Wednesday, June 22, 2016

ĐỌC SÁCH MÙA HÈ




                                                                    BERNARD  MALAMUD

                                                                    Nguyễn Văn Sâm     Dịch



Lời giới thiệu : Cha mẹ gốc Do Thái Nga, Bernard Malamud là thế hệ di dân  thứ nhì, sanh năm 1914 tại New York City và tốt nghiệp Đại học ở đây. Giữ và chịu ảnh hưởng văn hoá Do Thái, Bernard Malamud đóng góp thật quan trọng vào văn chương hiện đại của Hoa Kỳ, bằng nhiều tác phẩm phảng phất phong vị văn hoá tổ tiên.
Thằng George  trong truyện sau đây khám phá rằng mình không thể sống thoải mái với sự dối trá, giả danh. Đọc sách là nó giải quyết những bực mình sanh ra vì bị kính trọng ngộ nhận.
Tác giả hiện diện trong truyện bằng giọng văn để mô tả tỉ mỉ về tính tình nhân vật chính. Truyện đơn giản nhưng gợi nhiều ý nghĩa, chỗ công viên thằng George thường tới lúc khuya cũng có thể tượng trưng cho một nơi bình yên tâm hồn mà con người không bằng lòng với hiện tại với môi trường chung quanh luôn luôn tìm kiếm. Đó cũng là đề tài được diễn tả nhiều trong cuốn The Fixer (1966) mà truyện này được rút ra.




George Stoyonovitch là một thằng nhóc trong vùng, hứng chí bỏ học lúc mới mười sáu tuổi, khi thấy mình mất hết kiên nhẫn cắp sách đến trường. Mặc dầu cảm thấy xấu hổ mỗi khi đi xin việc bị hỏi xong trung học chưa, phải nói chưa, nó vẫn không đi học lại. Mùa hè khó kiếm việc làm, nó không tìm được bất cứ công việc gì. Còn quá nhiều thì giờ rãnh, George nghĩ tới chuyện đi học hè, nhưng mà tụi nhóc trong trường lỏi tì quá. Nó cũng nghĩ tới chuyện ghi danh đi học một lớp tối nhưng lại ghét thầy cô bắt làm chuyện này chuyện nọ. Nó cho rằng họ không kính trọng nó, kết quả là nó không bén mảng ra ngoài đường mà chui rúc trong nhà suốt ngày. Nó đã gần hai mươi tuổi rồi, đã thấy cần con gái nhưng lại không có tiền tiêu vặt. Thỉnh thoảng nó được vài cent thôi, không thể có nhiều hơn được vì ba nó nghèo quá. Cô chị Sophia của nó, giống hệt nó, cũng cao nghệu, đen bóng, hai mươi ba tuổi, kiếm đâu nhiều nhỏi gì, phải giữ lại để xài riêng. Má của tụi nó chết rồi, Sophia còn phải lo chuyện nhà cửa nữa.

Ngay từ sáng sớm ba của George đã thức dậy ra làm ở chợ cá. Sophia thì rời nhà đâu khoảng tám giờ, đi xe điện ngầm thật xa tới làm ở một tiệm cafeteria trong vùng Bronx. George tự pha lấy cà phê uống rồi lẩn quẩn loanh quanh trong nhà. Lẩn quẩn trong nhà- một căn nhà trong khu cư xá xây cất theo kiểu xưa, năm phòng liên tiếp nhau giống như mấy toa xe lửa, tầng trên của một tiệm thịt- chán chê thì nó lau chùi quét dọn. Lau sàn nhà bằng nùi giẻ ướt và dọn dẹp đồ đạc. Nhưng phần nhiều nó
ngồi trong phòng riêng. Buổi chiều nghe tin tức dã cầu. Có khi nó đọc mấy cuốn World Almanac cũ mua từ mấy mươi đời vương. Nó rất thích đọc mấy cuốn này, với mấy thứ Sophia đem về do khách bỏ lại trên bàn ăn ở cafeteria chỗ nàng làm việc. Phần nhiều là mấy cuốn tạp chí bằng hình vẽ các tài tử điện ảnh và thể thao, mấy tờ News và Mirror.
Sophia thì đọc bất cứ thứ gì lọt vô mắt, năm khi mười họa cũng được vài cuốn có giá trị.
Có lần cô ta hỏi George làm cái gì mà ở trong phòng cả ngày thì nó nói là nó đọc tùm lum tà la sách này sách kia.
- Ngoài mấy cuốn tao đem về, mày có đọc cuốn nào ra hồn không ?
- Vài cuốn. George trả lời, mặc dầu nó đâu có đọc cuốn nào đâu ! Nhiều khi nó cố gắng nuốt vài cuốn  nhưng mà không có bụng dạ nào. Bị hỏi tới hỏi lui nó bực mình vì phải đặt dóc  trả lời. Phải có chuyện gì đó để làm ! Hồi nhỏ nó khéo tay làm đồ mộc, nhưng bây giờ đâu có chỗ để cưa bào đục đẽo...Ban ngày thỉnh thoảng nó có đi dạo, nhưng thường thường là đi sau lúc mặt trời lặn, đường phố đã mát mẻ.

