Sunday, June 12, 2016

LÃO GIÀ VỚI ĐÔI CÁNH KHỔNG LỒ




                                                                            GARCIÁ  MÁRQUEZ



Tác phẩm gần đây nhất của Gabriel  Garcia Marquez, Love in the Time of Cholera, được dịch sang Anh ngữ và xuất bản đầu năm 1988, có tên trong danh sách những quyển tiểu thuyết bán chạy nhất ở Hoa Kỳ trong hơn một năm; rồi ấn bản bìa mỏng có tên trong danh sách cùng loại đến nay đã sang tuần lễ thứ ba mươi.
Sinh năm 1928 tại một tỉnh nhỏ ở Colombia, Márquez viết báo khi còn theo học luật khoa rồi sau đó bước sang địa hạt truyện ngắn và tiểu thuyết. Mãi cho đến năm 1967 ông mới được biết đến như là một khuôn mặt nổi bật nhất trong nền văn học Mỹ-La Tinh đương thời với quyển tiểu thuyết thứ tư, 
One Hundred Years Of Solitude (bản Anh ngữ năm 1970). Tác phẩm này được dịch ra ít nhất ba mươi ngôn ngữ và đã bán hết năm mươi triệu bản.
Năm 1982, Garcia Marquez nhận giải Nobel văn chương. Trong lễ trao giải,  Hàn Lâm Viện Thuỵ Điển tuyên dương ông "Về những truyện dài và truyện ngắn mà mộng với thực kết hợp với nhau trong một thế giới tưởng tượng được soạn dựng một cách phong phú, phản ảnh đời sống của cả một lục địa và những xung đột...Với những tác phẩm của ông Gabriel Garcia Marquez tạo một thế giới của riêng mình - thế giới thu nhỏ của ông. Loạn động và ngơ ngác, nhưng thế giới ấy thuyết phục chúng ta tin nó phản ảnh được đậm nét trung thực một lục địa cùng với những thừa thãi và thiếu thốn  nơi con người sống trên đó ".  
Truyện ngắn viết cho (hay viết về ?) các "trẻ con" dưới đây có thể được coi như một ví dụ thêm vào lời tuyên dương trên.




Mưa được nửa tuần lễ thì hai vợ chồng giết được nhiều cua quanh nhà quá nên Pelayo phải vượt qua một khoảng sân ngập nước để vất xác cua ra biển. Đứa bé mới sinh bị sốt cả đêm, hai vợ chồng cho là tại mùi cua chết. Từ thứ ba cả thế gian u ám. Biển và bầu trời liền lại với nhau thành một màu xám tro. Cát trên bãi biển, vào những đêm tháng ba là những hạt bột lấp lánh, bây giờ trở thành món cháo đặc nấu bằng đất bùn với vỏ sò vỏ cá. Khi Pelayo từ bãi biển trở về nhà, ánh sáng buổi trưa yếu ớt làm anh không nhận ra được vật gì đang cử động và rên rỉ ở cuối sân. Anh phải đến thật gần, thì ra đó là một ông già, một ông rất già, nằm gục mặt vào đất bùn đang cố gắng hết sức cũng không đứng lên được vì đôi cánh khổng lồ của ông xệ xuống mặt đất.

Hoảng hồn vì gặp phải ác mộng, Pelayo chạy đến với vợ là Elisenda đang lấy nhiệt độ cho con, và lôi vợ ra cuối sân. Hai anh chị đứng như trời trồng, há hốc miệng nhìn cái thân hình nằm thẳng cẳng trên mặt đất. Ông già phục sức như người đi nhặt giẻ rách, mấy sợi tóc bạc lơ thơ trên chiếc sọ hói, vài cái răng trong miệng, và ông cố nội ướt lóp ngóp này bị tình cảnh bi đát cuỗm hết tất cả những phong thái của một ông cố. Hai cánh diều hâu khổng lồ bẩn thiểu, lông bị mất một nửa, mắc kẹt trong bùn.
Hai vợ chồng nhìn sát vào ông lão một lúc lâu đến quên cả sợ và cuối cùng thấy ông lão trông quen quen. Cả hai hỏi chuyện thì ông trả lời bằng một thứ tiếng lạ tai ồ ề như giọng thủy thù. Thế là anh chị quên khuấy đôi cánh đang mắc nạn và vội vàng kết luận ông lão là nạn nhân duy nhất sống sót sau khi một chiếc tàu ngoại quốc bị bão đánh bể. Dù vậy họ cũng gọi bà hàng xóm biết hết mọi chuyện của người sống và kẻ chết sang xem. Chỉ cần nhìn thoáng qua, bà cho hai vợ chồng biết là họ đã lầm.
"Thiên thần đấy" . Bà hàng xóm bảo. " Chắc thiên thần đến với cháu bé. Nhưng khổ, già khụ thế này nên bị mưa quật ngã".

