Friday, February 26, 2016

SƠ HỌC TIỂU HỌC




                                                                                 NGUYỄN  TẤN  HƯNG





Có ai hỏi tôi sinh năm nào, tôi thường trả lời tôi sinh ra vào năm cuối cùng của thế chiến thứ hai. Ai cũng hiểu năm này là năm gì. Tôi thấy vui vui mỗi lần nghĩ đến ngày sinh của mình. Sau này tôi mới biết tôi sinh ra nhằm ngày VE Day, Victory in Europe, ngày Hitler đầu hàng Đồng Minh.
Tôi sinh ra vào thời điểm miền Nam Việt Nam còn chia làm hai mươi mốt tỉnh đẹp như bài thơ :

Gia Châu Hà Rạch Trà
Sa Bến Long Tân Sóc
Thủ Tây Biên Mỹ Bà
Chợ Vĩnh Gò Cần Bạc, Cấp.

Gia (Định) - Châu (Đốc) - Hà (Tiên) - Rạch (Giá) - Trà (Vinh) -
Sa (Đéc) - Bến (Tre) - Long (Biên) -Tân (An) - Sóc (Trăng)
Thủ (Dầu Một) - Tây (Ninh) - Biên (Hoà) - Mỹ ( Tho ) - Bà (Rịa)
Chợ (Lớn) - Vĩnh (Long) - Gò (Công) - Cần (Thơ) - Bạc (Liêu) - và Cap Saint Jacques  tức Vũng Tàu.

Sau này thì nhiều tỉnh đổi thành quận, nhiều tỉnh bị đổi tên, xoá tên khỏi bản đồ và cũng có nhiều tỉnh mới mọc lên. Thoạt đầu nghe không hợp tai, Thủ Dầu Một ra Bình Dương, Bến Tre ra Kiến Hoà, Mỹ Tho ra Định Tường...nhưng nghe riết rồi cũng quen.
Tỉnh Mỹ Tho của tôi xưa nay vẫn là một tỉnh lớn và cũng là tỉnh duy nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có đường xe lửa đi Sài Gòn. Có cái hay ở chỗ đó mà rồi cũng bị gở đi.

Di tích cổ nhất, một công trình kiến trúc đẹp nhất có lẽ là chùa Vĩnh Tràng xây cất vào khoảng năm 1840, thời vua Minh Mạng. Chỉ có vậy thôi. Những khu vực khác như Vườn Lài, Chợ Cũ, Bến Tắm Ngựa, chùa Chà Dà, Cầu Quay, Bến đò Ty Công An, Chùa Phật Ấn, Nhà Thờ Lớn, Battambang, Đài Chiến Sĩ, Lò Heo, Cây Xăng, Cầu Bắc, Đất Thánh Tây, Bót Số Tám, Bến Xe Mới, Bến Xe Cũ, Vòng Nhỏ, Vòng Lớn...cũng không có gì đặc biệt.

Họa chăng là hai cái giếng nước. Đúng vậy, không có thành phố nào ở miền Nam mà có một giếng nước lớn như vậy. Giếng nước này chắc cũng được đào lâu đời rồi, dùng để chứa nước ngọt cho cả thành phố trong mùa gió Nam, nước biển chảy ngược dòng Cửu Long, vào tận đây.
Trường trung học Nguyễn Đình Chiểu có lẽ chỉ đứng sau trường Bưởi Hà Nội và trường Petrus Ký Sài Gòn về phương diện thâm niên.
Rồi sau này Cồn Phụng của ông Đạo Dừa cũng ...ghi lại nhiều kỷ niệm.

Tỉnh Mỹ Tho có năm quận : Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Bến Tranh và Chợ Gạo. Trong số năm quận, quận Chợ Gạo có lẽ là quận nhỏ nhứt, nghèo nhứt. Nhìn cái nhà lồng chợ thì đủ biết rồi, chỉ lớn bằng hai cái đình thôi. Tỉnh nằm dọc theo sông Tiền Giang, hình như càng xa ra biển dân cư càng nghèo. Con gái lấy chồng về miệt dưới thì bị chê, lấy chồng đi lên chứ ai lấy chồng đi xuống. Mình lỡ sinh ra trong vùng này thì cũng mắc tội lây.

Vác nghèo mà đổ lên non
Cong lưng mà chạy nghèo còn theo sau

Nhưng có lẽ nhờ cái nghèo mà học trò vùng này lại có tiếng học giỏi. Cho đến vùng giáp ranh với tỉnh Gò Công, vùng Chợ Dinh, Hoà Đồng mới thấy dân cư đông đúc, đời sống trù phú. Phần lớn bà con bên ngoại tôi ở vùng này.

Đố anh con rít mấy chân
Cầu Ô mấy nhịp chợ Dinh mấy người
Mấy người bán áo con trai
Chợ trong bán chỉ chợ ngoài bán kim

Cầu Ô  kêu là Cầu Sập, trên đường về phía Đông Sơn.

Quận Chợ Gạo được chia làm năm xã : Hoà Định, Bình Phan, Bình Phục Nhứt, Bình Phục Nhì, và An Thanh Thuỷ. Ngoại trừ An Thanh Thuỷ giáp ranh với tỉnh Bến Tre, còn bốn xã kia đều có dính phần vào con kinh Chợ Gạo nối liền sông Cửu Long và sông Lòng Tảo qua kênh Nước Mặn.
Nói đến kinh Chợ Gạo thì người ta nghĩ ngay đến phà Chợ Gạo, loại phà kéo tay, gây trở ngại lưu thông cả hai đường , đường thủy lẫn đường bộ.
Mỗi lần tàu tới, phải xả dây cáp chìm xuống cho tàu qua, tàu không thắng gấp được nên tàu có quyền ưu tiên. Tàu xúp lê báo động từ đàng xa khi tới khu vực này, và nhân công kéo phà phải nhắm chừng vận tốc của tàu mà làm việc.

Sau này có cầu Chợ Gạo, công binh Mỹ xây cất, cầu thật cao tàu ghe qua lại khỏi cần phải hạ cột buồm. Hai bên bến phà cho đến bây giờ vẫn còn hai cây cột dây thép và đồn binh của Tây để lại. Dọc hai bên bờ kinh Tây cũng làm lộ lớn lót bằng đá ong hoặc đá đỏ cho xe chạy. Đến thời chiến tranh thì lộ bị cắt, cầu bị sập, dần dần con đường lớn biến thành đường mòn, nhiều đoạn mất hút trong rừng cây.

Tôi sinh ra ở xã Bình Phục Nhứt. Muốn tới xã chỉ có hai đường. Đường thuỷ bằng kinh Chợ Gạo, đường bộ bằng con lộ đá đỏ xuất phát từ tỉnh lộ 35, Mỹ Tho - Gò Công. Còn con đường dọc theo bờ kinh thì mất an ninh .
Đi khoảng nửa đường lộ đá đỏ thì có hai toà nhà đồ sộ, nhà có hồ tắm trên sân thượng. Lầu Cô Tám Cô Chín. Cô Tám cô Chín có chồng Tây, đã về Tây mấy đời rồi nên nay lầu bỏ hoang, chỉ là chỗ nghỉ chân của mấy đứa chăn trâu. Mỗi lần bao xe ngựa về quê, thập niên 50, qua ngang đây tôi cũng thấy bùi ngùi.

Tôi không biết ba má tôi di chuyển về xã Bình Phan trong năm nào. Chỉ biết rằng ông nội tôi muốn ba tôi nối nghiệp ông làm nghề "trại cây" . Trại cây của ba tôi cất tại cầu Sắt, cách chợ quận khoảng một cây số. Phi thương bất phú. Lúc ba tôi về trại thì cô dượng tôi cũng dọn về chợ quận cất nhà mở tiệm trên miếng đất ba tôi vừa mới sang. Sau này không ngờ cửa tiệm của cô dượng tôi phát đạt nhanh chóng và trở thành cửa tiệm lớn nhất trong chợ quận. Lầu lên hai ba từng.
Ba tôi không giàu được vì ba tôi bán chịu nhiều quá. Bán chịu khắp cả làng khắp cả quận. Tối ngày đi bỏ công đi đòi nợ mà hết thì giờ. Rồi dần dần bị kẹt vốn không phát triển được. Nhiều trại cưa máy nổi lên, trại mình còn cưa tay thì làm sao mà cạnh tranh được. Tuy vậy chỗ làm ăn lâu cũng có cái tình, bà con trong xã cũng còn lui tới trại ba tôi nên chúng tôi mới được sống qua ngày.

Mỗi lần "kiến súc" từ Sài Gòn về bến cũng vui lắm. Chòm xóm đến phụ ba tôi rã bè cho cây chìm xuống sông đúng vị trí để khỏi bị trôi. Xong việc rồi nhậu nhẹt, tiệc tùng. Lúc kéo "súc" lên đà để rã "tào phó" cũng vậy. Người ta dùng dây xiềng bự cỡ, một đầu cột vào súc, một đầu cột vào bá lăng có hai lổ to để xỏ hai cây đòn, rồi quay lên vòng vòng theo kiểu dùng trâu đạp rạ.
Mỗi lần rã tào phò mà cây đặc thì ba tôi mừng lắm, thấy có lời, còn cây bọng thì may ra huề vốn. Làm nghề cây tài nghệ duy nhất là phải biết lựa cây, nhiều cây bên ngoài lổ hang mà bên trong đặc như sáp, trái lại nhiều cây bên ngoài trông lành lẽ mà bên trong dập nát không chừng. Cây có lổ có hang thì được mua với giá rẻ cũng dễ kiếm lời.
Ba tôi tính tiền bằng "bàn toán" lắc cắc thì lẹ lắm, lẹ hơn là làm trên giấy nhiều. Làm trên giấy ông phải đọc lại cửu chương chữ nho của ông, mỗi lần ông viết ra một con số. Tôi nghe riết rồi cũng thuộc chút ít, mà nó cũng có vần.

Cửu cửu bát nhất
Bát cửu thất nhì
Thất cửu lục tam
Lục cửu ngũ tứ
Đâu khác gì ...chín lần chín...tám mốt, chín lần tám...bảy hai.

Nghề cây của ba tôi ngày càng xuống dốc, bán chịu đòi chưa hết thì đến lúc ông bắt đầu mua chịu ở Sài Gòn. Mỗi lần họ xuống đòi nợ, cơm nước đãi đằng cũng mệt thở không ra hơi. Lẽ dĩ nhiên cũng phải quơ quào đâu đó chút đỉnh mà trả, cho họ vui lòng ra về chứ có khi nào trả hết một lần.

Đó là những năm tôi học sơ học. Trường học xéo xéo với nhà tôi bên kia sông, sông Tham Thu, một nhánh sông lớn chảy vào kinh Chợ Gạo. Thật ra đây là nhà của ông Hội Đồng Lượng, một trong nhiều nhà nghỉ mát của ông ta. Nhà nền đúc cất theo kiểu Tây cao ráo mát mẻ. Mỗi ngày ba tôi lấy xuồng đưa tôi sang sông và rước tôi về. Trong cái cặp bện bằng giấy dầu của tôi có lẽ chỉ có cuốn vần ABC. Qua năm sau ông Hội Đồng lấy lại nhà, và trường sơ học dời lên chợ quận, nhập chung với trường tiểu học. Dinh cũ của ông huyện lấy làm trường, quận gì mà nghèo quá. Tôi bắt đầu theo anh chị tôi chạy bộ đến trường mỗi ngày, một cây số đi một cây số về. Tôi phải chạy mới kịp người lớn đi bộ, và tôi cũng bắt đầu ôm cặp đệm có hai ngăn hẳn hòi như người lớn.

Mấy trường sơ học lần lần đóng cửa, tập trung về trường quận. Học sinh càng ngày càng đông. Giờ ra  chơi có cà rem cây, có kẹo kéo quay số, có nước đá bào xi rô...một cắc, hai cắc cũng đủ xài.
Khi lớn lên, mỗi lần trở về qua mái trường xưa cũ như còn thấy bóng dáng thầy Bảy già, thầy Tám Chương, Chín Chương, thầy Hoàng...và cả anh Tư Cà Rem. Nhớ mấy lần bị đòn, bị khẻ tay, nhớ lần chơi u đánh lộn, nhớ những đêm trăng thu rước cộ đèn, có phát bánh, có đấu xảo...

Trở lại vấn đề làm ăn của ba tôi, ngoài việc làm cây ba má tôi còn phải lo cày cấy năm mẫu ruộng của ông nội tôi ở dưới bờ lộ mé ông chủ Hoàng đi vô sân đá banh. Khỏi sân đá banh thì đến khu rừng cây điệp rồi mới đến ruộng. Vùng Cây Điệp này nỗi tiếng là linh thiêng. Nghe đồn dưới gốc cây điệp là hang cọp, ma hiện hồn thành cọp nhảy ra ăn thịt người, xương xóc đầy hang. Thật ra đây là một nghĩa địa của những người chết không chỗ chôn. Chỉ kẹt mỗi lần ra ruộng thì phải đi qua những đường mòn len lỏi trong khu rừng này, nhất là đi ban đêm, thêm trời mưa rỉ rả. Ngọn đèn lồng chưa đủ soi sáng lấy mình làm sao soi sáng cỏ cây. Tay bắt ấn mà lòng run lập cập. Đi đoạn giữa thì đỡ, sợ nhất là đi sau chót. Hình như đâu đâu cũng có oan hồn, chết oan chết uổng, chết bắn chết trận, chết tức tưởi...không giải thoát được, lẩn quẩn quấn quít với nấm mồ như đã lạng của mình trong dập vùi lãng quên.

Ba tôi dần dần thu gọn nghề cây không làm lớn nữa, trở về Bình Phục Nhứt xây nhà máy xay lúa. Ông mua lại nhà máy của một người bạn trên bến phà, gỡ ra, chở về, rồi ráp lại. Lúc đầu làm ăn được lắm, dân trong vùng không còn chở lúa qua nhà máy Quơn Long nữa. Nhưng ba tôi vẫn bận tâm về vấn đề...của một nơi người một ngã. Ông phải đi đi về về, giao việc cho người quản lý lâu lâu xuống thăm một lần. Hình như ông có linh tính việc xay lúa lấy tiền này cũng có ngày thất bại. Ông kể lại đêm đó, ông nằm chiêm bao thấy một con sâu rọm thật to không hiểu từ đâu xuất hiện trên mặt bàn, rồi bắt đầu bò đến chân bàn, bò lên bong bóng, bong bóng nổ tiêu tan. Sáng ngày có người đến báo tin bánh trớn nhà máy bể, phang vào cột nhà, sập một phía, nhiều người bị thương.
Đầu máy loại xưa có hai bánh trớn hai bên, bể một cái, không cân bằng, không chạy được. Hàn lại không được, nó sẽ bể nữa. Tiền mất tật mang. Mua cái mới, mô đen cũ không còn bán nữa. Đành bán sắt vụn. Quả thật rốt cuộc rồi ba tôi bán sắt vụn cái nhà máy đó.

Thất bại vụ nhà máy xay lúa, ba tôi đổi nghề lần nữa. Biến trại cây thành trại mộc và trại hòm. Ông không còn đi kiến súc, bè cây bằng đường thủy nữa mà mua cây và cưa tại chỗ rồi chở về bằng đường bộ. Trừ khi có người đặt nguyên một cái nhà hay ít ra, vài bộ cột, vài bộ đòn tay, thì ba tôi mới làm một chuyến kha khá. Còn phần lớn, cây mua về dùng để đóng giường, bàn tủ ghế, divan, sóng chén...
Năm mười ông thợ làm trong trại cũng vui đáo để. Nhiều người ở xa, ăn ngủ lại trại, năm ba ngày mới về thăm nhà một lần. Ban đêm họ uống nước trà trò chuyện, nói chuyện tiếu lâm :
Má ơi con muốn lấy anh thợ bào
Anh khom lưng anh đẩy cái nào cũng sâu.
Có người ngâm thơ, thơ Lục Vân Tiên, có người thổi kèn...kèn ...đám ma.

Không hiểu mấy ông thợ mộc này ếm đối ra sao, mà có lần ba tôi bị bác Chín Trâu cự nự một phát dữ tợn :
Anh nghĩ coi, nó ếm cái gì mà thằng nhỏ tui đêm nào ngủ cũng đái dầm. Giường tôi đặt anh là giường phòng mà, nó ếm vậy thì làm sao thằng nhỏ ăn ở với vợ con nó được.
Đây là lần đầu tiên có vụ đái dầm, nói riết rồi ba tôi cũng phải đổi cho ông cái giường khác.
Có người phân trần :
Cái giường mua của anh kỳ thiệt, ngủ sáng dậy không biết đường ra, ai ngờ cái cửa mùng bên này mà cứ vạch vạch phía bên kia.
Lại có người phân trần :
Từ ngày lấy cái giường của anh về, con vợ tui ngủ nó cứ quay mặt vào vách.

Đặc biệt có ông thợ chuyên môn làm nắp hòm. Nghề của ổng là đẻo cây, dạt cây, với cái rìu có cánh chuồn dài như cán rìu. Đẻo làm sao cho tròn, cho trơn tru, cho ăn khớp với khuôn hòm. Không phải chuyện dễ. Nắp hòm đàn ông thì mô hơn nắp hòm đàn bà, phải đẻo cho đúng kiểu, đúng cách. Tiền công của ổng cao gấp đôi mấy người thợ khác. Vậy mà ông cứ đòi đi, nhưng không tìm được ai thay thế.
Đêm nào ngoài trại hòm nghe tiếng cây vặn mình kẽo kẹt, là sáng hôm sau có người đến mua hòm. Có người qua đời.
Đêm nào ba tôi cũng đốt nhang ở " Bàn thờ Tiên Sư " . Không hiểu ông vái cái gì, ông có chịu vái...bán được...nhiều hòm hay không.