Chiều tối, sau buổi cơm chiều, George rời nhà thơ thẩn trong xóm. Trong những ngày nóng nực, mấy cặp vợ chồng những người bán tiệm  ngồi trên ghế, trên bờ lề đường cao, bể lở lói trước cửa tiệm, quạt xành xạch. George đi qua khỏi họ, qua khỏi luôn mấy đứa đứng xớ  rớ chỗ tiệm bánh kẹo ở góc đường. Một vài đứa, nó biết từ hồi cha sanh mẹ đẻ tới giờ, nhưng không bên nào nhận ra bên nào. Nó không có chỗ đặc biệt để tới, nhưng thường tới lúc chót nó ra khỏi xóm đi qua ba bốn bloc đường tới một cái công viên nho nhỏ, hơi tối tối, ở đây có băng ghế trống, có cây cối, có một cái hàng rào sắt. Nó cảm thấy một chút gì đó ấm cúng riêng tư. Ngồi xuống một cái băng ghế, ngắm nghía cây đầy lá, tò mò quan sát mấy cái bông nở  bên kia bờ rào, nó nghĩ đến một cuộc đời khá hơn hiện tại. Nó nhớ tới những công việc lạm xạm làm từ hồi bỏ học tới giờ ; giao hàng, kiểm hàng, chạy việc, rồi làm trong một cái xưởng. Không có việc nào đáng ưa hết. Nó cảm thấy là một ngày nào đó nó phải có một việc làm kha khá. Sống trong một căn  nhà riêng có cửa lớn, ở trên một con đường rợp bóng cây.
Nó muốn có chút tiền rủng rỉnh trong túi để mua này mua nọ. Có một cô bạn gái dẫn đi chơi để
không mặc cảm cô đơn  như bây giờ, nhất là tối thứ bảy. Nó muốn thiên hạ kính nể và yêu mến nó.
Nó nghĩ tới mấy chuyện này hoài, nhất là khi thui thủi đêm về.

Khoảng nửa khuya nó dậy đi lang thang trong cái xóm nóng nực và lạnh lùng của nó.
Một lần trong lúc đi George gặp ông Cattanzara đi làm về trễ. Không biết ông ta có say không nhưng rồi nó biết ngay là ông ta không có say xỉn gì hết. Ông Cattanzara,  một người mập lùn đầu sói, làm ở chỗ trạm đổi chuyến của xe điện ngầm, ở kế xóm nó một bloc đường, nhà ở tầng trên một tiệm sửa giày. Ban đêm, những đêm trời nóng, ông ta ngồi trước mái hiên  bận áo thun, đọc tờ báo New York Times dưới ánh sáng đèn phát ra từ cửa sổ của lão thợ sửa giày. Đọc từ trang đầu  tới trang chót, xong ông ta mới đi ngủ.
Trong khi ông ta đọc báo, bà vợ ông ta, một người đàn bà mập, mặt trắng bệch dựa chồm ra giữa cửa sổ, ngó mong ra đường, cánh tay mập tròn trắng trẻo khoanh lại phía dưới cái ngực xệ, dựa lên trên thành cửa sổ.