Hôm sau mọi người đều biết có một thiên thần bằng xương bằng thịt bị giam trong nhà Pelayo. Bà hàng xóm thông thái phán xét rằng thời buổi này thiên thần là những kẻ chạy trốn để khỏi bị trừng phạt vì những âm mưu phạm thượng trên thiên đường; nhưng mọi người chống lại bà, không ai nỡ cầm gậy phang ông lão. Cả buổi chiều Pelayo cầm cây dùi cui cảnh sát đứng trong bếp canh chừng ông lão, và trước khi đi ngủ anh lôi lão  vào nhốt chung với lũ gà trong chuồng bằng dây thép.
Nửa đêm lúc tạnh mưa thì Pelayo và Elisenda vẫn còn đang giết cua. Sau đó không bao lâu đứa bé thức dậy, hết sốt và đòi ăn.

Hai vợ chồng thấy tội nghiệp ông lão, bèn đặt ông lên một chiếc bè cùng với nước ngọt và thức ăn đủ cho ba ngày rồi phó thác số mạng lão cho biển cả. Nhưng mới sáng tinh mơ hai vợ chồng ra sân thì thấy cả xóm bu lại trước cửa chuồng gà đang chọc ghẹo thiên thần. Không kiêng nể chút nào, người ta vất đồ ăn vào chuồng gà qua những khe thép làm như ông lão không phải là một sinh vật siêu nhiên mà là một con vật trong gánh xiệc.

Cha Gonzaga giật mình vì tin lạ lùng, đến nơi trước bảy giờ. Lúc này bà con xung quanh chuồng gà không còn bỡn cợt  như hồi sáng tinh mơ, mà đang đưa ra mọi dự đoán về tương lai của tù nhân. Kẻ có đầu óc đơn giản nhất chắc ông lão sẽ được bầu làm chủ tịch của cả thế giới. Những người chín  chắn hơn thì cho là ông sẽ được phong thống tướng để đánh thắng tất cả mọi mặt trận. Vài người không thực tế thì lại hy vọng ông lão sẽ gây giống cho địa cầu một giống người có cánh thông  minh làm bá chủ cả vũ trụ. Nhưng Cha Gonzaga, trước khi trở thành tu sĩ, là một thợ đốn củi lực lưỡng, đứng bên rào thép vài phút ôn lại những câu hỏi đáp trong sách giáo lý rồi truyền mọi người mở cửa để cha nhìn rõ con người khốn khó trông nhiều phần giống con gà cồ cao niên xơ xác giữa những bé gà óng mượt khác.

Ông lão nằm trong góc phơi cánh ra nắng bên đống  vỏ trái cây và đồ ăn thừa người ta vất vào lúc sáng sớm. Đã quen với thói khinh mạn của thế gian nên khi cha Gonzaga bước vào chuồng gà chào bằng tiếng La Tinh, ông chỉ giương hai con mắt cổ lỗ sĩ lên rồi lầm bầm trong miệng một thứ tiếng riêng. Cha xứ nghi ngay đây là một thiên thần giả hình khi thấy ông lão không hiểu ngôn ngữ của Thiên Chúa mà cũng không biết chào kính vị thừa sai của Ngài. Rồi cha thấy, nhìn kỹ thì ông lão rất giống người thế gian: mùi thân thể ngoài nắng khó ngửi, bùn đất bám đầy trên cánh và những cọng lông lớn cũng bị gió trên mặt đất làm cho xơ xác. Rồi cha ra khỏi chuồng gà và bằng một bài giảng ngắn cảnh cáo những người tò mò về mối hại của sự giả hình. Cha nhắc nhở mọi người rằng ma quỷ hay dùng những chước xác thịt để đánh lừa những người thiếu tỉnh giấc. Cha lập luận nếu đôi cánh không phải là yếu tố để phân biệt một con diều hâu với một cái máy bay, thì đó càng không phải là yếu tố để xác định một thiên thần. Dù sao, cha hứa sẽ viết thư trình sự việc lên giám mục để giám mục sẽ trình lên Giáo Hoàng và sẽ có sự phán quyết tối hậu.