Cho đến lúc má tôi mở tiệm hàng xén thì trại mộc, trại hòm của ba tôi cũng sắp sửa dẹp.
Lúc đầu má tôi chỉ định bán nước mắm dầu lửa qua ngày. Nhưng cũng may tiệm hàng xén càng ngày càng phát. Công việc của ba tôi bây giờ chỉ là đứng ra lo việc bổ đồ, sổ sách phụ má tôi và việc cày cấy ruộng nương. Mùa bán tết năm đó cũng rầm rộ. Bánh, mứt, thèo lèo...chưng đầy kệ. Có hoa mai dưa hấu, có pháo, có lì xì...
Nhưng rồi...mấy tiệm lớn mở ra ngoài đầu cầu giựt mối. Tiệm của má tôi như thụt vào trong không thuận đường buôn bán. Tiệm càng ngày càng ế, kệ càng ngày càng trống. Ông làm không xong, đến phiên bà rồi cũng thất bại.

Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi
Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê.

Tiếc rẻ chiếc ghe lù mục lần trong ụ, ba tôi quyết định trở lại nghề cây. Nhất định lần này làm lớn chớ không làm nhỏ. Chiếc ghe lù, chiếc ghe trông như cái hộp dùng để bè cây, chiếc ghe chỉ cần trọng tải mà không cần gì hình dáng bề ngoài. Phải, phải xài nó trở lại. Và ba tôi đã "đợ" ruộng, giao ruộng cho người khác làm, để lấy vốn mở đầu một màn phiêu lưu mới.

Đó cũng là năm tôi bắt đầu xa nhà, lên tỉnh theo học ban trung học.



Nguyễn  Tấn  Hưng

------
Nguồn: VĂN
Số 60, tháng 6-1987



Wednesday, February 24, 2016

HỎI THĂM NHỮNG CÁ CÙNG CHIM

                                            Hỏi thăm những cá cùng chim
                                           Chim bay xa bóng, cá chìm bặt tăm.
                                                                          Tản Đà


Phan Thị Trọng Tuyến



Ban đầu, tất cả những hủ, lọ, keo thủy tinh trong nhà bị trưng dụng và được xếp dọc theo hai bệ cửa sổ. Trong mỗi cái là một loại cá. Cá lia thia, cá phướng đen đỏ trắng cam, cá xiêm xanh tía vàng bạc, cá đá vằn vện oai phong. Thỉnh thoảng bọn con nít len lén nhấc tờ giấy chận, những con cá nhìn thấy nhau, đứa phùng mang trợn má húc đầu vào thành lọ, đứa sừng sỏ nghinh lại, đứa chạy loăng quăng cuống quít vòng quanh, cả bọn tôi reo hò ầm ỹ cổ võ. Cậu tôi chạy ù tới ký đầu bọn tôi cốc cốc vừa la oai oái vừa tái lập hoà bình cho bọn cá.

Rồi thằng em tôi cũng bắt chước, đi bắt cá chốt, cá lìm kìm dưới sông lên. Lại hủ lọ lủ khủ. Thôi thì nó thử hết nước sông cầu Sắt, tới nước "máy" Đồng Nai, hết thức ăn cá lia thia đến thức ăn cá Tàu, chỉ hai hôm ba bửa là lũ cá sông xấu xí nằm chổng ngược phơi bụng trắng phếu. Thằng nhỏ ỷ ôi năn nỉ, cậu thí cho vài con cá, sợ nó bò xuống sông hoài, có ngày chết đuối.
Cậu tôi mặc cả, thương lượng với những bạn hàng cá ở chợ Hàm Nghi rồi vác về hai hồ cá thủy tinh đúng hiệu. Có bông đá màu đỏ, có cả rong xanh, cây cối giả bằng nhựa. Thằng em tôi sung sướng thừa hưởng những món chứa linh tinh thuở ban đầu của cậu.
Thỉnh thoảng cậu và đám bạn hàng xóm thách đấu nhau. Từng cặp, từng cặp cá (sau khi đã giương vây phồng cánh chửi bới nhau qua hai lớp vách lọ thủy tinh) được thả chung vào một chậu. Chúng sẽ đớp, cắn nhau trong tiếng reo hò. Nhà tôi ồn ào như cái chợ. Tôi chen không nổi với đám con trai nên khinh bỉ lùi ra xa, thỉnh thoảng lé mắt, nghếch mỏ dòm dòm, nhờm tởm tưởng tượng đến lúc chúng ngắt đầu con cá dựng lên trên cây tăm, xoay xoay cây tăm trước mũi những con cá để máu nóng hung hãn bốc lên. Cậu cười ngất :
- Con gái ngu quá, đá cá chớ có phải đá dế đâu !
Hừm, hừm, đá gì cũng vậy, mùa dế thì thấy dế không đầu, giò cẳng vương vãi trên sân xi măng, mùa đá cá thì xác cá trầy vi tróc vảy nằm trong thùng rác.
Nhưng cậu là kẻ đam mê. Và đam mê cứ đến ào ạt, hết đợt này đến đợt khác, cái này đè lên cái kia, cái sau lấy chỗ cái trước. Từ lúc mới lớn lên, trí nhớ đi đến chỗ xa nhất, tôi đã thấy cậu mê chim chóc. Mỗi lần về quê, cậu rình rập, leo cây bắt tổ chim, gọt đẻo giàn ná bắn chim.
Rồi hết hè về thành phố, cậu và con mèo rất giống nhau: con mèo ngồi thu lu trên mái tôn, hai con mắt lim dim đạo đức giả. Đôi chim sẻ vừa xà xuống, chưa kịp hót lên một tiếng nhỏ, mèo đã xồ ra, trong chớp mắt cắn cổ một con chim chạy đi sống sót. Chú chim đảo qua đảo lại kêu lên những tiếng cuống quít, não nùng. Còn cậu tôi, chạy nhào lên gác, rút ná, tra đạn, hướng lên cây sao rậm rạp, nhắm một con mắt, thẳng tay kéo giàn rồi vụt buông những ngón tay. Lá cây rơi lả tả, cậu lại chạy a xuống, bới bới đám lá...rồi lỏn lẻn đi vào nhà, tay không...
Dần dần cậu có tổ chức hơn, chững chạc hơn, bớt dã man, cậu sắm lồng, cậu biết phố Hàm Nghi, viếng chợ cá tới chợ chim. Những người buôn bán năm cũ, có nhớ  cậu tôi  không ? Một chú bé nhỏ choắt, nói năng nhỏ nhẹ, đôi mắt to đen như nhung, ban đầu đi một chiếc xe đạp lau chùi bóng loáng, sau đó...(sau đó là một đề tài đam mê khác của cậu và đề tài viết của tôi...). Để có chỗ cho một cái lồng chim thật to, cậu phải thanh toán bớt những chậu cá ở ngoài sân, lại mua bán, đổi chác nhộn cả lên. Má tôi hì hục đóng một cái nhà chim. Tôi gọi là nhà vì tôi có thể chui vào được, nhưng cậu chẳng cho đứa nào vào, cậu tự làm lấy tất cả, dựng cành cây khô, lấp những chiếc nhà nhỏ xíu, những cây xích đu, làm ổ chim, gắn máng thức ăn, bình nước.
Chim gì cậu cũng mua, mấy họ nhà chim chen nhau ở trong cái lồng son khổng lồ. Nào cưởng, sáo, két xanh, hoàng yến, chìa vôi, áo già...chim líu lo ríu rít có khi cắn nhau chí choé,  thức ăn, lông, kít, văng tung toé. Cậu vẫn vui vẻ lau rửa, thay nước, xắt rau, thay hột cải, mua cả cào cào châu chấu, trùng đất cho những chú chim khó tính.

Nhưng cậu không có tay nuôi, hay vì đời cá chậu chim lồng chẳng thích hợp với ai nhất là cho chim và cá, chúng thay phiên nhau chết. Bọn tôi, đi học về, vất cặp xuống là chúi mũi vào những ngục tù, quan sát rồi hô hãi :
- Cậu Út ơi có một con chim chết !
- Cậu Út ơi có một con cá ngáp ngáp !
Cậu lật đật vớt cá ra, rờ rẫm, thay nước. Cậu bồng chim ra, vuốt ve, ủ ủ trong hai bàn tay, có khi cậu vạch mỏ chim ra nhỏ vào vài giọt nước hay thuốc. Má tôi chẩn mạch qua không gian và lấy thuốc ra nghiền, khi thì terramycine, khi thì auréomycine có khi cả thuốc kiết lỵ, thuốc ghẻ, thuốc sốt rét...Má tòi đưa mấy đồng bạc lẻ :
- Con chạy ra phạc ma xi Ngọc Lan mua hai viên ty phô my xin, một tuýp ga ni đăng...
Bây giờ đùa má tôi thì má tôi giận :
- Tao nuôi tụi bây bảy tám đứa lành lặn không đui què sứt mẻ !

Nhưng cá và chim...dở hơn tụi tôi nên thi nhau về chầu...Diêm Vương, Hà Bá. Ngoài tai trời, ách nước, chim cá còn chịu những khổ nạn khác nữa, ấy là chưa kể trẻ con hàng xóm nghịch ngợm cho ăn giấy vụn, cây trái, thức ăn bậy bạ.
Một hung thần ác mỏ khác là con khỉ Bạch Viên, má tôi mua của bác Năm chạy xe đò Sài Gòn - Đà Lạt. Con khỉ khôn như người và phá phách hơn tụi tôi, lâu lâu, thừa lúc mọi người lơ là cảnh giác, khỉ ta tuột từ trên đầu tủ, nhào lại chậu, thò tay vớt cá hất xuống đất. (khỉ cột ghét cá ăn ?) Cậu tôi hét lên, lượm cá bỏ vào chậu, kéo sợi xích, lôi con khỉ xuống, đánh vào tay nó. Khỉ nhe răng cười ngây thơ. Cá bị đau tim hấp hối. Đôi khi khỉ ta mở cửa chuồng chim, không phải để phóng thích chim mà cốt để mèo chui vào ! Con mèo mướp già vớt cá tài tình không kém và hễ ăn thì chẳng như Cám, không chừa vây vẩy xương da chi cả, nhưng chỉ cần nhìn mèo ta ngồi liếm mép rồi vươn vai thẳng cánh nằm kềnh ra dưới cửa sổ là biết ngay.

Dần dần những chậu cá hết khách trọ, trong chuồng chim cũng chỉ còn con cưởng biết nói vài tiếng
"Má ơi ! Ai đó ? ". Cậu dốc lòng nuôi dạy, chăm sóc, chuyện vãn, kiên nhẫn lập đi lập lại từng câu ngắn. Không biết ăn bao nhiêu ớt, lột lưỡi mấy phen mà rốt cục cưởng chỉ biết kêu tên thằng em tôi
"Đạt ơi ! Ai đó ?". Ngày nào cũng có con nít, người lớn đi ngang dạy cho mấy câu chào hoặc chửi tục, song lắm thầy thối ma, cưởng ta chỉ nói được bấy nhiêu rồi khựng luôn.

Cậu tôi buồn lắm, xoay ra chăm lo cho con khỉ Bạch Viên. Khỉ ta càng làm lộng, có khi cắn cả bọn tôi hay ném đồ vào khách đến viếng nhà sau, cậu có đóng cho khỉ một cái bệ gỗ phía trên cửa ra vào, chân khỉ xích vào một dây dài độ hai mét, khỉ ta thong thả chuyển vận từ ngai vàng qua tủ, tụt xuống tận cửa sổ, thò tay ra ngoài xin quà bọn trẻ hàng xóm...Hễ khỉ phá quá, má tôi rầy, cậu thu ngắn dây lại, đến khi khỉ ngoan, cậu nới dây ra.
Một bửa, bà Chín Rởm, hàng xóm với nhà tôi ẳm con qua mắng vốn chuyện gì đó, vừa qua khỏi ngưỡng cửa, khỉ ném vỏ chuối ngay vào giữa mặt bà ta, bà chưa kịp phản ứng thì khỉ tụt xuống thò tay kéo tóc đứa con bà. Cả hai mẹ con, kẻ la làng chói lói, người khóc thét...
Thế là cậu tôi ẳm khỉ đi Hàm Nghi.

Chỉ ít lâu sau, cậu bê về một con...sóc. Ô, sóc dễ thương quá, cái đuôi xù ra và dựng ngược lên, mềm mại, hai con mắt nhỏ, mấy ngón chân, ngón tay tí hon. Khi ăn, nó cầm bằng cả hai tay như một đứa trẻ. Năn nỉ khóc lóc lắm cậu mới cho mỗi đứa tôi nựng nịu hay vuốt ve sóc một cái. Cậu cột chân sóc vào sợi dây nhỏ, sợi dây dính vào nút áo, sóc thoăn thoắt leo ra leo vào túi áo cậu, có khi leo lên cả vai cậu, ngơ ngác ngắm nhìn xung quanh trong tiếng trầm trồ của thiên hạ. Sóc và người không bao giờ rời nhau.
Cho tới một ngày, cậu đánh thức cả nhà bằng một tiếng kêu kinh khủng. Ô hô, cậu ngủ mê, lăn lộn thế nào mà đè nghiến con sóc nhỏ. Đã bảo cậu không có tay nuôi mà ! Và câu chuyện cậu nuôi thú là chuyện một nghìn lẻ một đêm, là một never ending story.
Càng lúc cậu càng leo thang trong sự lựa chọn quái đản. Cậu bê về một con trăn con bé tí, đường  kính thân độ bằng ngón tay cái của ba tôi. Trong khi chờ trăn lớn để cho vào chuồng chim to (ở với cưởng), cậu cho trăn ở một lồng chim nhỏ. Trăn cuộn tròn nằm ngủ suốt ngày, chẳng có chi đáng nói. Mỗi tháng một lần cậu mua gà con về cho trăn ăn, tôi chưa bao giờ dám đứng xem, con nít người lớn bu đen. Khi thiên hạ dang tay ra về, tôi mon men đến gần thấy trăn ta cuộn tròn nằm ngủ, một khoảng  bụng phình to thật gớm ghiếc. Có khi cậu chỉ cho trăn ăn trứng gà. Trăn lớn lên rất nhanh, lâu lâu lột da thấy mà ghê.
Trong đám thú vật của cậu, từ những con "củ" (?) cậu nuôi trong cam thảo, vỏ quít - cậu đem đến tiệm thuốc Tàu đổi lấy quế hay táo khô - đến vịt con nuôi trong chậu, từ chim yến đến dế cơm, từ cá ba sắc đến rùa Kim Quy (  ? ), con nào tôi cũng được cậu cho " rờ một cái " rứa mà con trăn tôi chịu thua một phép. Cậu dụ:
- Rờ thử coi, ngộ lắm, thân nó mềm, da nó cứng, máu nó lạnh...
Tới một bữa, cả nhà nhốn nháo: con trăn xổng chuồng trốn mất ! Tôi đứng ngẩn ngơ trước lồng chim trống, hai song kẽm bị kéo rời nhau như khi Hercules bẻ cong chấn song vượt ngục. Cả đám đổ xô đi tìm. Anh Phú, bạn cậu tôi bàn:
- Nó trốn dưới mấy cái nhà sàn ven sông để bắt cá hoặc gà vịt ăn đỡ, chừng lớn hơn nó lên bờ bắt...chó...hay con nít...ăn.
Trời ơi, mấy tuần liền, tôi không dám vô xóm, không dám qua nhà mấy con nhỏ bạn ở ven sông ! Và tin rằng mười năm sau, nếu có thủy quái hoành hành ở sông cầu B. đích thị là con trăn trốn tù thuở trước !

Khi tôi đi học xa, em tôi viết thư cho hay cậu đang nuôi một con cá...sấu ! Cá sấu được nuôi trong ...thau nước, đặt trên...nóc nhà. Mỗi ngày má tôi đi chợ mua thức ăn cho cả nhà, phải nhớ thêm phần thịt cá cho sấu. Cho đến một hôm, chuyện phải đến xảy ra : sấu liều mình bò lông rông từ nóc nhà xuống đất và bò thẳng ra sông tìm nơi khoảng khoát.
Mười lăm năm sau xóm cầu B. lại có thêm một con giao long !

Never Ending Story ? Không, khi đất nước hoà bình thống nhất, Nam Bắc một nhà và mỗi nhà túa ra bốn phương tám hướng, tôi không còn nghe cậu tôi nuôi con gì nữa.
Hai đứa con cậu mợ sinh ra từ thời "Nguỵ" , cậu nuôi chỉ nổi một đứa, còn một đứa đi ở với Dì tôi.