Đôi khi ông Cattanzara trở về nhà say mèm, nhưng ông ta say đằm lắm, không làm ồn ào, chỉ đi ngay đơ, cứng còng, chậm chạp  leo lên những bậc thang dẫn vô hành lang. Say hay không ông ta  cũng vẫn như vậy, chỉ khác là dáng đi cứng ngắc, lặng lẽ và cặp mắt ướt ghèn.  George thích ông ta, nó còn nhớ ông  cho nó mấy cắc mua nước đá nhận  khi nó còn là một thằng nhỏ. Ông ta khác xa mấy người khác trong xóm. Khi ông gặp anh, ông ta hỏi anh những câu hỏi  không giống với mấy người khác. Hình như là ông ta biết nhiều chuyện in trên báo. Ông ta đọc báo trong khi bà vợ mập bệu  dựa cửa sổ ngó mong ra ngoài.

Ông Cattanzara hỏi :
- Mùa hè này mày làm gì vậy George ? Tao thấy mày đi dạo tối hoài.
George bối rối :
- Tôi thích đi dạo.
- Ban ngày mày làm cái giống gì ?
- Bây giờ thì không làm công lên chuyện xuống gì...tôi đang tìm việc.
Xấu hổ khi phải khai là không có chuyện làm, George nói thêm  "Tôi ở nhà nhưng mà tôi đọc sách nhiều lắm, để lấy chút đỉnh chữ nghĩa vậy mà."
Ông Cattanzara có vẻ chú ý tới câu nói đó. Ông ta lau khuôn mặt bóng đỏ của mình bằng cái khăn mù soa.
- Mày đọc sách gì vậy ?
Lưỡng lự  một chút, George nói :
- Có lần tôi lấy một danh sách dài ở thư viện, tôi sẽ đọc hết trong mùa hè này.
Nó cảm thấy kỳ kỳ  và không thoải mái  khi nói như vậy, nhưng nó muốn ông Cattanzara kính trọng nó.
- Bao nhiêu cuốn vậy ?
- Tôi không đếm. Đâu độ cả trăm.
Ông Cattanzara huýt gió qua kẻ răng.
George nói thêm một cách trơn tru.
- Tôi nghĩ đọc như vậy sẽ giúp ích cho công việc học hành. Không phải là ba cái thứ lẩm cẩm dạy ở nhà trường đâu. Tôi muốn biết những thứ khác kia, chắc ông biết tôi muốn nói gì rồi.
Ông Cattanzara gật gật đầu :
- Nguyên cả chồng một trăm cuốn  mà đọc trong mùa hè  thì nhiều thiệt chớ đâu phải chơi.
- Có thể lâu hơn nữa chứ !
- Chừng nào  mày đọc hết vài cuốn, hay là tao với mày thảo luận chơi.
George gật đầu :
- Ừ, chừng nào đọc xong đã.

Ông Cattanzara đi về nhà, thằng George tiếp tục đi dạo. Sau đó mặc dù nó tự thúc bách mình nhưng vẫn không làm được  gì khác những chuyện bình thường. Đi dạo ban đêm. Tới chỗ cái công viên nhỏ. Nhưng có một đêm  nọ lão thợ giày  ở xóm kế nhà nó chận nó lại nói nó là một thằng nhỏ khá. George nghĩ ngay là cái ông Cattanzara nói với lão về ba cái chuyện mượn sách đọc. Từ lão thợ giày chuyện đó lan xuống tới cuối đường...nó thấy vài cặp vợ chồng mĩm cười thân thiện  với nó dầu không ai  nói chuyện thẳng với nó. Nó cảm thấy cái xóm này dễ chịu hơn và thích thích hơn mặc dù nó   không muốn sống hoài ở đó. Nó không bao giờ cảm thấy rõ rệt  là mình ghét người lối xóm, nhưng nó  cũng không ưa họ cho lắm. Tại họ chớ bộ !