Sự dè đặt của cha rơi vào tim những kẻ cứng lòng. Tin thiên thần bị bắt  truyền đi nhanh đến nỗi chỉ vài giờ sau khoảng sân sau nhà vụt trở thành một khu chợ, quân đội với lưỡi lê được gọi đến để đuổi bọn cướp tính kéo sập căn nhà xuống. Elisenda muốn trẹo xương sống vì phải quét rác chợ, rồi chị nảy ra ý rào mãnh vườn lại và đòi mỗi người vào xem thiên thần phải trả năm xu.
Những người tò mò từ phương xa tuôn đến. Một gánh xiệc rong cũng có mặt. Gánh xiệc có một người đu bay vù vù mãi trên đầu đám đông nhưng chả ai thèm để ý vì hai cánh của hắn không phải cánh thiên thần mà giống cánh dơi hơn. Những người bệnh tật nặng nhất trên thế gian đến cầu xin sức khỏe: một bà đáng thương từ thuở nhỏ đã bắt đầu đếm nhịp tim của mình, đến giờ không còn số để đếm; một ông Bồ Đào Nha bị mất ngủ vì tiếng động do những vì sao phát ra; một người mắc bệnh mộng du đêm nào cũng dậy làm hỏng hết những việc đã làm ban ngày; và nhiều người khác bị bệnh nhẹ hơn.

Giữa lúc mặt đất ầm ĩ bát nháo lên ấy thì anh chị Pelayo rất sung sướng trong khi kiệt sức, vì chỉ mới có non tuần lễ anh chị đã thồn tiền vào đầy mọi phòng trong nhà mà những người hành hương còn xếp hàng dài đến tận bên ngoài đường chân trời.

Chỉ có thiên thần là coi như mình không gây ra điều gì. Ông lão dành hết thời giờ cố nằm cho thoải mái trong cái tổ mượn, hơi nóng hỏa ngục phát ra từ những ngọn đèn dầu và nến phép treo trên rào thép khiến lão ngất ngư. Mới đầu người ta tìm cách để ông ăn mấy viên thuốc dán, bà hàng xóm thông  thái bảo đó là thức ăn của thiên thần. Nhưng ông lão phớt lờ mọi người cũng như phớt lờ phần ăn trưa ê hề mỹ vị người ta kính cẩn đệ tới. Cuối cùng ông chỉ chịu ăn cháo bột loãng thì không ai quyết được ông là thiên thần hay chỉ là một ông lão. Có lẽ đức siêu nhiên duy nhất của lão là lòng kiên nhẫn. Nhất là mấy ngày đầu khi lũ  gà rỉa mỏ vào cánh gã tìm sâu bọ ăn. Những kẻ tàn tật nhổ lấy lông lão để chạm vào những chỗ tật nguyền trên người, và thậm chí những người hiền lành nhất lấy đá ném vào lão để xem lão đứng lên ra sao. Chỉ có một lần người ta thành công trong việc làm cho lão cựa quậy. Vì lão nằm bất động quá lâu nên người ta tưởng lão đã chết, có người lấy cây sắt nung đỏ chọc vào hông lão. Lão choàng tỉnh dậy, hét lên một tràng tiếng khó hiểu và chảy nước mắt, rồi đập cánh xuống đất vài lần tạo nên một cơn lốc gồm toàn phân gà cùng với bụi vàng và những tiếng la hét kinh hoảng như chưa từng bao giờ có trên thế gian. Dù nhiều người cho rằng  lão phản ứng vì bị đau chứ không  phải vì giận dữ nhưng từ đó mọi người cẩn thận để lão yên thân vì đa số hiểu rằng đây không phải là một siêu nhân mệt mỏi mà là một sự giận dữ đang nằm nghỉ.