Phan Thị Trọng Tuyến





--------------------------------------
Nguồn : Văn - Giai phẩm xuân Nhâm Thân - số 114 -115, tháng 12-1991 và tháng 1-1992




Tuesday, February 23, 2016

BỨC HOẠ THU SƠN



                                                              AKUTAGAWA RYÙNOSUKÉ
                   
                                                              Nguyễn văn Sâm     dịch


Akutagawa Ryùnosuké  (1892-1927) thiếu thời theo học ở Đại học Tokyo, năm 1915 khi truyện ngắn "Rashoma" của ông đăng trên một tạp chí sinh viên được sự chú ý của đông đảo những người có thế giá về văn chương thì ông quyết định theo đuổi việc viết lách. Hầu hết tác phẩm của ông viết lại những truyện xưa cấu trúc theo cái nhìn hài hước của sự mẫn tiệm mới, thế kỷ 20.
Bản chất khó phù hợp với cuộc sống, năm 1927 ông tự sát bởi vì cảm thấy có một sự "khó chịu mơ hồ, khó diễn tả", để lại độ 150 truyện ngắn.
Truyện " Bức họa Thu Sơn" dưới đây là một loại truyện ngụ ngôn nói về tính chất khó nắm bắt được chân xác cái Mỹ. Cái Mỹ tự nó đã huyền ảo lại còn thay đổi theo tâm trạng của người thưởng thức.
Ngụ ngôn, tỉ dụ, tượng trưng là loại truyện được dựng nên để diễn tả dễ dàng hơn về một vấn đề trừu tượng, vốn được sử dụng nhiều ở Á Đông.



Nhân nói đến họa sư Đại Trì, dám hỏi tôn ông đã từng xem qua bức họa "Thu Sơn" của ông ta chưa vậy ?
Một tối họa sĩ Uông Sử Khố, nhân lúc viếng bạn, Vân Nam Thiên tiên sinh đã hỏi như thế.
Chưa, kẻ hèn này chưa được hân hạnh đó, còn tôn ông ?
Trong khi Vân Nam Thiên đáp lời, hình ảnh hai bức tranh nổi tiếng của Đại Trì, bức "Vui Xuân" và "Bãi Cát"  hiện ra trước mắt ông.
Uống Sử Khố đáp:
Thưa...khó nói lắm, tại hạ cũng không biết mình đã có cái hân hạnh đó chưa. Thật ra...
Chủ nhân ngạc nhiên nhìn khách :
Tôn ông lại không biết mình đã từng xem chưa sao ? Tôn ông muốn nói đã từng xem một bản mô phỏng bức tranh đó ?
Không, không phải bản mô phỏng. Tại hạ đã xem bản chính đấy chứ. Không phải chỉ một mình tại hạ xem đâu thôi. Chính hai đại phê bình gia về hội họa là Diên Khánh và Liên Châu cũng đã từng bị lôi cuốn vào câu chuyện bức Thu Sơn này nữa.
Uống Sử Khố hớp một ngụm trà, mĩm cười nghĩ ngợi :
Không biết câu chuyện có làm bẩn tai tôn ông không ?
Vân Nam Thiên cúi đầu lễ phép đáp :
Trái lại, kẻ hèn này rất hân hạnh ! Đoạn khơi tim ngọn đèn Hoa Kỳ trước mặt.
Vào lúc đó (họa sĩ Uông Sử Khố bắt đầu) lão họa sư Diễn Tái-vẫn còn tại thế- Một tối, trong khi đàm luận hội họa với họa sư Diên Khách, Ngài hỏi ông này đã từng xem qua bức họa Thu Sơn của Đại Trì chưa. Tôn ông biết đó, họa sư Diên Khách hằng say mê nghiên cứu họa phẩm của Đại Trì, hầu như chẳng bức nào của Đại Trì lọt khỏi mắt ông, nhưng lại chưa từng thấy bức Thu Sơn, đã ngượng nghịu đáp :
Thưa, tiểu sinh chưa từng được hân hạnh và cũng chưa hề nghe nói về sự hiện hữu của bức họa này.
Lão họa sư Diễn Tái từ tốn :
Nếu vậy, các hạ chớ bỏ lỡ dịp đầu tiên nếu được xem. Về phương diện nghệ thuật nó còn tuyệt hơn cả bức "Núi Hè" hay bức "Bão tố Lang Thang" . Thật ra ta cũng không thể quả quyết đó có phải là tối đại tuyệt phẩm của ông ta không nữa.
Tuyệt đến thế sao ? Thế nào tại hạ cũng phải tìm xem mới được. Xin lão tôn sư cho biết ai hân hạnh được làm chủ nó vậy ?
Trương tiên sinh ở Nhuận Thành, nếu các hạ có dịp đến viếng đền Kim Sơn hãy xin phép Trương tiên sinh để xem mới được. Xin gởi các hạ một phong thư giới thiệu.

Nhận thư, Diên Khách lập tức chuẩn bị hành trang đi Nhuận Thành. Gia cư trân tàng danh họa vô giá như vậy chắc chắn sẽ còn rất nhiều họa phẩm quý giá khác thuộc những thời đại hội họa khác nhau. Nghĩ vậy, Diên Khách cảm thấy phấn khích khi sửa soạn đăng trình.

Đến Nhuận Thành, trái lại ông vô cùng ngạc nhiên. Ốc thự họ Trưong kiến trúc đồ sộ nhưng đã đổ nát, điêu tàn. Dây leo giăng đầy vách, cỏ dại mọc ngập vườn. Khách đến, gà vịt, gia cầm trố mắt ngó. Trong khoảnh khắc nỗi hoài nghi về lời dạy của vị lão họa sư Viễn Tái nẩy vào trí, ông tự hỏi sao bức tranh của Đại Trì lại có thể lọt vào một ngôi nhà như thế. Gia nhân ra chào, thư giới thiệu được trao với lời giải thích khách từ xa đến mong mỏi được chiêm ngưỡng bức họa Thu Sơn.
Bước vào đại sảnh, bên trong dầu bàn ghế, trường kỷ bằng danh mộc bạch đàn bày biện ngăn nắp, mùi ẩm mốc vẫn thấp thoáng mọi nơi, không khí hoang phế ngự trị cả trên mái ngói.
Chủ nhân xuất hiện, mãnh khảnh nhưng thanh nhã, bạch diện xanh xao, thủ túc thanh tú, tỏ ra thuộc dòng quý tộc trâm anh. Sau khi vắn tắt giới thiệu, khách đã vội vàng nói ý mình, hấp tấp như ngại để lâu bức họa sẽ khói sương tan biến.
Trương tiên sinh đồng ý tức thời không chút ngần ngại, ra lệnh treo tranh trên tường trống của đại sảnh.
Thưa, đây bức họa Thu Sơn tôn ông nói đến.

Với thoáng nhìn đầu, họa sư Diên Khách đã buộc miệng thán phục. Một màu xanh đậm ngự trị toàn thể bức tranh. Từ viền này đến viền kia, một dòng sông uốn khúc, nhiều nhịp cầu bắt ngang ở những thôn ở hai bên bờ. Một ngọn núi lớn sừng sững trong rặng núi dài, phía trước treo lơ lửng vài cụm mây thu. Núi đồi một màu xanh mát như mưa vừa mới tẩy đi lớp ô uế bợn nhơ, một nét đẹp thần bí tỏa ra trên những lá vàng từ mấy bụi rậm rải rác trên sườn đồi. Đây không là họa phẩm thông thường ta thường thấy mà là một bức họa về cả hai mặt bố cục và màu sắc đã đến tuyệt đỉnh hoàn hảo. Một tác phẩm của thiên tài nghệ thuật với cảm quan cổ điển về cái đẹp.
Trương tiên sinh nhìn khách mĩm cười :
Dám xin họa sư cho biết tôn ý.
Ồ ! Phẩm chất siêu phàm. Diên Khách ca tụng trong khi vẫn kính cẩn nhìn bức họa. Những lời ca tụng vô vàn của lão họa sư Viễn Tái vẫn chưa thấm vào đâu. So với bức họa này, tất cả những bức tại hạ từng xem qua đều trở thành cỏ rác hết.
Thật vậy sao ? Họa sư nghĩ nó tuyệt tác đến như vậy à ?
Diên Khách quay lại nhìn chủ nhân ngạc nhiên :
Ngài nghi ngờ giá trị nó sao ?
Thưa không, không. Tại hạ quyết không nghi ngờ gì cả. Chủ nhân đỏ mặt ngập ngừng bối rối như một thư sinh trẻ. Vẫn rụt rè nhìn bức họa, ông giải bày :
Chẳng là mỗi khi ngắm bức họa, tại hạ đều có cảm giác đang nằm mộng, mặc dầu mắt vẫn mở to. Từ lâu, vẫn nghĩ rằng chỉ mình cảm nhận vẻ đẹp này thôi, vẻ đẹp nhiều hấp lực hơn thế giới thực tại ngoài đời. Những điều họa sư vừa dạy khiến trở về những cảm thức lạ lùng đó.
Tuy nhiên họa sư Diên Khách không chú trọng gì đến những giải bày rõ ràng có tính chất biện hộ này. Ông đã bị bức họa thu hút, câu nói vừa rồi đối với ông chỉ như chủ nhân nhằm mục tiêu  che đậy khuyết điểm trong khi đàm luận.
Chập sau Diên Khách rời ngôi nhà hoang phế nọ.

Sau khi uống thêm tuần trà, họa sĩ Uông Sử Khố tiếp :
Mấy tuần trôi qua, hình ảnh sống động của bức họa vẫn in ràng ràng trong trí não ông. Bây giờ sau khi đã xem tuyệt phẩm của Đại Trì, ông thấy mình sẵn sàng đổi bất cứ những gì đang có để được nó. Là một sưu tập gia kỳ cựu, ông nhận chân rằng không một tuyệt phẩm nào đang treo ở nhà ông - kể cả bức Mãn Thiên Vũ Tuyết của Lý Anh Cửu ông từng trả năm trăm lượng bạc - có thể so sánh được với bức họa tuyệt thế "Thu Sơn".
Trong thời gian lưu ngụ Nhuận Thành, ông cho người thường xuyên đến ốc thự họ Trương điều đình mua bức họa. Bao nhiêu đề nghị đều bị khước từ. Người chủ nhân xanh xao nọ luôn lễ phép đáp rằng mặc dầu ông cảm kích sâu đậm việc họa sư thán phục bức họa, mặc dầu ông cũng muốn cho mượn, nhưng xin phép được giữ lại trong lúc này.
Lời từ chối càng tăng thêm lòng ước muốn dũng mãnh của họa sư Diên Khách. Ông nhủ thầm "bức tuyệt phẩm này một ngày nào đó sẽ được treo trong sảnh phòng ta thôi". Tin tưởng như vậy, ông quay về, lòng tạm quên bức họa.
Khoảng một năm sau, nhân dịp viếng Nhuận Thành khác, ông tìm đến ốc thự họ  Trương lần nữa. Cảnh vật vẫn như xưa. Dây leo vẫn bò giăng chằng chịt đầy vách, phủ giậu, vườn vẫn tràn cỏ dại lấp lối. Diên Khách gọi cửa, gia nhân cáo chủ vắng nhà, khẩn khoản xem lại bức tranh bị chối từ rằng không được phép. Van nài mãi gia nhân buộc lòng bế cửa tạ khách.
Buồn rười rượi, ông rời ngôi nhà. Tuyệt phẩm Thu Sơn vẫn nằm trong một gian phòng đổ nát nào đó.

Uông Sử Khố nghỉ một lúc rồi tiếp :
Tất cả những điều vừa trình bày đều do tại hạ nghe được từ chính miệng họa sư Diên Khách.
Vấn Nam Thiên gãi chùm râu trắng :
Nhưng xin thưa, họa sư Diên Khách có thật sự xem được bức họa Thu Sơn không ?
Chính họa sư cho biết là mình đã xem. Xem hay không tại hạ không dám quyết đoán. Xin được phép kể tiếp phần sau, nhiên hậu tôn ông tự mình phán đoán.
Uông Sử Khố tiếp tục câu chuyện với vẻ chăm chú hơn, giờ thì ông đã thôi nhấp nháp trà.


Khi họa sư Diên Khách kể cho tại hạ mọi điều nói trên, gần nửa thế kỷ đã trôi qua từ ngày ông viếng Nhuận Thành. Lão họa sư Diễn Tái khuất núi đã lâu. Ngôi nhà đồ sộ họ Trưong đã truyền sang đến người cháu nội. Không ai biết bức họa dạt trôi về phương trời nào. Không biết có phần quan trọng nào bị rửa mục với thời gian không. Trong khi nói chuyện họa sư Diên Khách mô tả bức tranh kỳ bí này quá sống động, đến nỗi tại hạ gần như bị thuyết phục nên như là thấy nó trước mắt. Không phải các chi tiết trong tranh đã gây cảm xúc nơi họa sư mà chính do cái đẹp mơ hồ huyền ảo của bức tranh như một toàn thể. Qua ngôn từ của ông, cái đẹp đó đã thấm vào tâm não tại hạ, cũng như tâm não của ông ta.

Khoảng một tháng sau ngày hội kiến đó, tại hạ có dịp xuôi Nam gần phía Nhuận Thành. Khi đến tiễn cáo với họa sư, được khuyên nên tìm cách dò la về sự hiện tồn của bức họa : " Nếu Thu Sơn về lại với ánh sáng nhân thế, quả thật vinh hạnh cho nghệ thuật".
Không nói tôn ông cũng biết tại hạ nức lòng muốn xem bức họa đến như thế nào. Nhưng thực tình công việc quá đa đoan nên không tìm được thì giờ ghé ốc thự họ Trương. Trong khi đó ngẫu nhiên phong thanh "Thu Sơn" đã thuộc về một nhà quý tộc nào đó họ Vương. Chẳng là họ Vương nghe chuyện về bức tranh nên đã gửi người đến chúc mừng người cháu đích tôn của Trương tiên sinh. Nghe nói người này đã gởi về cho họ Vương ngoài những thư từ giấy má xưa của gia đình còn có một cái đỉnh trầm dùng trong ngày đại lễ, vật gia bảo lâu đời và một bức họa phù hợp với mô tả về bức họa Thu Sơn của họa sư Đại Trì nữa.
Vui mừng vì được những món quà này, họ Vương đã thiết lập một bữa đại yến cho người cháu của Trương tiên sinh, vinh danh chủ tọa, với trân lương mỹ vị, nhã nhạc, mỹ nữ, thêm được biếu vàng ngàn lượng.
Khi được nghe chuyện này, tại hạ gần như nhảy cỡn lên vui mừng. Nửa thế kỷ trôi qua dường như bức "Thu Sơn" vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, lại còn sắp cho tại hạ dịp chiêm ngưỡng. Tức thì lên đường xem tranh, chỉ kịp lấy theo vài món thiết dụng.
Chuyện hôm đó không thể nào mờ phai trong trí. Buổi chiều đầu hạ, trời trong tĩnh mịch, hoa thược dược khoe sắc trong vườn họ Vương. Gặp chủ nhân, trước khi kịp chào hỏi, tại hạ đã vội cười vui.
Bức họa khiến bỉ nhân náo nức. Lão họa sư Diên Khách tổn phí bao nhiêu tâm huyết mong gặp lại, Bỉ nhân cơ may thỏa chí bình sinh lại chẳng tốn chút công.
Họ Vương ân cần :
Tiên sinh đến thật quả hợp lúc. Tình cờ hôm nay tiện nhân cũng đang mong chờ lão họa sư Diên Khách và phê bình gia danh tiếng Liên Châu. Xin mời vào. Tiên sinh tiên nhập, tiên sinh là người thưởng thức trước tiên.
Tranh được lệnh treo lên tường. Đập mạnh vào mắt tại hạ. Những ngôi làng nhỏ rải rác theo bờ sông, dăm cụm mây trắng lững lờ trên thung lũng, màu xanh nhạt của rặng núi vòi vọi kéo dài đến xa tắp như sự tiếp nối trong những bức tứ bình. Thật vậy, toàn thể cảnh tượng do Đại Trì sáng tạo diễm lệ vô   song, hơn hẳn cảnh tượng ngoài đời. Tim tại hạ đập nhanh hơn khi nhìn kỹ.
Mây đó, sương mù kia, đồi núi nọ, thung lũng này, không thể ngờ chẳng phải do Đại Trì sáng tác. Ai ngoài ông có thể đem nghệ thuật hội họa đến sự toàn mỹ mà mỗi nét cọ đều tạo nên một vật sống đầy sinh khí ? Ai ngoài ông có thể sản xuất được màu sắc có chiều sâu và phong phú đến thế trong khi vẫn che dấu được vết tích cơ giới của nét cọng vạch sơn ?
Nhưng...nhưng tức khắc tại hạ cảm thấy đây không phải là bức mà lão họa sư Diên Khách đã xem từ trước. Không, không, mặc dầu tuyệt hảo đấy nhưng nó không phải, chắc chắn không phải là bức mà lão họa sư Diên Khách đã mô tả với lòng tôn trọng, sùng bái.
Họ Vương và thân hữu bao quanh quan sát nên tại hạ vội vàng tỏ bày lòng thích thú. Dĩ nhiên không muốn chủ nhân nghi ngờ tính chất nguyên tác của vật sở hữu nhưng rõ ràng lời ca tụng đã không toại ý ông ta.
Ngay lúc đó gia nhân trình báo lão họa sư Diên Khách đến. Cách thế ông chào họ Vương, tại hạ cảm nhận nỗi khích động dâng tràn trong lòng ông nhưng liền đó mắt ông dừng lại trên cụm mây dường như đang phất phơ trước mặt hơn là chăm chú trên tranh.
Thưa lão họa sư, xin được lĩnh giáo tôn ý. Tiền nhân vừa được lĩnh ý của họa sư Uông...nhưng...Họ Vương nói, mắt không ngừng quan sát người đối diện. Diên Khách đáp lẹ :
Thưa ngài. Ngài quả thật diễm phúc để sở hữu bức họa này, sự hiện diện của nó sẽ tăng thêm phần lộng lẫy cho những thứ trân châu quý báu trong quý biệt thự.
Mỹ từ của lão họa sư Diên Khách dường như chỉ tạo thêm băn khoăn trong dạ họ Vương. Cũng như tại hạ, ông ta cảm nhận ẩn tàng trong đó vẻ gì đó nói để vừa lòng nhau.
Cả hai chúng tôi được nhẹ tâm phần nào khi phê bình gia danh tiếng Liên Châu  xuất hiện. Sau khi chào chúng tôi, ông ta quay về bức họa, đứng nhìn lặng thinh, nhóp nhép nhai mấy sợi râu dài.
Họ Vương giải thích :
Bức họa, có vẻ như là bức họa mà lão họa sư Diên Khách từng quan kiến năm mươi năm trước đây. Bây giờ tiện nhân mong được bái lĩnh tôn ý. Họ Vương nói thêm và cố gắng điểm nụ cười "những lời vô thiên kiến. Không màu mè ".
Nhà phê bình thở ra, vẫn ngắm nhìn bức tranh, hít vô một hơi thật dài, ông quay lưng sang họ Hoàng nói :
Thưa ngài, có thể nói được là một bức tuyệt phẩm của Đại Trì. Chỉ cần xem người nghệ sĩ đó tô những đám mây này cũng đủ biết. Nét cọ thần kỳ làm sao ! Hãy xem chỏm núi xa xa kia ! Chúng đã đem đến cho toàn thể tác phẩm nét sống thực, sinh động.
Trong khi giải thích, nhà phê bình trỏ vào những chỗ, những điểm trội của bức họa. Không cần nói, vẻ nguôi nguây rồi rạng rỡ, bừng sáng trên gương mặt họ Vương.
Trong lúc đó, tại hạ trao đổi kín đáo những cái nhìn với họa sư Diên Khách.
Thưa họa sư, tại hạ thì thầm, phải thật bức Thu Sơn ?
Lão họa sư lắc đầu nhẹ thật nhẹ, ánh mắt long lanh :
Như huyễn mộng, ông nói như thì thầm. Không hiểu cái lão họ Trương đó có phải là một thứ quỷ ma gì không ?