Bây giờ thì nó ngạc nhiên thấy ông già nó với lại cô chị Sophia cũng biết cái chuyện đọc sách của nó nữa. Ông già ngại ngùng  khi phải nói về  chuyện đó. Trong đời ông, ông chưa bao giờ nói gì nhiều. Nhưng mà Sophia thì trái lại nhỏ nhẹ với nó. Cô ta có cách để chứng tỏ cho nó thấy  mình hãnh diện vì em.

Mùa hè càng qua, George càng cảm thấy dễ chịu về mọi điều. Nó lau nhà hằng ngày để đỡ đần tay chân cho Sophia. Nó thưởng thức chương trình dã cầu nhiều hơn. Sophia dúi cho nó mỗi tuần một đồng, dầu vậy cũng đâu đủ, cho nên nó phải xài nhín nhín. Đỡ hơn là chỉ có vài xu ten khi nước ròng nước lớn. Với tiền đó nó xài chuyện gì ? Thường thường là thuốc lá, thỉnh thoảng lắm thì la de hay giấy hát. Đời không đến nỗi tệ lậu lắm  nếu bạn biết thưởng thức. Năm khi mười họa  nó mua một cuốn truyện bìa mỏng ở chỗ bán báo nhưng đâu có thèm đọc tới, nó chỉ khoái chưng vài cuốn sách trong phòng mà thôi. Nó đọc ngấu nghiến mấy thứ Sophia mang về. Đêm tối là thời khoảng nó khoái nhất  vì khi nó đi qua vợ chồng người bán tiệm, đang ngồi trước tiệm, nó có thể thấy ngay là họ  ngó nó bằng cặp mắt nể trọng. Nó đi thẳng người, cứng đơ. Mặc dù không nói chuyện với họ nhiều, họ cũng vậy đâu có nói chuyện nhiều với nó, nó cũng cảm nhận được sự thiện cảm  từ mọi người. Một vài đêm nó thấy khoái đến nỗi nó bỏ chuyến đi dạo đêm mà chỉ lang thang trong xóm, nơi thiên hạ biết nó từ khi  còn là một thằng lõi chơi tập đánh banh bất cứ chỗ nào có trò chơi này. Nó lang thang
đã đời rồi đi về, thay quần áo, ngủ thoải mái.

Trong vòng mấy tuần, nó chỉ nói chuyện với ông Cattanzara có một lần mà thôi. Ông này không bao giờ hỏi thêm  gì về chuyện sách vở nhưng sự im lặng của ông ta khiến nó khó chịu.
Có lúc George tránh không đi qua trước nhà ông ta nữa, cho đến một đêm, nó quên mất điều này, nó đi về phía đó, khác với phía hằng ngày nó thường đi. Lúc đó đâu đã hơn nửa đêm rồi, đường phố, trừ một vài người, vắng teo. George ngạc nhiên khi thấy ông Cattanzara vẫn còn đọc báo  bằng ánh đèn đường rọi từ trên cao xuống. Nó tính ngừng lại ở thềm nhà nói ba điều bốn chuyện  với ông ta. Không biết sẽ nói gì, nhưng nó biết nói rồi thì chuyện này sẽ dẫn tới chuyện kia. Càng nghĩ tới nó càng thấy sợ, cuối cùng nó quyết định thôi thà đừng nói chuyện gì  với ông ta thì hơn. Nó cũng tính đi vòng tránh nhà ông ta, nhưng mà lúc đó thì đã tới quá gần  ông ta rồi, chạy thì ông ta thấy liền, sẽ phật ý. Vậy cho nên nó bắt buộc phải băng qua lộ, làm bộ như đang ngó vô cửa kính mấy cái tiệm bên kia đường. Vậy mà nó không thấy thoải mái chút nào, chỉ sợ ông ta sẽ ngó lên, sẽ kêu nó là đồ trốn chui trốn nhủi. Nhưng ông ta vẫn ngồi đó, mồ hôi thấm ướt cái áo thun, cái đầu sói, bóng láng
chói dưới ánh đèn mờ mờ khi đọc báo  Times, trên đầu  là bà vợ xồ xề của ông ta  vẫn  dựa chồm ra cửa sổ, như cùng đọc báo với chồng, George nghĩ là bà ta theo dõi nó, sẽ kêu lên cho chồng bà ta
biết, nhưng bà ta vẫn  không rời mắt  khỏi ông chồng.