Cha Gonzaga dùng hết mọi phương cách của một tôi tớ tận tụy để ngăn cản sự khờ dại của đám đông trong khi ngài đợi sự phân xử tối hậu về bản thể của kẻ bị giam giữ. Nhưng thư từ Rô-Ma không tỏ vẻ gì là vội. Các vị từ tốn hỏi tù nhân có rốn không, ngôn ngữ của tù nhân  có chút nào liên hệ với tiếng Aram  không, đương sự có thể đứng trên đầu mũi kim được bao nhiêu lần, hay không chừng đương sự  chỉ là một công dân  Na Uy có cánh. Những lá thư ngắn này chắc cứ được gửi đến gửi đi cho đến tận thế nếu không có một biến cố  từ trời ban xuống chấm dứt sự rối trí của cha xứ.

Xảy ra là trong những ngày ấy, cùng với nhiều  đoàn xiệc ngoạn mục, có một đoàn đến thành phố cho dân chúng xem một người đàn bà bị biến thành con nhện vì tội không vâng lời cha mẹ. Tiền vé vào xem không những rẻ hơn tiền vào xem thiên thần mà dân chúng còn được hỏi bà nhiều câu về tình cảnh dị thường và được lục lọi người bà từ trên xuống dưới để không ai còn ngờ sự thực đáng hãi này. Người đàn bà là một con nhện dễ sợ lông lá, to bằng con dê rừng đực với cái đầu của một thiếu phụ nhiều phiền não. Đáng quan tâm nhất không phải là vóc dáng mà là vẻ đau khổ thành khẩn khi bà kể lại sự bất hạnh đã xảy ra. Lúc còn nhỏ có lần bà  chui rào trốn nhà  đi khiêu vũ, và khi đang qua một khu rừng để trở về nhà sau cả đêm nhảy nhót thỏa dạ không có phép của bố mẹ thì một tia chớp dữ dội xé trời làm hai mãnh và ở giữa hiện ra một cây gậy màu hỏa hoàng biến bà thành con nhện. Bà chỉ ăn thịt viên, món ăn do những người có lòng nhân từ chọn và ném vào miệng. Một cảnh bày ra trước mắt như vậy, đầy sự thực thế tục cùng với một bài học để đời, thì dễ dàng ăn đứt cảnh một thiên thần lúc nào cũng khinh khỉnh với mọi người. Ngoài ra, nhiều phép lạ được gán do thiên thần làm cho thấy thiên thần đầu óc không được bình thường, như một ông mù nọ vẫn không trông thấy được nhưng lại mọc thêm ba cái răng mới, hay một người bị bệnh bại xuội  thì lại suýt trúng xổ số, và một người bị bệnh cùi thì trên da lại nở ra hoa hướng dương.
Những phép lạ chữa bệnh ấy, đúng hơn là những trò đùa, làm không ai nhắc đến thiên thần nữa khi thấy người đàn bà biến thành nhện có phần trội hơn hẳn. Đó là lý do cha Gonzaga khỏi tuyệt chứng mất ngủ và mãnh sân sau nhà anh Pelayo trở lại vắng vẻ như lúc mưa được ba ngày và cua bò đầy các phòng ngủ.

Ông bà chủ nhà không lấy thế làm tiếc. Với tiền để dành được họ xây một biệt thự hai tầng có nhiều ban công, nhiều vườn, và có lưới cao để mùa đông cua không bò vào được, và tất cả mọi cửa sổ đều có song sắt để ngăn chận sự xâm nhập của các thiên thần. Pelayo còn lập một trại nuôi thỏ gần thành phố và bỏ nghề làm phụ tá cho cảnh sát trưởng. Còn Elisenda  mua một lúc mấy đôi giày cao gót bằng sa tanh và nhiều bộ quần áo lụa kim tuyến, loại quần áo mà các bà được ham muốn nhiều nhất mặc ngày chủ nhật. Chỉ có cái chuồng gà là không ai để ý đến. Nếu nó thường xuyên được rửa bên trong bằng thuốc sát trùng và được xịt thuốc thơm thì không phải vì đó là chỗ ở của thiên thần  mà vì mùi hôi  hám bay lượn khắp nơi như một hồn ma, và vì nó cứ chực biến  ngôi biệt thự  mới xây thành căn nhà cũ. Lúc đầu, khi đứa bé tập đi, ông bà cẩn thận không cho nó đến gần chuồng gà. Nhưng họ bắt đầu hết sợ và quen với mùi khó ngửi, nên trước khi đứa bé mọc cái  răng thứ hai  nó được bước vào chuồng gà chơi  qua chỗ hàng rào thép đã bị đổ. Thiên thần không kém lạnh nhạt với nó hơn là với những sinh vật khác mà còn chịu đựng được những ngỗ nghịch với sự kiên nhẫn  của một con chó không bị ảo-thị-giác.
Cả hai bị bệnh đậu mùa vật cùng một lúc. Ông bác sĩ săn sóc đứa bé không ngăn được tò mò  muốn nghe nhịp tim của thiên thần. Bác sĩ không hiểu tại sao tim ré lên từng chập như thế, còn trong gan thì  đầy những tiếng động  mà thiên thần lại có thể sống được. Nhưng bác sĩ ngạc nhiên nhất  về sự hợp lý của hai cánh. Hai cánh trông thật tự nhiên và hoàn toàn hợp nhân dạng  đến nỗi ông không hiểu tại sao  những người khác không có cánh.

