụy. Rồi cả đời chúng nó cũng chẳng ngóc đầu lên được, mẹ kiếp, hồi ở trong tù suốt ngày nó ra rả chửi bọn tao là những thằng có tội với tổ quốc với nhân dân. Tao có tội gì với tổ quốc với nhân dân? Nếu có tội thì tao chỉ có tội với đảng Cộng Sản thôi. Mà như vậy thì nó trả thù tao được rồi, sao lại trả thù đến con cháu tao.

Thân nằm im lặng, hai chân vẫn thòng xuống nước. Buổi trưa bên bờ sông vắng, không gian thật êm đền. Một cơn gió nhẹ thổi qua làm mấy cành khô rơi xuống mặt sông, rồi lừ đừ trôi xuôi theo giòng nước.
Một lát sau Thân nhỏm người dậy, ném điếu thuốc hút dở xuống sông rồi nói với bạn:
- Tao có lạ gì. Tao không được làm công nhân tiên tiến cũng vì ông già tao là "ngụy quyền". Chừng nào mày đi?
- Chưa biết chắc được, chưa đủ dầu.
Thân nhắc bạn:
- Sắp đến mùa biển động. Tao nghe nói vùng biển giữa mình với Phi mùa mưa nguy hiểm lắm. Mày phải coi chừng.
Kha đáp:
- Tao biết. Cũng nhờ vậy mà tụi nó lơ là chuyện canh gác. Ông anh tao mấy tuần nay vớ đâu được cuốn Exodus đọc xong chàng bắt chước kiểu Do Thái qua mặt lính gác Anh, tối tối bỏ mấy thùng dầu vô bao bố chở phây phây ngang qua đồn công an, coi ớn thấy mẹ.
Thân cười:
- Có khi chơi liều như vậy mà lại an toàn. Thôi hôm nay mình nghỉ sớm một bữa, về rủ thằng Thương đi kiếm cái gì nhậu.
Kha đứng dậy với tay lấy chiếc áo khoác vào người rồi hỏi bạn:
- Mày vẫn nhất định không đi?
Thân trầm ngâm một chút rồi đáp gọn:
- Không!

Nửa năm sau, một đêm trời tối đen và mưa bay bay, Kha đến gọi cửa nhà Thân. Cánh cửa hé mở, Thân thò đầu ra nhìn. Kha thì thầm:
- Tao đây, ra ngoài này.
Thân lách mình bước ra ngoài. Như đã đoán được chuyện gì, Thân hỏi bạn, giọng xúc động:
- Đi phải không?
Kha đáp:
- Ừ!
Hai người đứng nép dưới hiên nhà, im lặng nhìn vào trời đêm âm u. Những giọt mưa rơi trên lá mấy cây mãng cầu trồng quanh nhà kêu lách tách, đều đặn. Có tiếng chó sủa vu vơ nơi đầu xóm. Hồi lâu Kha đưa tay cầm chặc tay bạn, nói nhỏ:
- Thôi tao đi, ở lại cẩn thận.
Giọng Thân lẫn vào cơn mưa:
- Chúc mày may mắn. Vĩnh biệt.

Kha buông tay bạn ra rồi xoay người bước đi. Mưa vẫn còn rơi. Đi được một quãng, Kha quay đầu nhìn lại. Ánh đèn nhà bạn vẫn còn le lói hắt một vệt sáng run rẩy qua làn mưa mỏng. Kha ngước mắt nhìn lên trời đêm tối đen mênh mông. Nước mắt anh pha với nước mưa chảy vào môi anh mằn mặn. Kha nén tiếng thở dài rồi lầm lủi bước đi dưới cơn mưa đang bắt đầu nặng hạt.


Ngô Du Trung



---------------
Nguồn:  VĂN
Số 81, tháng 03-1989




_