George quyết định để tránh chạm mặt ông Cattanzara  cho tới khi nào nó đọc xong mấy cuốn  tiểu thuyết bìa mỏng đã mua, nhưng khi nó bắt đầu đọc, phần nhiều là mấy cuốn truyện, nó mất hứng nên cũng không thèm  đọc hết. Nó mất hứng luôn khi đọc  mấy cuốn khác, tạp chí và báo Sophia đem về  nó cũng không thèm để mắt tới luôn.
Chị nó thấy để chất chồng trên ghế trong phòng hỏi tại sao nó không đọc, nó trả lời mắc đọc mấy thứ khác. Chị nó nói cũng đoán như vậy. Gần như suốt ngày, George mở radio, nó đổi qua vặn nhạc  mỗi khi chán nghe tiếng người. Nó giữ nhà thiệt sạch. Sophia không cằn nhằn gì hết nếu bữa nào nó để nhà cửa bê bối. Cô ta vẫn tử tế như thường, vẫn cho nó thêm đồng bạc mặc dầu mọi chuyện không còn thuận lợi như lúc ban đầu.

Nhưng mà cũng được. Cũng đi dạo ban đêm, thời tiết xấu tốt bất kể. Rồi một đêm kia George thấy ông Cattanzara đi về phía nó. Nó tính quay lưng chạy, nhưng nhận thấy điệu bộ đi đứng của ông ta nó biết là ổng đang say, chắc không thèm để ý tới nó. George tiếp tục đi  thẳng cho tới lúc nó tới sát bên cạnh ông ta và mặc dầu tim nó đập  như tiếng trống chầu thiếu điều nhảy ra khỏi lồng ngực, nó không ngạc nhiên khi ông Cattanzara đi qua khỏi nó không nói câu nào mà ông đi thiệt chậm, mặt mày điệu bộ cứng ca cứng còng. George thở ra nhẹ nhỏm khi nó gần thoát được ông ta. Nhưng...nó nghe kêu tên, rồi thì ông Cattanzara đứng kế bên nó, hơi thở hôi như hủ hèm. Cặp mắt ông buồn bã ngó nó. George cảm thấy bối rối, nó tính xô thằng cha say rượu qua một bên, tiếp tục đi. Nhưng nó không làm như vậy được với ông ta, vả lại, ông Cattanzara lấy trong túi quần ra đồng năm xu đưa cho nó.
- Đi mua nước đá nhận đi George.
- Cái thời đó qua rồi ông Cattanzara ơi! Tôi đâu còn là con nít nữa.
- Ừ ! Mày đâu còn con nít  nữa. Ông Cattanzara nói. Chuyện đọc sách của mày tới đâu rồi ? Ông ta nói tiếp, mặc dầu cố gắng  đứng thẳng, ông cũng lảo đảo ngã nghiêng.
- Tôi nghĩ là cũng được. George nói. Cảm thấy máu chảy rần rần lên mặt.
- Mày không chắc à ? Ông Cattanzara  cười xẻng lẻn, một cái cười nó chưa từng thấy ở ông ta.
- Chắc mà. Tôi chắc. Được lắm.
Mặc dầu đầu ông lắc lư, nhưng mắt ông Cattanzara ngó thiệt thẳng. Cặp mắt xanh nhỏ  của ông  có thể làm bạn ngại ngùng  nếu ngó thẳng vô đó lâu.
- George, ông nói, kể tao nghe tên một cuốn trong danh sách mày đọc mùa hè này. Tao sẽ uống mừng mày.
- Tôi không cần ai uống mừng hết.
- Vậy mày  kể cho tao  tên một cuốn để tao có thể  hỏi mày  về cuốn đó. Ai biết được mày. Nếu nó hay, tao có thể mượn về đọc lắm chớ. Biết chừng đâu mậy.
George cảm thấy bề ngoài  thì mình bình thường đó, nhưng bên trong thì như bị tùng xẻo.
Không thể trả lời được, nó nhắm mắt lại, nhưng mà khi cả thế kỷ trôi qua, mở mắt ra  nó thấy ông Cattanzara đã tội nghiệp nó, bỏ đi, bên tai nó vẫn còn nghe  những lời ông ta nói trước khi cất bước. "George, đừng làm cái chuyện tao đã làm."