Đấy, tất cả câu chuyện về bức Thu Sơn như thế đấy. Họa sĩ Uông Sử Khố kết luận sau một lúc lặng thinh, trầm ngâm hớp một ngụm trà. Về sau họ Vương sau khi điều tra tường tận đã đến nhà họ Trương, được hỏi về bức họa, người trẻ tuổi này đã cho rằng mình không từng phong thanh bất cứ một thoại nào khác.
Không thể nói rằng bức Thu Sơn mà lão họa sư Diên Khách từng quan kiến đã được cất dấu một nơi nào đó. Cũng có thể là câu chuyện tạo nên chỉ vì trí nhớ sai lầm của một người tuổi hạc quá cao. Dường như câu chuyện ông ta đến ốc thự Trương tiên sinh để xem bức họa cũng không được căn cứ trên dữ kiện chắc chắn nữa.
Nhưng dù sao, hình ảnh bức họa lạ lùng đó chắc chắn đã khắc sâu trong tâm trí của cả lão họa sư Diên Khách và của tôn ông rồi.
Vâng, họa sĩ Uông Sử Khố đáp. Cho đến lúc này, tại hạ vẫn còn cảm nhận màu xanh đậm của núi đá như lời mô tả. Kể cả những chiếc lá vàng trong các bụi rậm nữa. Chúng như đang hiện ra trước mắt.
Vậy thì ngay cả bức Thu Sơn không có thật đi nữa, cũng đâu có gì đáng tiếc !
Đôi bạn cùng cười và cùng vỗ tay thích thú.




Nguyễn Văn Sâm       dịch



---------------------------------
Nguồn: Văn số 66, tháng 12-1987







Monday, February 22, 2016

CÔ GÁI TRÊN CÂY THANG PHÒNG HOẢ HOẠN




                                                                          TRUMAN  CAPOTE

                                                                           Mặc Đỗ   dịch


Cô gái nuôi một con mèo và chơi lục huyền cầm. Những hôm trời nắng gắt, cô gái gội đầu ; rồi cùng với con mèo, một con mèo đực cụt đuôi, lông lởm chởm và có vằn, cô gái leo lên ngồi vắt vẻo trên cây thang phòng hỏa hoạn gắn sát tường, đánh đàn chờ hong tóc cho khô. Mỗi khi nghe tiếng đàn tôi lẳng lặng tới ngồi bên cửa sổ. Cô gái chơi đàn rất khá,đôi khi lại cất tiếng hát. Giọng hát vỡ và đục  như tiếng trẻ con tới tuổi lớn.
Những bản nhạc nổi tiếng cô gái đều thuộc hết. Cole Porter, Kurt Weill. Cô gái thú nhất những bản trong vở "Oklahoma" mùa hè năm đó đang thịnh hành, ở đâu cũng nghe thấy. Nhưng cũng có hôm cô gái lại chơi những bản khiến cho ta phải tự hỏi cô ta đã học được ở đâu và, đồng thời, cô ta từ đâu tới đây. Những điệu hát phiêu lãng, vừa rắn rỏi vừa dịu dàng, lời ca nức mùi thơm của rừng thông và của cánh đồng cỏ. Chẳng hạn như: "Tôi không muốn nằm ngủ. Tôi không muốn chết. Tôi muốn đi dạo trên những cánh đồng cỏ trên trời..."
Bài ca đó xem ra vừa ý cô gái nhất, vì cô ta hay trở lại bài đó, hát hoài, sau khi tóc hong đã khô và mặt trời đã lặn, khi các khung cửa sổ bật sáng lên lúc hoàng hôn.

Nhưng chúng tôi mới thật quen nhau từ hồi tháng chín, một buổi tối trời bắt đầu trở gió thu lạnh. Tôi đi coi chớp bóng về, tôi chui vào giường nằm với một ly rượu rum và cuốn Simenon mới. Tôi cho như thế là một cách khoan khoái nhất để qua đi một buổi tối, đến nỗi tôi không hiểu nổi cái cảm giác nó dâng lên ở trong tôi làm cho tôi nghe thấy cả tiếng tim đập mạnh. Một cảm giác sợ hãi tôi từng đọc thấy trong sách, nhưng chưa bao giờ tôi trãi qua. Cảm giác như có người đang rình rập tôi. Như có người đang ở phòng này.

Rồi bỗng có tiếng gõ nhẹ trên cửa sổ, và một màu xám thấp thoáng như bóng ma. Tôi đánh đổ ly rượu. Mãi một lát sau tôi mới định thần lại, ra mở cửa sổ và hỏi cô Golightly muốn hỏi gì.
"Tôi bỏ rơi ở dưới đó một thằng cha thật là ghê rợn". Cô gái vừa nói vừa từ cây thang phòng hỏa hoạn trèo vô phòng tôi qua khung cửa sổ. "Nghĩa là hắn cũng dễ thương khi chưa say, nhưng mỗi khi hắn đã uống như một cái hũ rỗng thì cứ như là một tên mọi dữ ! Ở đời có một thứ mà tôi ghét nhất là những đứa hay cắn !"
Cô gái vạch chiếc áo choàng bằng len xám, chỉ cho tôi coi cái kết quả ở trên vai mỗi khi ta bị kẻ khác cắn một miếng. Cô gái chỉ mang trên người có một chiếc áo khoát đó thôi.
"Tôi rất tiếc đã làm cho ông hoảng sợ, nhưng khi mà cái thằng vũ phu đó bắt đầu làm cho tôi bực mình, tôi chỉ có một cách thoát qua cửa sổ. Hắn cho rằng tôi đang ở trong phòng tắm. Mẹ kiếp, tôi có cần quái gì hắn. Hắn sắp mệt lữ ra đó, rồi ngủ mất. Cứ kể thì hắn phải ngủ đi. Tám cái Martini trước khi ăn, và sau đó một số rượu chát đủ tắm sạch một con voi. Chuyện có thế thôi, nếu ông muốn, ông có thể tống tôi ra khỏi cửa. Tôi cũng lấy làm phiền không muốn ép ông phải chứa tôi trong phòng. Nhưng ngồi trên cây thang sao mà lạnh cóng ! Coi bộ ông lại có vẻ ấm áp. Giống như thằng em Fred của tôi. Bọn chúng tôi bốn đứa ngủ chung một cái giường, riêng nó là chịu cho tôi nằm cuộn tròn lấy nó những bữa trời lạnh quá. À này, ông có lấy làm bực mình nếu tôi gọi ông bằng Fred ? "
Lúc đó cô gái đứng sững giữa phòng, hai mắt ngó tôi trân trân. Từ trước chưa bao giờ tôi thấy cô gái không có cặp kính đen. Bây giờ tôi mới biết cô ta mang kính là do thầy thuốc bắt mang. Không có kính cô gái lé mắt mà nhìn, y như ông chủ tiệm vàng xem chiếc cà rá vậy. Hai mắt cô gái rất to, màu nửa xanh nửa lục, lại có những chấm nâu, nhiều màu như mái tóc của cô ta, và tỏa ra một vừng sáng rực rỡ và ấm. "Tôi chắc rằng ông cho tôi là một đứa trân tráo lắm, hay là khùng, điên điên, hay cái gì đó chẳng hạn ? "
Không đâu.
Cô gái có vẻ thất vọng.
Có chứ, tôi tin thế mà. Ai cũng nghĩ như vậy cả. Nhưng mà tôi thì tôi đếch cần. Cứ thế lại ổn.

Cô gái ngồi trên chiếc ghế bành đung đưa có bọc nệm nhung đỏ, co cả hai chân lên và, nheo thêm mắt lại, đưa quanh phòng ngắm một lượt.
Tại sao ông có thể sống ở đây được, đúng là một viện bảo tàng những món đồ ghê tởm nhất.
Tôi đáp :
Cái gì rồi cũng quen đi.
Riêng tôi lại thấy giận mình vì, thật tình, tôi lấy làm hãnh diện vì cách bày biện của tôi lắm.
Tôi thì không. Tôi chả quen với cái gì hết. Quen rồi cũng đến chết là hết.
Đôi mắt dè bĩu của cô gái lại đưa quanh phòng một lượt.
Suốt ngày ông làm những việc gì ?
Tôi chỉ chiếc bàn chất đầy những giấy lờ lặt vặt.
Viết...
Ông viết, nhưng có bán cho ai được không ?
Chưa.
Cô gái đáp :
Không hả ? Thế, để tôi sẽ giúp ông. Tôi giúp được. Ông cứ tưởng tượng số người mà tôi quen, họ lại quen những người khác. Tôi sẽ giúp ông vì ông giống với thằng em Fred của tôi. Nhưng ông thấp nhỏ hơn nó. Tôi không hề gặp lại nó từ ngày tôi mười bốn tuổi, nghĩa là hồi tôi bỏ nhà đi, khi đó nó đã cao một thước bảy rồi. Những anh em khác của tôi khổ người cũng như ông. Toàn là đồ đẻ non cả. Fred cao lớn thế là nhờ ở mứt đậu phụng. Ai cũng cho là nó điên mới tự nhồi nhét cho lắm mứt đậu phụng như thế. Nhưng ở đời nó chỉ thú có hai thứ là ngựa và mứt đậu phụng. Nó chẳng điên tí nào cả. Nó dễ thương lắm, lúc nào cũng lừng khừng, chậm chạp. Nó bị đúp ở lớp tám tới ba năm thì tôi bỏ nhà đi. Thằng bé đáng thương quá ! Tôi cứ tự hỏi không biết ở trong quân đội người ta có rộng rãi về khoản mứt đậu phụng hay không.

Cô gái chợt nhìn chiếc đồng hồ nhỏ để trên bàn.
Hả ? Đã bốn giờ rưỡi rồi ư ? Không có lẽ.
Ngoài cửa sổ đã hừng một màu xanh. Một luồng gió sớm lay động bức rèm.
Hôm nay mấy nhỉ ?
Thứ năm.
Thứ năm rồi ư ?
Cô gái đứng lên. "Trời ơi !" Rồi lại ngồi xuống và rên :"khổ quá!
Tôi mỏi mệt đến không thấy tò mò nữa. Tôi nằm ngã xuống giường.
Ánh sáng như chiếu dọi qua người cô gái, khi cô ta tới kéo chiếc mền cho tôi lên tới cằm, trông cô ta sáng chói như một thiếu nữ bằng pha lê. Rồi cô gái ghé nằm xuống bên cạnh tôi.
Ông có thấy phiền không ? Tôi muốn ngả lưng một chút. Thôi nhé, không nói chuyện nữa. Ngủ đi !
Tôi tảng lờ ngủ. Tôi cố thở cho đều nhịp và nặng. Đồng hồ ở giáo đường gần đó đổ chuông nửa giờ, rồi một giờ. Lúc sáu giờ, cô gái đặt bàn tay trên cánh tay tôi, đặt nhẹ, coi chừng không làm tôi thức giấc. Cô gái nói nho nhỏ :
Tội nghiệp em Fred.
Tôi tưởng như cô ta nói với tôi, nhưng không phải.
Bây giờ em ở đâu ? Trời hôm nay lạnh quá ! Như có tuyết bay ở bên ngoài.

Gò má của cô gái  chợt tựa vào vai tôi. Một sức nặng ấm và ướt.
Sao cô lại khóc ?
Cô gái nhoài người ra phía sau và nhỏm dậy :
Ồ, tôi van mà !
Cô gái vừa nói vừa tiến lại phía cửa sổ và cây thang phòng hỏa hoạn :
Tôi thậm ghét những kẻ tò mò !



Mặc Đỗ dịch.



--------------------------------
Nguồn : Văn số 66, tháng 12-1987

Saturday, February 20, 2016

NIỆM TÌNH THA THỨ


                                                                      HỒ  ĐÌNH  NGHIÊM



Gần những bức tranh tĩnh vật bị ám khói và phủ bụi dầy có treo tấm bìa cứng in chữ Tam Tông Miếu nhạt nhoà. Tấm bìa màu đỏ bầm, cũ kỷ như có mặt cùng lần với những tảng màu sắc đã ngã màu đứng cao thấp gần bên. Hắn ngồi quan sát thầm lặng, phát hiện bức tường đối diện chỉ có cuốn lịch cột dây thép vào tấm bìa Tam Tông Miếu kia là coi bộ mới lạ và nổi bật hẳn. Con số 28 nằm trên một xấp giấy đã bị lột mỏng, xộc xệch. Thời gian. Tháng ngày. Đã bao lâu rồi hắn chưa được nhìn tận mặt một cuốn lịch ? Cũng như ròng rã mấy năm trời hắn chẳng còn được đeo vào tay cái đồng hồ chỉ giờ giấc ? Để cho trí nhớ lẩn thẩn chạy ngược về tìm kiếm thì đụng dội vào một mạng lưới dày đặc, ở đó hình ảnh Sa vây kín. Đêm có gió lạnh, có sóng nước, có đạn réo và đầy những bước chân người chạy hỗn loạn. Sự hồi tưởng luôn dừng lại ở đấy. Nỗi lo âu cho Sa lạc lối trắc trở như một tận cùng của bến nhớ. Con thuyền tôi bị mắc cạn Sa ơi...

Uống gì gọi đi.
Hắn giật mình.
Thì cà phê chứ gì nữa.
Bạn hắn từng chửi hắn dật dờ nên bây giờ không có lý chi để chửi thêm. Dật dờ cũng đã tột cùng của chữ nghĩa rồi. Đù má mày cà chớn gì đâu không. Câu này hắn cũng đã từng nghe từ cửa miệng của người bạn. Nghe mà tủm tỉm cười trừ, chứ không phải nghe để cau có phẩn hận như khi tụi nó chửi thằng phản động tính trốn ra nước ngoài làm gián điệp.
Tao không hiểu được mày. Cà phê ở đây chắc ngon lắm ?
Đâu biết được, cũng còn tùy. Ngày xưa thì đã khác ngày nay.

Ở đây có hơi ngột ngạt, biết vậy kiếm cái quán cóc ngồi ngoài lề đường có phải thoải mái hơn không.
Hắn nhìn bạn, dấu nhẹm cái lý do. Sa biết không, hôm nay anh được tự do, bà chị người bạn anh buôn thuốc tây trúng mánh lớn nên cho tiền hai đứa gọi là để trả thù đời  bấy lâu cực khổ. Anh dụ hắn vào quán nước, ngồi đúng chỗ mà hôm nào tụi mình đã ngồi. Những bức tranh vẫn còn treo và cuốn lịch đang vơi những tờ cuối, năm tháng tàn tạ...