Khi đứa bé bắt đầu đi học thì cái chuồng gà  đã bị mưa nắng làm sụp xuống rồi. Thiên thần kéo Lê mình đi hết mọi nơi như người hấp hối bị lạc đường. Hai vợ chồng lấy cây chổi đẩy ông lão ra khỏi phòng ngủ và một lúc sau  thấy ông trong nhà bếp. Hình như cùng một lúc ông lão ở nhiều chỗ  nên họ sinh ra ngờ là  ông làm được bản sao, là ông tự phân thân đến mọi chỗ trong nhà, và chị Elisenda điêu ngoa quẫn  trí hét lên là chị khổ sở hết sức phải sống trong cái địa ngục chỗ nào cũng có thiên thần. Ông lão lúc này ăn kém đi và hai con mắt cổ lổ sĩ bị mờ  nên ông cứ đụng phải cột nhà. Trên mình ông chỉ còn sót lại những cọng lông  trụi cuối cùng. Pelayo vất lên lưng lão tấm chăn và còn gia ơn  thêm bằng cách cho lão ngủ trong nhà kho. Bấy giờ người ta mới biết lão bị sốt về đêm, miệng ú ớ mê sảng như một  ông già Na Uy. Đấy là một trong vài lần lão làm người ta lo ngại vì tưởng lão sắp chết và ngay bà hàng xóm thông thái cũng không biết phải làm gì với một thiên thần từ trần.

Vậy mà không những ông lão qua nổi mùa đông mà hình như còn khá hơn vào những ngày nắng ấm đầu tiên. Lão nằm bất động ở góc xa nhất, chỗ không ai trông thấy. Đầu tháng mười thì mấy cọng lông lớn và cứng bắt đầu mọc ở hai cánh, những cọng lông trên mình của một hình nộm, trông giống như một bất hạnh nữa của tuổi tác. Nhưng chắc lão cũng biết lý do của những thay đổi này vì lão cẩn thận hết sức để không ai thấy, để không ai nghe thấy lão thỉnh thoảng hát dưới sao trời những câu hò thủy thủ.

Một buổi sáng trong lúc Elisenda  đang thái hành để làm bữa trưa bỗng như có gió từ biển thổi vào nhà bếp. Chị đến bên cửa sổ ngó ra thì thấy lần đầu tiên thiên thần đang cố gắng nhiều lần để cất cánh  bay lên. Những cố gắng vụng về để những ngón tay khơi  một đường rãnh  trên thửa đất trồng rau  và suýt  làm sập nhà kho với đôi cánh đập  vào nắng  mà không bắt được chút không khí nào. Nhưng rồi lão cũng hết sức cất mình lên được. Elisenda thở ra nhẹ nhỏm, cho chị và cho lão, khi nhìn lão bay qua những mái nhà cuối cùng, cố giữ để khỏi bị rơi xuống bằng cách bay của một con chim ưng già yếu. Chị nhìn theo lão mặc dù chị đã thái hành xong và chị nhìn theo lão cho đến khi  chị không còn nhìn thấy, vì bây giờ lão không còn là phiền nhiễu cho đời chị nữa, mà chỉ là một chấm nhỏ tưởng tượng ở tận chân trời  phía bên kia biển cả.


Garcia Marquez

Lê Duy Linh    Dịch


Dịch từ "A Very Old Man With Enormous Wings" trong "Leaf Storm  and Other Stories by Garciá Márquez". Bản Anh ngữ của  Gregory Rabassa. Harper & Row publishers, 1972



-----------------------------
Nguồn : VĂN, Số 93, Tháng 3-1990








No comments:

Post a Comment