Đêm kế nó ngại phải ra khỏi phòng, mặc dầu Sophia cãi cọ với nó, nó vẫn ỳ ở trong không mở cửa.
Cô ta hỏi :
- Mày làm cái quỷ gì ở trỏng vậy ?
- Không làm gì hết !
- Không đọc sách sao ?
- Không
Cô ta lặng yên một lát rồi hỏi :
- Sách mày đọc mày để đâu hết. Sao tao không thấy  cuốn nào  trong phòng mày ngoại trừ mấy tờ lá cải ba xu đáng liệng vô thùng rác đó.
Nó không trả lời chị nó.
- Cái kiểu của mày không đáng  một đồng xu ten tao cho mày nữa, mày biết tiền tao kiếm đổ mồ hôi xót con mắt mà. Tại sao tao phải cong lưng làm nuôi mày chứ. Đi đi ! Đi khuất mắt tao, đồ làm biếng như con heo, đi kiếm chuyện làm đi !

Nó nằm lì trong phòng gần cả tuần lễ, chỉ chui vô nhà bếp khi cả nhà đi vắng. Sophia chửi rủa nó, rồi năn nỉ nó, ba của nó khóc lóc, nhưng nó vẫn không chịu lết ra khỏi phòng, mặc dù trời nóng kinh khủng, căn phòng của nó bị ứ hơi ngột ngạt. Nó ngộp thở thiếu điều muốn chết luôn, mỗi hơi thở như là hít lửa vô phổi.
Một đêm kia không chịu nỗi cái nóng, nó lẻn ra đường vào khoảng một giờ sáng. Hy vọng chui vô công viên không gặp ai nhưng thiên hạ đầy trời, hom hem, lừ đừ, đương đợi chờ một chút gió mát. Nó vừa đi vừa ngó xuống đất, nhục nhã tránh xa họ. Nhưng chỉ một lúc sau thì nó khám phá ra rằng họ vẫn thân thiết với nó như trước kia. Nó biết là ông Cattanzara không nói gì về nó. Có thể là sáng  hôm sau thức dậy, tỉnh rượu, ông ta quên hết chuyện gặp nó hồi hôm. Lần đầu niềm tự tin len lỏi vô người nó trở lại.

Chính đêm đó, một người khách lạ ở một góc đường đã hỏi nó có phải đã đọc  thiệt nhiều sách không. Nó nói phải. Người kia nói tuổi nhỏ cỡ nó mà đọc nhiều như vậy tốt lắm.
"Vâng"  George  cảm thấy như trút được gánh nặng. Nó mong đừng ai nói tới ba cái chuyện sách vở với nó nữa. Và khi, vài ngày sau đó, tình cờ nó gặp ông Cattanzara, ông ta không hỏi gì hết mặc dầu George nghĩ rằng chính ông ta loan tin  nó đã đọc  thiệt nhiều sách.


Một đêm mùa Thu, George ra khỏi nhà tới đằng thư viện. Từ lâu rồi nó không héo lánh tới đây. Sách vở đầy dẫy, đâu đâu cũng có. Mặc dầu đang tự trấn tĩnh để khỏi run trong bụng, nó thoải mái đem cả trăm cuốn sách, ngồi xuống bàn, đọc.




Bernard Malamud

Nguyễn Văn Sâm   Dịch


-----------------------------------------
Nguồn : VĂN
Số 75, tháng 9-1988


















No comments:

Post a Comment