Mày sợ dương cái bản mặt tù tội ra ngoài chốn công cộng chứ gì ?
Ừ. Mày đoán đúng. Vả lại trời hình như sắp có mưa.
Trời ui ui phía ngoài như tức giông. Hắn làm đại công việc dự đoán thời tiết với bạn cho yên thân. Một đứa con gái mảnh mai đi tới gần bàn, chùi tay ướt vào hai bên hông, trí nhớ còn tốt để giương đôi mắt ngó sững hắn.
Anh Mạc, lâu ngày chưa tề ?
Người bạn ngẫng đầu lên.
Có lộn người không đó. Cho hai ly cà phê đen đi chị Hai, chờ bắt khô cổ họng.
Hắn cười ruồi với cô gái đứng tần ngần.
Phải đó, thiệt là lâu, e hơn cả năm trời chớ ít răng.
Thôi mà Dinh. Có ưa thì đợi tối nay tao dắt đi ngủ...bụi đời.
Lâu nay anh đi mô mà không thấy ?
Ờ... Tại đi buôn...tuốt trong Sài Gòn.

Người bạn mình hắn đang gãi đầu tóc ngắn, chởm, mọc không thứ tự như rễ tre cắm trên khuôn mặt xanh xao dật dờ mà tức cười. Áo quần nữa, toe tua xác xơ như rứa lại dám đội lốt con buôn. Nhưng được gọi tên là Mạt Rệp chi đó thì quả có đúng.
Em không tin. Bộ bẻ hết mấy cây cọ rồi sao anh Mạc ? .
Người bạn gióng cổ tới những bức tranh cố điều tiết mắt nhìn. Bức treo gần nhất đọc thấy chữ ký
Sa Mạc nằm trên mặt bố thụng có những đường nứt của sơn. Bẻ cọ ? Bộ thằng này làm họa sĩ thiệt sao ? Cái thằng cà chớn dật dờ vậy chớ thâm trầm dấu nghề còn hơn cả mèo dấu cứt. Có lý nào ? ...

Chứ để làm chi. Đừng nói nữa mà nghẹn ngào, cho cà phê thiệt đặc sắc uống về trằn trọc chơi.
Đứa con gái nhắm hai mắt cười rồi bỏ đi. Gió bắt đầu thổi ngoài bực thềm làm tấm bạt treo ở trên cứ phập phồng lên xuống, một vài chiếc lá bị gió cuốn hút bay lơ lững qua bên kia đường nơi chỗ ngồi của một thằng bé lọ lem hành nghề vá sửa xe đạp.
Ê Dinh ! Mấy bức tranh kia chính tay mày vẽ hết à ?
Ừ. Lâu rồi, lại không đẹp nữa. Mai sau làm cách nào để kiếm ăn như thằng nhỏ kia thì...vừa rẻ vừa đẹp. Thử tìm đường binh coi.
Binh con mẹ gì cho nó mệt. Mầy biết vẽ chân dung không ? Tao sắm đồ nghề cho.

Cà phê được đem ra. Hai cái muổng nhôm kêu lách cách bên thành ly nghe như người hết xí quách gượng mình cầm tô cháo. Hắn nhớ tới người cha trong những ngày đầu cuộc đổi thay, ở vào ngày cuối của cuộc đời ông. Ba nói mà con đâu chịu nghe, học Mỹ Thuật làm chi để giờ này chỉ biết tối ngày cong lưng vẽ bóng thằng già dịch kia. Hắn đút những muổng cháo hẩm vào miệng người tàn hơi, thấy giọt lệ ứa bên trũng sâu và đôi mắt lung lạc mất dần thần sắc. Võng mô đóng cửa, từ chối phải nhìn màu đỏ ngập tràn thù hận giữa cuộc sống. Tang gia không có gì bối rối. Ra đi lúc đó là biết lựa chọn một lên đường. Ai đó an ủi hắn vậy. Cả Sa nữa, người gánh vác rất nhiều những hư hao vừa đổ ập xuống cuộc đời chính hắn. Cái chết sao mà giản tiện đến thế. Cho cả mọi nghĩa.

Tao nói thiệt đó. Giấy viết than chì tốn đâu có mấy trự. Trời ! Có sẵn hoa tay như mày việc chi phải để cho lấm lem dầu mỡ như thằng cắc ké bên kia.
Hắn khuấy đường, nhìn sang tên sửa xe đạp đang loay hoay thu dọn đồ nghề. Một vài giọt mưa rãi không đều xuống đất nồng. Hắn thấy lấm tấm chút cảm động với tình cảm của người bạn vừa gieo, một người bị nhốt chung phòng và ra tù cùng lần. Đù má, làm giấy phép đi đường dỏm mà cũng dở cả cuốn lịch, đó là nhờ chị tao biết chạy mánh chớ không thì cũng thiên thu tại tù chớ không vừa đâu. Mày bị bao lâu ?
Không nhớ rõ lắm, chắc cũng ngang cơ như nhau.
Dật dờ vừa phải cha nội, phải tính từng ngày để nuôi thù hận chớ.
Hận thù ? Trả bằng cách nào đây ?

Hút thuốc chi mày ? Samit cho thông cổ hỉ ?
Sang dữ vậy đa.
Không hút để thuốc nó mốc hết, không thấy tao cột một cục tiền sau đít à ? Tối nay lấy tiền thế giẻ mà đi thông nòng nghe mày. Phải xa xui một chuyến để tính lại cuộc đời chứ.
Cũng được, nhưng cho tao đến thăm lại người bạn rồi hẳn tính.

Sa, rồi cuối cùng tụi mình cũng sẽ gặp nhau. Bãi bốc đêm đó chắc có ai lén điềm chỉ. Thật kỳ cục cho lối tách người đàn bà đàn ông riêng lẻ. Trong đổ bể cuống cuồng anh không tài nào tìm được nhóm của Sa giữa vùng bóng tối đầy đe dọa.

Hút thuốc đi kìa. Hú ba hồn bảy vía thằng Dinh mô về. Tao phải gọi là Dinh hay Mạc cho đúng đây ? Mẹ, mặt mày sững sờ cứ y như bị ai giải phóng không bằng.
Người bạn vừa nói vừa phà khói thuốc thơm. Mưa bắt đầu đổ lớn ngoài trời. Hắn lơ đãng với tay kẹp một điếu thuốc có đầu lọc nằm trên đĩa nhưng chưa vội thắp lửa. Với hắn, mưa bao giờ cũng đem theo một nỗi buồn nào đó khó giải thích. Hắn hình dung tới những cành hoa trồng trong vườn nhà Sa hẳn đang tơi tả. Nghe tiếng người bạn đang chắc lưỡi chửi thề trước khi ồ ề hát giọng đục. Anh đến thăm em một chiều mưa...sưởi ấm lòng nhau...Lời chắp vá nhớ sau quên trước. Cũng không trách. Đã bao lâu rồi trên vùng đất này hoàn toàn câm lặng một loại nhạc gọi là tình ca.

Người đàn bà đến thắp hương bàn Phật, quay lưng bỏ mặc hai đứa ngồi lúng túng nơi cánh cửa nửa khép nửa mở. Vạt áo có nhiều đường nhăn gấp thành nếp cũng như đằng sau nó, cái lưng cong rồi sẽ còng xuống dần như thảy mọi bà mẹ già. Nếu cuộc đời không nhiều bất trắc, có thể người đàn bà sáu chục tuổi đang đứng thì thầm khấn vái kia sẽ được hắn gọi là Mạ. Một người mẹ thứ hai cho bất kỳ  thằng con trai bình thường nào đến tuổi làm đàn ông lấy vợ. Hắn đau xót nghiệm ra điều ấy. Đã trễ tràng, đã bất bình thường rồi. Người đàn bà tóc bạc lưa thưa bối một lọn sau đầu nhỏ như quả cau. Hình như tóc bà đã rụng đi quá nhiều. Sa nó về tĩnh dưỡng ở dưới làng rồi...Vậy mà bác cứ tưởng Dinh đã được trót lọt. Tù tội. Mô Phật. Mới đó mà cũng gần tròn một năm...

Uống thêm đi mày. Đã đồng ý là phải say một bữa kia mà.
Giọng người bạn trôi đi mơ hồ. Và mưa đổ rào rào trên mái tôn quán nhậu nãy giờ đã lấn át rất nhiều những lời lãi nhãi an ủi của người bạn hướng tới hắn. Hắn thấy cõi lòng sũng nước. Hắn là miếng tôn bầm dập đầy lổ hê lổ hủng chống đỡ không nỗi lượng nước mắt của đất trời trút xuống. Bị tù ? Người đàn bà ngạc nhiên khi nghe hắn kể. Đâu có khó tin như hắn khi nhìn gian nhà trống lạnh và sự vắng mặt quái gỡ của sa. "Đêm đó nó về xác xơ tiều tụy. Hỏi gì không nói chỉ biết gục đầu tức tưởi. Nó thất thần mất trí nhớ hồi mô mà lẹ quá. Ngày ngủ đêm thức cơm cháo ơ hờ. Cái bức tranh Dinh vẽ chân dung cho nó đó, bị nó cầm dao rạch nát. Đừng, đừng...thà mày giết tao đi. Trời ơi ! Dinh ơi ! Dinh ơi ! Sau đó bác biết chuyện mà chết đứng như trời trồng. Sa nó bị thằng công an biên phòng ức hiếp làm nhục rồi mới thả đi. Oan nghiệt ác đức bất nhơn biết chừng mô mà kể...

Dinh, vô hết cái này coi...Mày không uống thì phải thò đủa mà phá mồi đi chớ.
Ai bảo không uống ? Đù má mày cứ càm ràm như mấy cái loa của tụi nó.
Khà...à...à...Đã không ? Uống cho đời lên hương. Nam vô tửu như nữ vô kinh.
Mày đã sứa chưa mà ăn nói cà chớn như rứa thằng tê ?
Thấm thía chi ba cái lẻ tẻ. Đừng cà chớn, thì nhất trí thôi. Nam vô tửu như Hồ vô râu.
Ê, đừng láng cháng mày, phát ngôn bừa bãi thì liệu có nước điên.

Hắn chợt ngậm miệng khi vô tình thốt ra chữ điên. Mắt đảo một vòng trong quán xem thử có bóng áo vàng nào không. Toàn dân chơi, dân nhậu cả nên ai nấy đều y phục thường thường bậc trung chứ chẳng có quân phục, đồng phục công an. Mẹ nó, nếu có thì sao ? Mày cầm cái ghế hay nắm xị rượu mà phang lên đầu kẻ khác giai cấp kia để rửa hận cho Sa, hả Dinh ? Hắn đực mặt ra với ý thầm vừa chợt hiện. Sao mà buồn thúi ruột thúi gan, cuồng trí thúc thủ.

Hai con mắt mày đỏ ké như ma cà rồng rồi đó. Liệu giữ phong độ để còn vác súng xuống đò nữa. Chương trình tạp lục còn dài mà cưng.
Người bạn khề khà ngồi rung đùi vẽ ra nhiều tiết mục hấp dẫn cố dìu hắn qua cơn đau, ít ra trong một đêm.
Vác súng ? Văn hoá lắc léo thiệt. Phải chi mà có phép mầu biểu tao đổi súng bắn nước trên người thành khẩu côn đu cho thiệt cụ thể hiện thực, tao cũng cam tâm hy sinh của quý.
Hứ. Nói như mày thì có quỷ chi ghê gớm đâu. Khi xưa trong Đại Nội thiếu chi hoạn quan với thái giám. Người ta trống trãi lạnh lùng vậy mà cứ đi phây phây như con ngựa Thượng Tứ có chết chóc ai đâu. Thường quá, dở quá cho sự hoán đổi kia.

Người bạn cầm ly rượu trắng đưa lên mắt nhìn săm soi qua ánh đèn vàng đục treo hà tiện một ngọn chập chờn giữa quán. Hắn nhìn qua vuông cửa đen bay nghiêng những hạt mưa. Gió từ dòng sông thổi ngược lên làm những kẻ uống rượu nồng thấy gay lạnh. Hắn thắp lửa điếu thuốc cúi đầu thầm đếm tẳn mẳn những cái đinh đóng sâu vào mặt bàn gỗ cau có. Cái hòm quốc doanh liệm kín hình hài người cha cũng mong manh èo uột tựa thế. Những cái đinh đóng kín nắp ván thiên như những vết đau  hằn sâu vào cõi lòng bật dội những nhát búa rớm máu của kẻ sống. Và gì nữa. Tấm vải bố trắng căng thẳng bằng kềm quanh khung, những cây đinh lấy từ tay Sa vội vàng tạo dựng một mặt phẳng trinh khiết háo hức sẽ vẽ. Sa mắc cởi vén tóc ngồi bên cạnh cửa sổ có vạt nắng xanh ngoài vườn tạt vào làm nên vũng sáng tối đọng mờ ảo trên gương mặt rực rỡ. Mùi sơn dầu nặn ra trên palette nồng nàn như cụm khói cần sa đầy kích thích lôi cuốn. Đụng tới là lãng đãng say sưa. Này mắt em là một dòng sông, này tóc em là một suối mây, này môi em là nguồn sữa mật...Bức tranh đã bị dao rạch. Người mẫu đã phôi pha ký ức. Đã về làng xa hiu quạnh như muốn chôn một thực tại có quá nhiều niềm đau, mới mẻ những thương tích mà Mẹ cô ta khuyên chớ vội tìm gặp mặt. Hãy nên để đó cho hở một khoảng trống.

Mưa coi bộ còn lâu mới ngớt. Nếu thấy đủ đô thì nên kiếm một chỗ ngã lưng.
Người bạn đưa tay vòng ra sau đấm thì thụp, ngồi ưỡn người với khuôn mặt tái nhách. Điệu bộ làm như đang đau lưng nhưng không nói ra.
Đã vậy còn tính vác cày qua núi sao ông nội ?
Khuôn mặt tái cười hề hề nham nhở.
Hơn năm trời thiếu vitamin Đ rồi, Thông cảm mà ...Mày nghe chi không ? Cái tiếng con bé rao hàng đó.
Nghe gì đâu ?
Mới đó mà, chắc có ai gọi rồi. Ai ăn hột vịt lộn không ? Lát nữa mày sẽ nghe, tao chưa say mà.
Thì có chi lạ chớ ?
Hột vịt gì ? Con nhỏ đó dám chơi chữ lắm. Dấu nặng hay dấu huyền thiệt khó phân biệt.
Nếu dấu huyền thì đã sao ?
Thì nhắc nhở tới cái hứng của tao chớ sao. Đi nghe...Ê, tính tiền ông chủ.
Người bạn đếm những tờ bạc nhàu nát thảy xuống bàn. Rồi cắc cớ nhặt lên đếm tới đếm lui, miệng lẩm bẩm như trẻ con đang học thuộc lòng bảng cửu chương.
Không phải rượu làm mờ mắt mô. Tại tiền bạc bữa ni răng mà khó coi dễ sợ.
Ông chủ quán đứng vặn vẹo mắt cười có nhiều đường nhăn. Mới đổi hai lần chớ mấy. Thét rồi quen. Tui mà như anh dám dẹp tiệm sớm.
Lời chết mẹ còn ở đó nói.
Thì dẹp tiệm trễ. Trước sau chi cũng vô hợp tác xã hay là cửa hàng ăn uống mậu dịch quốc doanh.
Bầm dập tới nơi rồi à ?
Làm răng biết chuyện ngày mai. Sống ngày mô hay ngày nớ. Cứ còn nước còn tát.
Có rãnh tay vất gàu để moi bọc đút lót không ?
Hích hích. Anh ni thuộc bài ác liệt. Có vô thì phải có ra mình mới được yên thân mà không trách phận. Chân lý ngàn năm không đổi đó mà.

Người bạn đứng lên vỗ vai ông già hôi mùi khét củi lửa rồi quàng vai hắn dìu ra thềm mưa.
Mày chạy nổi không ? Hay ưa đi văn nghệ dưới mưa ?
Văn nghệ để bệnh cho chết à ? Bỏ cái vụ Ngày xưa Hoàng Thị lãng mạn đó đi.
Chừ khác rồi, phải khẩn trương lên.
Khổ vừa vừa  a. Riết rồi tiêm nhiễm ngôn ngữ dật dờ của bọn kia mất.

Hai đứa chạy dưới mái hiên một hồi cho đến khi suýt tông vào người một con mẹ đứng thu lu, lấp ló trong hẻm tối ngập nước.
Ngủ đò không hai anh ?
Đò mô đây mà hỏi ?
Xa xôi chi, phía dưới sông a tề. Đi hí ?
Có chi hấp dẫn không ? Mẹ, ướt cha cái quần độc nhất vô nhị này rồi.
Muốn chi có nấy. Ưa của lạ thì có O bộ đội ni chịu chơi lắm.
Bộ đội à ? Ủa, em giã từ vũ khí hồi mô rứa ?
Không. Con gái ở ngoài Bắc đó mà. Cứ gọi bộ đội cho...rõ trắng đen.
Được a. Ở chiến trường này mày đừng có vội di tản nghe Dinh.
Mấy anh vui thiệt. Mà suy nghĩ cũng tường tận. Có đâu như bà con nghe bộ đội là lắc đầu quầy quậy bỏ đi. Mụ nội hắn, từ khi tiếp thu con nớ cứ bị ế rề ế rà. Bởi vì rứa mà nó ít "đi" lắm.
Hắn không phản ứng, lạnh run chân theo người bạn và mụ xồn xồn làm nghề giao liên dẫn khách đồi trụy tìm hoa đi tới hầm ả du kích dích cu .
Cái Nậm mô rồi, có người tìm em đó.
Mụ làm loa trên miệng bằng tay khum chỏ mỏ xuống dãy đò yên ngủ. Trở ngược lên lại sau khi có ánh đèn dầu ở một chiếc đò thắp sáng trong khoang và xuất hiện một bóng đen đưa tay vẫy.
Vui vẻ cả làng nghe. Đừng xả oá mà tan nát đời hoa.
Giọng mụ trầm bỗng như hát cải lương. Câu vọng cổ xuống bất ngờ làm hắn nghẹn ngào muốn khóc. Chưa bao giờ mấy chữ tan nát đời hoa sến sịa kia nghe nó kinh khiếp ép phê dữ dội như lúc này. Hắn rùng mình với người ngợm vắt ra nước của hắn, chân bước qua tấm ri trơn trượt với cảm nghĩ mình đang bước qua cầu Hiền Lương, vĩ tuyến thứ 17. Mình có quyền trả thù không, đối với một kẻ ngã ngựa ? Một đứa con gái từ Bắc trôi dạt vào đây hẳn nó cũng đã từng hứng chịu những nghiệt ngã nào đó do đồng loại mang tới triền miền để biến dạng thành đĩ.

Sao, những hai anh cùng một lần cơ à ?
Cái gì cùng một lần ? Đêm còn dài mà em. Anh nói giọng Huế em nghe hiểu không ?
Tiếng Việt chứ phải tiếng Liên Xô Cu Ba hay sao mà không hiểu.
Tốt. Nghe 5 trên 5 hỉ. Anh đụng trận đầu còn hắn thì ngồi đợi kiểm tra vũ khí cái đã.
Ối giời ! Khiếp, tay chân gì mà cứ y như nước đá.
Em cũng biết nước đá nữa à. Tiến bộ nhỉ. Ăn cái gì mà vú lớn thế này.
Khéo đùa. Ăn bo bo chứ gì.
Xức dầu chi mà thơm nghẹt cả mũi. Dầu của Ban Ga Ri hay loại gì mà có mùi cà ri Ấn Độ thì mình còn giữ tình hữu nghị anh em nữa thôi ?
Người bạn mở máy lia chia. Rượu đã thấm nên tay bốc hốt quờ quạng. Hắn ngoảnh mặt, thôi không nhìn khi đứa con gái cởi bỏ áo quần vén màn chui vô buồng sau. Còn lại với ánh đèn hiu hắt chiếu bóng, hắn thấy lòng trống trãi như mặt sông rộng bên ngoài. Trời nhỏ âm thầm vung vãi những hạt mưa làm hẹp tầm nhìn con nước đang bềnh bồng.
Người bạn thở dồn dập đằng sau bức màn.
Quê hương mình đã thống nhất chưa em. Hãy đổ tội cho anh là tên thiệt ác ôn côn đồ rồi em mới thấy thế nào là sung sướng khi tiếp thu tàn dư Mỹ Ngụy.
Đò chòng chành. Hắn chóng mặt. Đầu nặng nề trì kéo xuống thấp, không thể gắng gượng để mửa ra trên chiếu tanh một đống lòng heo bao tử. Quay cuồng. Mờ mịt. Bẩn thỉu. Bệ rạc. Yếu đuối. Tàn tệ.
Chán thật, sao mà vội khóc ngoài biên ải thế này. Dinh ơi, vào tiếp ứng đồng đội.
Hắn nằm thẳng cẳng nghe tiếng người bạn vọng ra. Hắn muốn nói tao là thằng cắc ké dật dờ cà chớn nhất miền Nam mà tự nhiên á khẩu chẳng thốt nên lời.



Hồ Đình Nghiêm

1989




---------------------------
Nguồn : Văn số 87,  tháng 9-1989






Thursday, February 18, 2016

NGƯỜI KHUẤT BÓNG




                                                                             HỒ  ĐÌNH  NGHIÊM



Đã có bao giờ bạn ngồi như thế này, mắt phóng nhìn qua bên kia sông để rồi bạn chẳng thấy gì cả . Đã có phút giây nào bạn bỗng trở nên mù loà. Đôi mắt bạn không chịu làm việc, hoặc có chăng bạn chỉ thấy những hình bóng cũ chập chùng hiện ra. Bạn ngồi sững người và đầu óc bạn mê muội lịm dần giữa những hình ảnh hoang mang đó. Coi kìa, chiếc bus voyageur đầy bùn lầy kia đang chạy qua cầu để chở khách đường xa vào thành phố. Bạn có tưởng được rằng có khi dưới mắt mình nó là một chiếc xe đò chạy suốt Huế-Nha Trang-Saigon. Bùn lầy bám nơi thân kia là dấu tích của một cơn mưa rơi dầm dề ngoài miền Trung vào hong khô bằng những trận nắng choáng váng đường lộ dẫn đến Hòn Ngọc Viễn Đông. Những mưa ướt sũng kỷ niệm. Và những nắng bồi hồi làm chín vàng tình yêu.
   
Tôi định hỏi bạn để có chuyện mà nói. Chúng ta ngồi im đã lâu. Nhưng bạn đã hỏi tôi với một tiếng thở dài đi trước.
Cho Gia một điếu thuốc đi.
Đã uống bia, bây giờ còn giở trò hút thuốc nữa ?
Thì đã sao. Ai đẻ ra lề luật để trói buộc vậy ? 
Không ai cả. Vì ngày xưa có thấy Gia làm vậy đâu.
Ngày xưa !

Đóm lửa gas cháy ngọn xanh. Bóng tối vây lấy chúng tôi bị nó đẩy đi một vũng lung linh. Qua đó, thấy mặt Gia hồng. Đôi mắt ướt đen cúi nhìn điếu thuốc miệng ngậm. Và đầu lửa đỏ. Mùi thuốc gội đầu thơm nhẹ một loài hoa rồi hoà với khói cháy nồng đậm Marlboro. Tôi tắt lửa. Gia ho khan.
Hồi nãy anh đi đâu ? 
Có đi hồi nào. Suốt một ngày ở cấm cung.
Gia phone lần thứ ba mới có trả lời.
Có thể hai lần trước nhằm lúc đang tắm. Hoặc giả vì cái cassette Walkman, nằm lim dim nghe nhạc nên hồn lạc vía.
Anh nghe nhạc gì vậy ? 
Băng để lung tung, bạ gì nghe đó. Anh có, Pháp có, Việt có. Có những bản mình tưởng dở không đoái   hoài tới, ai dè tình cờ nghe lại thấy lạnh cả người.

Tôi định nói thêm với Gia đó là những bản nhạc mà Gia đã từng nghe qua, với tôi, trong một quán nước đâu đó ở bên nhà. Đường Nguyễn Du. Đường Gia Long. Đường Hai Bà Trưng. Hay Nguyễn Huệ, Tự Do. Một tình khúc trắc trở. Một thứ định mệnh dành cho nhân vật chính và ngôi thứ hai. Just me and you. Dạo đó tôi yêu Gia. Bây giờ tôi vẫn còn giữ, dầu tôi biết đã có thực sự thứ định mệnh trắc trở xen vào ngay từ buổi đầu như lời bài hát. Một tháng Tư năm nào. Một hận thù khởi đi. Đọa đày chất ngất. Ly tán đầy rẫy. Bần cùng đẻ sinh...Làm sao nói đủ một vòng đời lật ngữa ? Có chăng chỉ là những hoài niệm để thấy rằng quá khứ vẫn luôn tiềm ẩn những cái thơ mộng mà trước đây ta không nhìn thấy, ta coi thường. Và tôi hiểu ra, những bản nhạc kia dù lời có cải lương, sến sịa, cù lần, cụ trâu...đi chăng nữa, nó vẫn thừa những xúc động bởi nó gợi nhớ đến tôi cái hình ảnh ngày nào kề bên Gia.

Mở cho Gia một chai bia khác.
Không có ai cấm Gia uống thêm, nhưng tửu lượng mỗi người đều có giới hạn.
Gia đang thử cái giới hạn của mình tới ngang đâu. Cũng như hạnh phúc, Gia đã lỡ khám phá ra nó chỉ là một đường hạn hẹp.
Đừng tưởng uống bia vô rồi là giải sầu được đâu. Vả lại, hơn lúc nào hết đây là lúc mà Gia cần tỉnh táo nhất.

Nếu không tỉnh táo, Gia đã không tìm đến anh. Gia đã không biểu anh chở ra đây nói chuyện.
Tôi yêu Gia. Điều ấy tôi đã nói rồi. Khi bạn yêu một người bạn có ngăn cản ý muốn của người ấy không ? Dầu đôi khi ý tưởng họ có hơi nông nổi. Sự nông nổi phát xuất từ một hoàn cảnh sống không  như ý. Tôi mò tay trong bao giấy in ở ngoài tên một siêu thị có vẽ miệng cười lấy ra cho Gia chai bia thứ hai.

 Tôi ít khi để tâm đến đời sống tôi. Tôi chẳng can đảm làm khác đi và xem như mình đã bằng lòng chấp nhận nó. Chấp nhận những thiệt thòi luôn đến làm mình trở nên chai lì trong cái nghĩa chịu đựng. Sẽ quen đi. Tôi viết thư về nhà "khoe" đã tìm được "job" tốt, ổn định với lương năm đồng một giờ, điều này có nghĩa từ nay con gởi quà về đều đặn hơn. Tôi đôn đáo tìm thuê được một phòng trọ xập xệ với giá một phần tư tháng lương. Làm chủ một chiếc xe đời 82 vừa trả nợ xong và vừa khám phá nó bị tuyết mưa sương gió ăn thủng nhiều lổ quanh thân. Tôi thản nhiên không buồn lo với ý nghĩ  có gì bền được với thời gian. Chiếc xe cũng như tôi, đời 57 tới giờ dĩ nhiên có nhiều hục hặc ở bên trong. "Nó" chạy qua đến đây là đã khá rồi. Dừng chân ở trại Kai-Tak bên Hồng Kông khám tổng quát một lần để cho phép "máy" chịu được xứ gió tuyết đìu hiu này. Đưa vô "garage" Linda một lần để thử "xăng nhớt", cô nàng chê tụi mày khó hiểu "cấu trúc cầu kỳ" nên "de" xe ra ê ẩm. Vác xe không chạy sật sừ loanh quanh. Chiều mưa biên giới anh đi về đâu ? Tôi viết thư về nhà than thở.
Sinh ta ra là cha mẹ ta, mà người hiểu ta cũng chính là mẹ cha ta vậy. Ôi ! Nghìn trùng xa xăm. Cớ sao đoạn nghĩa lạc loài phiêu diêu tới đây ?
Tờ thư vàng úa nhận trong tay ám ảnh màu hoàng hôn quê nhà : "...Má về Huế thăm lại mộ phần anh con. Má nghe tin hình như con Gia cũng ở cùng một vùng với con, sao không tìm gặp nó mà bầu bạn..." 

Tôi đã gặp Gia. Tình cờ chớ không mất công dọ hỏi. Place des Arts đông người, những "Cháu Tiên" lạc loài tụ lại đón mừng năm mới trên đất khách, một năm Con Rồng. Tôi nhớ mang máng đó là ngày chúa nhật, hai mươi tám ta. Chưa ai được tấn phong tuổi mới và hầu như ai cũng đang tươi trẻ rộn ràng.
 Ngoại trừ Gia. Nàng đi vào, thật huyễn mộng. Mắt nàng cười có những đường nhăn sau đuôi, quần thâm quanh viền, mỏi mệt. Nụ cười mở lưng chừng, không tươi, như thể cười vì tiễn đưa một người sẽ lìa xa chứ chẳng phải để đón gặp người từ một cách biệt đằng đẵng bỗng hội ngộ. Còn tôi ? Khói thuốc xông lên đôi mắt. "Đôi mắt ướt, tuổi vàng , khung trời hội cũ" . Và tôi thì thầm. Là Gia  ? Gia, Gia ơi !

 Tôi là người rất vụng về trong sự biểu lộ tình cảm, và cũng rất trẻ con để cho niềm vui vật vã trong tôi biến thành sự lúng túng lộ diện không thể đè nén, giấu che. Y như ngày còn thơ nhận được phong bì màu đỏ, lì xì mừng tuổi từ tay ông bà cha mẹ cứ vui đứng lặng người cho đến khi có tiếng giục của anh chị. Cám ơn và chúc mừng năm mới đi. Cái thằng. Nói đi, năm mới phải cho mau lẹ...

Tôi đã nói những gì, tôi quên khuấy. Hình như chỉ nói bằng mắt nhiều hơn bằng lời. Và ích kỷ chỉ thích đón nhận những gì Gia sẽ thố lộ lúc đó. Tôi nhớ đại để những câu : Anh ốm quá sức. Qua tới một mình ? Hay đã lập gia đình rồi ? Thấy cuốn Bell có in tên anh mà chỉ sợ gọi lầm người.
Tôi vẫn quan sát Gia, vẫn thì thầm. Phải, như thế mà hay. Chẳng có gì thất vọng bằng nỗi lòng háo hức chờ đón tiếng nói người thân để rồi trong ống nghe giọng ai xa lạ, không phải. Tiếng xin lỗi tiếp lời rồi gác máy.

Tôi nhìn bàn tay vuốt tóc của Gia, những bông tuyết trắng chưa tan trên nền đen những sợi mượt mà. Mấy ngón không mang găng , cắt trụi móng và xốn xang chiếc nhẫn màu vàng. Tôi cũng có một cái khâu tương tự nhưng không nằm trên tay đen. Má tôi giấu may trong lưng quần hôm vượt biên. Có đổ bể thì lấy ra xoay trở, còn êm xuôi thì giữ bên mình đặng qua xứ người phòng khi đau yếu. Chuyến đi trót lọt. Tôi đây có cảm mạo xâm xoàng nhưng chưa đến nổi ngặt nghèo phải bán nó đi. Tôi luôn giữ nó, suốt đời. Một kỷ vật. Để nhớ và hiểu thế nào là tình thương của một người mẹ tất tả xuôi ngược đến bạc tóc...

Còn Gia ? Có phải vì nó làm Gia cười không tròn nụ, làm Gia già đi dưới mắt tôi một Gia đã yên bề gia thất, nhẫn nhịn bên chồng ?  Nhân sẵn có không khí Tết cộng đồng mình tạo dựng ra, tôi dằn lòng không xong để nói Gia có cháu nào chưa ? Có thì chúc mạnh giỏi. Chưa thì mong mẹ tròn con vuông ở năm Mậu Thìn này. Lần đầu tiên trong tình bạn, tôi chúc Gia một câu không ổn đó.
Tuyết còn đổ âm thầm bên ngoài và hàn khí còn dâng trong tôi. Trí nhớ tôi còn nguyên vẹn hình ảnh một cái Tết năm xưa. Rất xưa. Tôi chở Gia về từ một rạp chiếu bóng thưa người coi phim "Vũ điệu Trong Bóng Mờ ", tôi đã đọc khẽ câu thơ một thi sĩ nỗi tiếng cho Gia nghe giữa con đường tối tăm và nhiều sương khói trong Thành Nội trầm mặc. " Còn đêm nào vui hơn đêm Ba Mươi. Anh nói với người phu quét đường. Xin chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em..." Gia ôm bụng tôi. Mùi hoa phượng rũ trên đầu phả xuống lòng đường hay mùi nước bồ kết Gia gội tóc làm ngây ngất không khí, làm tôi hít thở say nồng.

Cái nhà hình cầu bên kia sông là gì vậy anh ?
Hình như là một Câu Lạc Bộ Thể Thao. Những cuối tuần, với một hai chai bia, anh thích ra ngồi đây. Gia có nhớ sông Hương không ?
Gia không trả lời. Ngậm cổ chai bia Bud Light và thu hai chân trên ghế xe. Tôi nghe tiếng nuốt ực.
Có một dạo, tình cờ Gia đọc truyện ngắn viết về Huế tả người con trai xuống ngủ đò. Sao ngu quá, lúc đó không tưởng được là anh viết.
Tưởng được thì đã sao ?
Chuyện ấy có thật không ? Hay là bịa đặt ?

Tôi nhìn ra dòng sông màu đen. Nhấp nháy những đóm sáng ở trên dải đất chiếu đọng xuống bề mặt nhăn nhó gió và nước. Những cao ốc xám. Mấy ngọn đèn màu. Lung linh. Ở trong xe nhìn qua tấm gương đóng khung trông nó như một cái tivi đã mãn giờ nửa đêm. Thức dậy sau một cơn mộng ngủ quên, màn ảnh còn sáng chưa tắt.

Có thật.
Khi xưa anh cũng hoang đàng như vậy đa.

Tôi tu một hơi bia. Tôi uống bia cũng dở, thường chếnh choáng sau bốn năm chai. Tôi không thích cơn say lạm dụng bởi hơi men. Nhưng nghĩ cho cùng, nó sẽ dễ chịu hơn cái bàng hoàng của một người thất chí, thất tình.

Đó là lúc mà Gia đã sang đây. Là lúc mà Gia không thể tưởng tượng được những gì xảy ra bên đó. Gia còn nhớ Tâm không, cái thằng bạn anh mà lúc trước thiên lôi còn chạy nó, thiếu đường xé trời mà lên. Tâm sẹo đó. Sau này hắn ngờ nghệch lờ đờ như một con cá ươn. Hắn bị cưỡng bức đi lao động cho một công trường. Hôm san bằng mãnh đất để làm hệ thống dẫn thủy hắn đào đúng trên một dãy mộ bia, lưỡi cuốc bật dội ê ẩm tảng xi măng khắc tên tuổi ngày sinh tử của ông già hắn. Hắn bật khóc và đứng giữa đám bụi đỏ đả đảo bọn Việt Cộng khát máu. Cái đoạn kết hẳn Gia tưởng tượng được rồi chứ gì. Mỗi người đều có một cách thức thể hiện và anh chỉ là một đứa dật dờ xuống ngủ đò để ngã giá cho lần đưa người ra điểm hẹn gần cửa biển.

Lâu nay anh còn viết thêm không ?
Còn.
Anh thấy việc làm ấy có đáng theo đuổi không ?

Tôi nhớ bức thư của người anh phương xa gửi tới. Bia. Có phải nó làm cho mặt tôi nóng lên không ? Những dòng chữ thân yêu nhảy múa...Hãy coi đó như một sinh hoạt đi. Một sinh hoạt tốt. Để có một cái gì đó giữ cho mình một đời sống, việc theo đuổi một công việc sẽ giúp mình sống có ý nghĩa và đời sống sinh thú hơn những người khác trong mưu hồ khẩu thấp kém của họ. Nó phân biệt mình với sự tầm thường nhàm chán , em có thấy vậy không ? Trong đời sống chữ KHÔNG có lẽ khó nói nhất và chẳng phải ai cũng có thể nói được.

Gia không có máu văn nghệ. Có thể. Nhưng thấy thật vô bổ khi tưởng tượng có người thức đêm thức hôm để làm công việc như anh. Gia hỏi tụi bạn trong sở, chả có đứa nào biết qua một tờ tạp chí nào hết. Tụi nó lo đi cày, đi chợ, đi mua sắm và cuối tuần thì dọn đẹp nhà cửa, rồi có giải trí chỉ bằng video hoặc một cuốn cassette.
Gia nói như thế nghĩa là làm sao ?
Bây giờ đã thiếu đi lượng người đọc. Mai hậu còn ai xem nữa không ?

Chất nước bia thường đắng. Tôi biết vậy mà vẫn uống. Thật là vô duyên nếu giữa đêm có hai kẻ ngồi
trong xe muốn san sẻ với nhau nhiều điều và rồi khui từng lon Coke ngọt lịm để giết thì giờ. Tôi uống bắt đầu qua chai thứ ba, chưa có "ép phê" gì ráo trọi. Vậy mà thấy buồn lãng vãn chờn vờn. Rượu chẳng thể hoà giải nỗi sầu. Mưa chẳng thể cầm chân khách lại. Những người xưa đã từng nói thế.

Tôi bông đùa. Giả như được sống với Gia thì khác. Hạnh phúc thường làm người ta dễ buông xuôi.
A! Thì ra buồn chán là một nguyên nhân.
Cứ coi như vậy đi. Ít ra đó cũng là một cái cớ để trả lời.
Gia mong là  mình đừng đọc phải một truyện ngắn có nhân vật tựa như Gia ở trong.
Đừng nhắc tới chuyện đó nữa...Này Gia, em có hạnh phúc không ?
Anh hiểu sao cái chữ trừu tượng đó ? Tiền của, vật chất, một căn nhà mới mua nằm xắn trong một triền đất ngập tuyết. Hai kẻ chào nhau buổi sáng ở bếp chuẩn bị đi làm và tối về kể cho nhau nghe những thành công của mấy người đồng hương trong sở, đâu đó quanh cái thành phố đầy máy móc này...Nhưng không sao, chẳng có gì để làm thay đổi và làm khác đi. Một con chim đã đủ lông cánh thường bay đi, không thể nằm hoài trong ổ rơm để tối ngày kêu ca.
Tôi nhìn Gia. Mắt nàng là hố đen, không nhìn được có thể là những chớp nháy trong thứ tiếng phát ra bị nghẹn trịt kia. Câu nói đi kèm với nước mắt ?

Tôi giả lả. Tôi tìm tay Gia nắm lấy, bóp nhẹ và xoay vòng chiếc nhẫn ở tay gầy xương của Gia.
Bia nói. Hãy coi như bia nói. Ba má Gia vẫn bình thường ?
Thường cả. Anh nghĩ sao về trường hợp một người đàn ông bỗng trở nên hằn học khi vợ của ông ta cứ thường gửi quà về cho bên nhà ?
Anh không nghĩ gì cả vì anh chưa từng là một người có vợ. Đời sống phiền hà như vậy sao ?
Còn ba má anh ?
Cũng vậy. Già yếu trông thấy qua lời thư và những hàng chữ run rẩy. Má anh là người có trí nhớ thật tốt, thư nào bà cũng nhắc tới Gia. Thì chính má anh viết thư biểu anh tìm gặp Gia đặng mà hàn huyên chứ ai.
Còn anh Thạch ?
Chết rồi. Trốn được khỏi trại học tập nhưng bị mấy tên đốn củi trong rừng điềm chỉ. Bị bắn ngoài đường lộ khi về gần thành phố. Má anh lạy lục cúng bái mới được đem xác đi chôn.
Thật là đau khổ. Sao mấy người tiều phu nhẫn tâm độc địa cỡ đó.
Má anh giải thích, họ mong lập công để được phép chở củi về nhiều. Đó là thời điểm gạo châu củi quế. Sinh mạng con người có khi không bằng một xe củi ẩm.

Lần này, tôi nghe lấy âm giọng sũng nước của mình. Tôi cố bình tĩnh và nhớ lại hôm cúng giao thừa vừa rồi, tôi đã đứng khấn nguyện dưới trang thờ có tấm ảnh trắng đen chụp anh mặc quân phục hôm về phép thăm nhà ngoài Huế. Tôi đã khóc lúc đó. Tôi không có kinh nghiệm, đốt ba cây hương, nên suốt đêm trừ tịch, căn phòng bí rị của mình thuê cứ váng vất khói hương cay. Khói chẳng có lối thoát và nỗi lòng cô đơn sầu thảm của tôi lúc đó cứ dâng lên, dâng lên. Vỡ bờ. Ngập lụt.

Tôi nốc hết chai bia, mở một chai khác kẹp giữa hai đùi để mò tay tìm bao thuốc nằm đâu đó trong bóng tối. Một điếu thuốc thắp lên. Gia đưa tay giựt đi từ miệng tôi ngậm. Hút hơi đầy rồi thổi tới mặt tôi, tinh nghịch. Gia dụi đầu lửa vào gạt tàn, bàn tay lạnh chợt ghì kéo đầu tôi lại gần. Hôn hơi sâu. Ngộp thở. Chai bia đổ ra lai láng ướt quần.
Nếu còn viết truyện, đừng viết về một người đàn bà ngoại tình.

Giọng Gia đầy hối thúc, như một ý nghĩ liền biến thành lời nói sợ để lâu sẽ có những đắn đo ? Hơi thở nồng mùi bia, dồn dập nóng bên tai tôi. Những sợi tóc xoã vướng nhột nhạt ở má. Nỗi kích thích nào dâng cao. Cơn say nào mới lạ. Tiếng fermeture kéo đi, nghe vọng dội sự lôi cuốn khó kềm chế. Ngực Gia cứng căng và mùi hương L'Air Du Temps mê hoặc . Tôi nhớ căn nhà ở Tân Đinh Gia trọ học, buổi trưa nồng nàn mồ hôi. Áo thun mỏng của Gia lồ lộ và một chối từ dứt khoát. Đừng mù quáng. Đừng vượt xa. Đã chín năm trong một lạc lối mù tăm giờ tìm gặp được. Chín năm nhiều đổi thay. Một Gia đã lập gia đình. Một Gia giờ uống bia hút thuốc. Một Gia chủ động kéo tôi đi phăng những ngỡ ngàng.
Sao quần anh ướt lạnh ?
Bia vừa đổ ra...
Ôm Gia đi và nghĩ là tụi mình vẫn còn phần số. Chỉ một đêm nay thôi.

 Đêm ngập bóng tối. Đêm với con số nhảy sáng đồng hồ trong xe. 9-38. 9-40. 9-59.
Những nhịp tim và những tiếng thở. Chiếc xe đời 82 cũng kêu ca bên bờ sông vắng.
Giọng Gia đứt quãng.
Phải chi chiếc xe trục trặc hệ thống thắng tay lao xuống sông thì không còn gì để buồn lòng. Phải không ông viết truyện hoang đàng ?

Đầu tóc Gia rối. Gia như có vẻ thấm mềm hơi men. Một cái chết ? Gia can đảm chấp nhận vậy sao ?
Tôi ngồi lại, tay ôm vô lăng và nhìn vùng ngực trắng đục của Gia. Những diễn biến tình cờ luôn là những vọng đọng sâu thẳm. Tôi nghĩ tới những hòn đất khô ném rung động xuống lòng huyệt cạn xớt của Tâm. Buổi trưa nắng tàn nhẫn trên vùng đất cằn cỗi. Mồ hôi đổ đầy châu thân kẻ sống và manh chiếu rách gói không đủ hình hài người vào lòng đất. Tôi luôn bị đối đầu trước một hoàn cảnh làm mình bứt rứt. Tiếng thét của Tâm và hành động đứng lên của nó là một hình ảnh anh hùng, với tôi.
Tiếng rên của Gia và vòng tay cuồng nhiệt của nàng là gì ?

Gia mặc lại áo. Nàng cúi đầu.
Đã khuya. Hãy chở Gia về.
Có điều anh muốn nói, lúc nào anh cũng yêu Gia.
Nàng hôn tôi. Đầu lưỡi mềm. Chất nước ngọt.
Vài hôm nữa Gia không còn ở đây. Ổng đi Toronto làm việc và đã bán nhà cho một người bạn. Người bạn đó đã mở tiệc mời bạn bè coi như đưa tiễn ổng ra đi làm ăn phát tài ở chốn khác. Gia muốn về trước khi buổi tiệc đó vãn. Gia cũng yêu anh nhưng tụi mình không có cách chọn lựa nào cả. Những gì Gia có thể trao anh Gia đã làm. Thử quên Gia đi. Như quên một cái truyện viết thật dở tệ của anh. Một chấm hết.

Tôi mở máy. Chiếc xe rung chuyển bằng tất cả những rã rời của nó. Sắt thép còn vậy, da thịt con người thì sao ? Cha mẹ tôi sống cô đơn bên nhà lụm khụm. Những nấm mồ bị cày xới đi. Những vùng đất yên nghỉ được" cách mạng" chỉ định chốn hoang vu khác. Tôi mong vô cùng cái ngày được về khắc cho ba má một tấm bia chính tay mình đẻo đục. Chôn theo đó cái khâu vàng trao gửi ngày nào. Thời gian thôi, nói vô phước là đấng sinh thành sẽ chết. Như bây giờ, Gia ngồi đây và mai này tan đi theo biệt dạng chồng về một tiểu bang khác. Chôn lòng tôi bằng sự rã rời của lần trao thân muộn màng và đoạn nghĩa.

Xe chạy ra đường sáng. Tuyết bỗng nhẹ đổ như mưa phùn bay trên hàng đèn lạnh toát.
Có điều này nữa, anh ốm quá đi, sao không gắng ăn cho nhiều vào. Đời sống đôi khi phải cần nhiều đến thực tế. Anh có cảm thấy khó khăn điều gì không ?
Không. Cám ơn Gia. Ở xa có buồn bực điều chi cứ viết thư cho anh.

Xe dừng trước một căn nhà xám ngoét có hình thể cấu trúc như nhà của mấy phim quái đản. Gia mở cửa xe. Không biết nói tạm biệt hay vĩnh biệt. Chữ đầu nghẹn trong cổ, chỉ bật ra tiếng sau. Một tiếng biệt cũng nghe đầy đủ sự thất thường. Áo manteau trắng rộng thùng thình thoắt biến trong vùng tối của mấy cây tùng bách tàng đen đậm đặc.

Tôi ngồi chờ cho đến khi ngọn đèn vàng từ cửa kính sáng hắt ra mới lao xe đi. Trong hồn tôi có bóng đêm nào vừa buông xuống. Nghe như ai đó ném những hòn sỏi xuống mộ phần tôi. Rào rạt. Đớn đau.




Hồ Đình Nghiêm

1988




--------------------------------

Nguồn. Văn số 71, tháng 5-1988



Sunday, February 14, 2016

ĐOÁ HOA DẠI


                                                                                    HOÀNG   MAI   ĐẠT



Hải đi vòng lại phòng báo chí của thư viện, tới mấy cái ô vuông cá nhân ở trong góc tìm Mỹ Lan. Đây là lần thứ năm Hải trở lại nơi này. Mấy cái ghế trống không. Nắng chiều ở ngoài cửa đang quẹt những mãng nắng nhọn lên trên mặt bàn trắng. Hắn ngồi vào cái ghế Mỹ Lan hay ngồi và thảy cái túi sách vở nhẹ tâng lăn lóc dưới chân bàn. Chạy loanh quanh sáu tầng lầu của thư viện đi tìm Mỹ Lan làm chân hắn mỏi, áo nửa trong nửa ngoài và đầu óc hoang mang.
Chiều nào Hải và Mỹ Lan cũng ngồi học chung ở đây. Chiều nay Mỹ Lan không đến. Đàn nắng dại vẫn ùa chạy đùa giỡn giữa những ghế, leo trèo lên mấy bộ sách im lìm nghiêm khắc, và lăn lộn trên những trang báo thỉnh thoảng nhẹ tung theo gió xuân đang tràn qua cửa sổ. Chiều nay không có tóc  Mỹ Lan để nắng đùa giỡn, không có những ngón tay thuôn mềm để gió mơn trớn, cũng không có đôi mắt sao hôm của Mỹ Lan soi sáng tâm hồn đêm ba mươi của hắn.
Ngồi ở thư viện tới khuya Hải mới về phòng trọ. Hắn châm lửa điếu thuốc, rồi quay điện thoại gọi Mỹ Lan.
"Mỹ Lan, sao chiều nay không đến ?
Hải hít một hơi thuốc thật dài, nhốt khói trong buồng phổi, và lắng nghe tiếng trả lời.
"Em bận gặp ông thầy để hỏi cách giải mấy bài toán mới cho hôm qua".
Hải thả hơi thuốc ra. Vừa tính nói câu gì cho vui, hắn chợt nghe có tiếng người khác ở bên kia đầu dây điện thoại. " Ai vậy Mỹ Lan ? " . Hắn cảm thấy chất  thuốc lá đăng đắng trên lưỡi .
"Hai anh em Hùng và Trang".
Hùng ! Lại Hùng.
"Ủa ! Bộ em đang mở party bên đó hả ? " Hải hỏi thản nhiên, trong khi tay run run đưa điếu thuốc lên môi.
"Đâu có party gì đâu. Trang rủ em nấu cơm Việt Nam ăn cho đỡ thèm. Hùng theo Trang đến phụ với em. Anh ăn gì chưa ? Hay là sang  ăn với tụi này cho vui". Giọng Mỹ Lan nhẹ nhàng, lịch sự, nhưng không thân mật.
Hải chưa ăn tối, nhưng hắn không muốn qua bên nhà Mỹ Lan. Có tiếng trao điện thoại, rồi Hùng nói gì đó. Hải quên, không để ý đến điếu thuốc hút chưa hết đang bị dụi tắt trong khay nhựa. Tàn thuốc xám đen bám dính vào đầu ngón tay của hắn.
" Ê Hải ! Sang đây ăn với tụi này không ? " Hùng nói sang sảng trong điện thoại.
"À ! Mà bên đó đang nấu món gì vậy ? " Hải chợt nghe giọng mình yếu ớt, bên cạnh tiếng nói chắc nịch của Hùng.
"Thịt bò xào đậu hoà lan. Sao hôm qua không đi xem tụi này đấu bóng chuyền  với nhóm sinh viên từ dưới Philadelphia lên ? "
"Ủa ! Đâu có biết đâu. Sao, thắng hay thua ?"
Hải tưởng tượng những cú đập banh vũ bảo của Hùng xuống đầu đối phương. Nhìn thân hình lực lưỡng của Hùng phóng lên cao, theo trái banh được búng lên, Hải và mấy tên gầy ốm ăn khói thuốc trừ cơm chợt thèm thuồng và ganh ghét vu vơ.
"Thắng chớ  ! Tụi dưới Phila chơi dở ẹc. Nội có tay Thành mà tụi nó còn chưa chịu nổi, thì làm sao chống nổi cả hai, Thành và tôi. Mình đấu ba hiệp, đã để tụi nó thắng hiệp thứ nhì cho vui". Hùng cười ha hả.

"Uổng quá, tôi không được xem".
Hải nghe tiếng cười của Hùng rơi vào mặt kẻ vừa phục vừa ghét đối thủ của mình. Nếu Hùng chỉ to lớn khỏe mạnh thì chẳng có gì cho Hải đáng lưu tâm, và có thể chê " đồ vai u thịt bắp " . Nhưng đằng này, Hùng lại lớn hơn hẳn mấy tuổi và sắp ra trường với cái  Ph. D Toán Học.
"À ! Bài vở cho tập san ra sao rồi ? " Hùng hỏi.
"Cũng đủ bài, nhưng chỉ có vài người viết. Hay là Hùng viết thêm cho cái gì được không ?"
"Tôi không có khả năng viết. Mà viết được gì thì ở đây chỉ có Hải và Nhân. Ráng viết như hồi năm ngoái đi. Tôi thích đọc mấy cái chuyện tình đau khổ của Hải lắm đó. Buồn mà hay hay".
Hải châm điếu thuốc mới.
"Ừ ! Cám ơn. Chất liệu có nhưng viết cho người ta hiểu thì hơi khó. Thế nào chăng nữa tờ tập san cũng thành hình. Có mấy bài của Nhân viết khá hay. Hắn cũng làm thơ nữa đấy".
"Nhân viết thì nhất rồi. Vừa dí dỏm vừa sâu sắc". Hùng chậm rãi nhận xét.
Hải cảm thấy khói thuốc lá đang đốt những tế bào trong phổi.
"Linh có hứa sẽ vẽ trang trí. Hải chợt nghĩ đến đôi môi múi cam, như vậy báo năm nay chắc chắn sẽ khá hơn năm ngoái".
"Sao, sang ăn cơm với tụi này chứ ?"
"Thôi để khi khác. Tôi không đói lắm. Với lại trưa mai thi Art 450, tối nay phải đọc mười hai chapter".
"Ổi ! Mấy cái Art đó dễ ợt. Có đến lớp thường xuyên là lấy được A ngay. Chẳng cần đọc sách chi cho mệt".
"Tôi chẳng đến lớp bao giờ". Hải muốn dứt câu chuyện.
"Vậy à ! Mai thi thì good luck nhé".
"Nói với Mỹ Lan tôi xin lỗi là không đến được".
"Muốn nói chuyện với Mỹ Lan không ?"
"Thôi !"

Hải bỏ điện thoại xuống, rồi ngồi gác chân lên cái bàn thấp. Hắn bình tĩnh lấy cuốn sách ra đọc. Lật được vài trang, hắn châm thêm điếu thuốc. Vừa hút vừa yên lặng đọc. Bỗng nhiên hắn vất tung cuốn sách vào tường, đạp mạnh cái bàn gỗ lăn mấy vòng, bước ra khỏi phòng, xong đập cánh cửa kêu cái "rầm" khiến mấy tên học nội trú khác thò mặt ra nhìn. Rồi mấy bộ mặt nhìn nhau gật gù cười, như đắc ý với sự vừa khám phá ra thêm một tên thất tình trong cái dorm trắng toát.

Cái màn nhung đen hạ xuống. Đèn lờ mờ được bật lên. Có những tiếng xê dịch đồ đạc dàn cảnh từ đàng sau cái màn nhung. Khán giả trở mình, dáo dác ngó nhau, chia xẻ những cái nhìn vu vơ. Vài đôi mắt dừng lại ở bên phải đầu của Hải, nơi được cạo nhẵn thín theo một lối punk chưa thịnh hành. Hắn thản nhiên nhìn lại mọi người. Những con mắt nhìn cái đầu punk của hắn như nhìn một con vật quái gở. Đối với hắn, mấy cái đầu chải gọn gàng theo nề nếp mới là quái gở. Giữa một thế giới đảo điên đầy những lạm dụng niềm tin và hy vọng để cho tội ác được hoành hành, thì chính những cái đầu gọn ghẽ là những cái giả dối, che đậy những sự thờ ơ, ích kỷ của con người. Người ta nhìn cái quái gở trên đầu hắn là thấy cái quái gở trong tâm hồn họ.

Nghe có tiếng gọi nhỏ từ đằng sau, Hải quay lại. Một cái quái gở khác đang nhìn hắn mĩm cười. Một khuôn mặt Á Đông trắng trẻo, gầy, môi thoáng lớp son thoa hồng nhạt, và những sợi tóc đen dài tới mắt được nhuộm vàng phân nửa từ ngọn.
"Anh là người Việt Nam phải hôn ? " Cái quái gở đen vàng nhoẻn miệng cười tình tứ, để lộ hàm răng trắng đều.
"Không phải. Ngộ là Ba Tàu Hồng Kông". Hải nhe răng cười, nói giỡn chứ tôi là Hải. Còn you tên gì vậy ?
"Linh. Tên thật chứ không phải giỡn".  Linh nói nheo nhẻo như trách Hải. "Linh thấy cái đầu của Hải ngộ ghê đi". Linh trỏ tay chỉ cái chỗ cạo trọc và mĩm môi cười.
"Ngộ hả ? Chứ bộ tóc vàng đen của Linh không ngộ sao ?"

Hải bỗng thấy đôi môi mấp máy của Linh hấp dẫn kỳ lạ. Hải chưa từng hôn con gái bao giờ. Linh nói gì đó nhưng hắn không nghe, rồi Linh đứng dậy đi vòng ra lối đi lớn, rẽ vào hàng ghế trên và đến ngồi bên cạnh Hải. Trong khi nhìn theo Linh ôm áo lạnh đen trong tay loắt thoắt đi sau hàng ghế. Hải chợt ngờ ngợ thấy trong dáng Linh có vẻ gì của con trai, chứ không hoàn toàn con gái như bộ mặt trắng trẻo với môi hồng đầy đặn. Cái quần vải ống túm trắng không bó chặt lấy mông, uyển chuyển và sột soạt theo nhịp chân của Linh làm Hải bỗng ngài ngại.
Khi Linh ngồi xuống bên cạnh hắn, mùi nước hoa nhè nhẹ thoảng qua làm hắn thêm hồi hộp. Theo phản ứng tự nhiên của con trai khi thấy con gái, Hải liếc mắt nhìn ngực của Linh. Sau lớp áo vải tím nhạt, nhấp nhô theo cái trở mình và xoay chuyển trên ghế của Linh, không có dấu hiệu gì chứng tỏ Linh là con gái. Có nhiều cô nhỏ Việt Nam cũng ngực lép, mấy cô Mỹ cũng ngực flat, nhưng ở Linh có cái xẹp lép của con trai chứ không phải của con gái. Phụ nữ, dù có phẳng phiu thế nào chăng nữa, cũng có cái gì đó rất đàn bà nhú lên. Riêng ở Linh, ngực của Linh không khác gì ngực của Hải.

"Sao ? Chê tóc của Linh hả ? " Linh nhỏ nhẹ nói.
"Không ! À, không ! " Hải tránh mặt Linh, làm bộ nhìn lên khán đài.
"Tóc của Linh lạ nhưng đẹp. Chứ đầu của Hải trông ngộ lắm. Cạo trọc một bên như vậy trông không có thăng bằng hay cân đối tí nào".
Linh chưa nhận ra sự hoang mang của Hải.
Nghe nói đến mái tóc của mình, Hải bỗng quên cái nguyên nhân đã làm hắn mất tự nhiên. Hải nhìn mắt Linh và nói:
"À, đúng. Nhận xét vậy là đúng. Tôi là người không có thăng bằng, chỉ là một thứ mentally unbalanced. Còn Linh thì sao ? " Hải chợt nhận ra mình đang nhìn môi Linh, liền đưa mắt lên ngắm mái tóc đen vàng." Linh thì hình như thăng bằng, nhưng lại khó biết Linh là ai".
"Hải nói cái gì mà rắc rối quá vậy ?"
Tuy Linh nói vậy, nhưng Hải có linh cảm là Linh đã biết Hải muốn nói gì.
Linh thôi chúm miệng cười, nhìn Hải đôi ba giây, hỏi:
"Hải có ngại không ?"

Hải quay mặt đi chỗ khác. Giữa những cái đầu gọn ghẽ và nề nếp, chỉ có hắn và Linh là quái gỡ. Cái quái gỡ của Linh và Hải khác nhau, nhưng nếu so sánh với những thói suy nghĩ theo số đông, những tật sống theo khuôn khổ có sẵn, Hải và Linh đều là những cái kỳ dị, quái thai nằm ngoài vòng luân lý và đạo đức hiện tại của loài người. Những cái kỳ lạ nếu không bị giết chết bởi đám đông, cũng sẽ bị ép buộc tự hủy diệt, để khỏi vướng đường quay của cái vòng tròn bong bóng của nhân loại.

Đèn bỗng tắt. Mọi người nhìn lên khán đài có ánh đèn xanh đỏ lờ mờ. Hải nhìn Linh nói:
" Không ngại".
" Cám ơn Hải", Linh cười.
"Chưa hết". Hải nhìn môi Linh, " với điều kiện là Linh không được nghĩ gì hơn về Hải ngoài vấn đề bạn bè".
"Nếu nghĩ xa hơn thì sao ?"  Linh nói giỡn như thật.

Đôi mắt sáng của Linh làm Hải bồn chồn lo lắng. Hắn lại quay mặt nhìn khán đài, cố đè nén những nghĩ ngợi tối tăm, và không nói câu trả lời.


"Cũng không biết. Mẹ Hải vẫn ở Saigon. Còn cha không biết lưu lạc đi đâu. Từ ngày được thả ra ngoài tù cải tạo, ông ấy về nhà có một lần, xong bỏ đi lang thang, có lẽ đi vượt biên".  Hải xoay mình nằm ngữa trên giường của Linh, với hai tay xếp dưới mái tóc đen ngắn gọn ghẽ, mắt mở to nhìn trần nhà.
Linh ngồi ở cái ghế bên cạnh cửa sổ. Hai cánh màn vải mỏng trắng thỉnh thoảng bay tung lên nhè nhẹ theo gió xuân và quấn quanh người Linh. Cả hai đều yên lặng. Hải nhìn trần nhà. Linh quan sát cái thân hình con trai đang nằm dài trên giường.
"Tết vừa qua Hải có gởi gì về cho mẹ không ? " Linh hỏi.
"Có gởi ít đồ. Muốn gởi nhiều hơn nhưng không có tiền". Hải vẫn nhìn trần nhà.
" Còn chị thì sao ?"
" Chị ấy hình như vẫn cãi nhau với chồng như xưa. Ngày nào cũng thế. Nghèo quá đâm ra cáu kỉnh, khó tính, hay nổi nóng bất tử. Chỉ tội nghiệp mẹ với hai đứa cháu. Nhà chật quá, chắc không có chỗ nào ngồi để được yên thân".

Hải thấy có một đường nứt không rõ lắm, chạy dài gần hai thước trên trần nhà. Hắn thò tay vào trong túi áo, rồi lấy ra điếu thuốc và châm hút.
Linh nhìn ra ngoài cửa sổ:
"Chiều nay đẹp quá ! Nắng vàng đang trẫm dài trên bãi cỏ, như những nụ hôn vũ trụ vô tận, trên da thịt nồng ấm của hai tình nhân trong một buổi chiều xuân ngàn đời". Linh khẽ nói.
"Thơ hay cái gì mà ghê vậy ?"
"Câu đó ở trong truyện ngắn của Nhân viết mà Hải không nhớ hả ?"  Linh mở to mắt.
"À, à ! Nhớ rồi. Hèn gì nghe quen quen".

Linh đứng dậy, bước tới tủ sách lục lọi, xong Linh lôi ra cuốn tập san màu xanh biển. Hải nghiêng người nhìn Linh. Màu vàng trên tóc Linh bây giờ không còn nữa, chỉ có nâu đen thẳng tuột bình thường, hết còn quái gỡ. Cả Hải cũng đã hết quái gỡ. Tuy vậy, cặp môi hồng và đôi mắt đen của Linh vẫn còn đó, vẫn khiến Hải phải quay đi chỗ khác, để che dấu những cảm xúc quái gỡ mà hắn cố gắng đè nén. Linh lật lật những trang giấy, chăm chú tìm bài của Nhân.
"Linh thấy bài của Hải thế nào ?"
" Được. Mà sao buồn thấy mồ".
"Buồn à".
" À, đây rồi ! Bài của Nhân. Hay ghê đi ! Bài này Linh đọc tới mấy lần. Càng đọc càng thấy hay".
" Hay ở chỗ nào ?" Hải hơi có vẻ khó chịu.
" Những câu Nhân viết lả lướt và ướt át kinh khủng. Đọc bài ấy, Linh có cảm tưởng mình đang nằm trong vòng tay của Nhân và được anh ta dìu theo nhịp một bản nhạc tình lãng mạn".
"Ừ ! Thì phải công nhận hắn viết hay thật". Hải dụi tắt điếu thuốc, rồi tự động lấy ra một điếu thuốc mới.
" Hải có thích bài thơ Linh viết không ?" Linh vừa hỏi vừa đưa tay quạt tan khói thuốc ra khỏi mặt.
" Bài đó sao rắc rối quá. Hải chỉ hiểu lơ mơ là hình như chàng và nàng yêu nhau nhưng xã hội không chấp nhận cái thứ tình yêu như thế". Hải ngồi dậy dựa lưng vào tường, tay mân mê cái cây thoa môi son của Linh mà Hải lượm được dưới gối.
"Bài thơ đó Linh viết cho Nhân. Nếu Hải đọc kỹ sẽ thấy tên Nhân và Linh là chữ đầu cho mỗi câu thơ". Linh không để ý đến Hải đang nghịch với cây thoa môi son.      
"Vậy sao ? Thế Linh yêu Nhân lắm hả ?"  Hải vặn cây môi son, làm cho cái đầu son màu hồng nhô lên tụt xuống đùa giỡn nhìn lại Hải.
" Bậy ! Linh chỉ mê con người thi sĩ trong Nhân thôi".

Thấy Hải nghịch với cây môi son của mình, Linh với tay tính lấy lại nó. Nắm phải tay Hải, Linh vội rụt tay lại. Thấy Hải ngồi yên, Linh lại với tay lần nữa, mạnh dạn hơn. Sự quyết liệt của Linh làm Hải nao núng. Hắn bỗng thảy cái cây thoa son về phía Linh và nhìn Linh co tay lại để chụp nó.
" Lát nữa có Nhân đến". Linh cất cây son vào ví tay nhỏ.
"Đến đây làm gì ?" Hải bỗng như người bị bắt quả tang đang làm trò mờ ám, đứng phắt dậy và bước lần về cửa sổ.
" Nhân rủ tối nay ra bar nghe nhạc. Tuần tới có spring break rồi. Bây giờ học làm chi cho mệt".
"Vậy Nhân với Linh hay ra bar nghe nhạc lắm hả ?"
"Đây là lần đầu. Nhờ vụ làm báo mới biết Nhân là ai. Hải đi hôn, đi với tụi này cho vui".
"Tối nay bận. Phải làm cho xong bài research trước khi nghỉ spring break. Đã trễ hạn mấy ngày rồi".

Hải nhìn ra sân cỏ. Nắng chiều đã kéo đi mất, khuất bóng sau những dãy nhà dorm trắng. Hắn thấy cái phòng của hắn nằm cao chót vót. Sáng nay lúc đi đến lớp hắn đã quên tắt đèn như mọi ngày. Bây giờ chơi vơi giữa những ô chữ hắt ra những ánh vàng cam yếu ớt vào không trung chưa tối hẳn.

"Hải nhớ Mỹ Lan hả ?" Linh nhìn hắn thương hại.
Hải giật mình quay lại. Mỹ Lan ? Mỹ Lan còn đâu nữa. Mỹ Lan bây giờ chắc đang ngồi học chung với Hùng ở đâu đó, không chừng ở ngay chỗ Hải và Mỹ Lan hay ngồi. Mà sao hắn lại đứng đây ? Linh đâu có giúp hắn được gì. Linh đâu còn cần hắn nữa. Hắn tính hút thêm thuốc, nhưng sờ gói thuốc đã hết hắn cau có vò viên nó và quăng vào góc phòng.

Mỹ Lan hả ? Qua rồi ! Còn gì nữa mà nhớ. Thôi, tôi về. Đi với Nhân vui nhé. Mai chắc tôi không đi đâu, có cần gì thì cứ gọi.
Hải đứng dậy mặc áo lạnh, đi ra cửa và không quên nhìn đôi môi Linh lần cuối.


"Cha mẹ cháu vẫn còn ở Việt Nam ? " Bác sĩ Quốc hỏi.
"Dạ vâng".
Hải nghĩ đến những buổi sáng sớm mẹ hắn đi nghiêng nghiêng người, gánh hai nồi khoai luộc đi bán ở trước cổng nhà thương. Hắn ngừng cắt miếng thịt bò, nâng ly bia và cố uống cạn.
"Còn Lộc, gia đình cháu thế nào ?"  Ông Quốc ung dung rót nước trà vào tách, rồi ngồi thẳng lưng nhìn đám sinh viên trẻ quanh bàn ăn.
"Dạ, cám ơn Trời Phật, cha mẹ và chúng cháu đều sang được đây cả". Nói xong, Lộc sửa lại cái cà vạt lụa đỏ cho ngay ngắn, không chú ý đến cái nén cười của Hải.

"Bố  có biết gia đình anh Hùng cũng ở Thị Nghè trước 75, gần đường nhà mình ở". Mỹ Lan nhìn ông Quốc ngồi bên cạnh.
"Vậy à ? Ở khúc nào vậy cháu ?"  Ông Quốc hỏi Hùng.
Nhìn hai cha con ông Quốc và Mỹ Lan, Hải chợt thấy cái khoảng cách giữa họ và hắn xa quá, càng lúc càng xa hơn, như có ai đang nối những miếng ván chữ nhật vào giữa bàn, làm cho nó mỗi lúc một dài thêm ra. Sự khéo léo, lịch sự, nề nếp và đứng đắn của Mỹ Lan, bây giờ hắn hiểu là từ đâu ra: ông Quốc. Người cha đạo mạo nghiêm chỉnh, thẳng tấp trong cái ghế gỗ cứng.
Phải chi hắn có được một người cha như ông Quốc. Theo cô chú vượt biên sang Mỹ từ năm 78, hắn và cô chú không chia xẻ gì cho nhau hơn ngoài cái phòng khách, với những kịch vui ngắn trên tivi, vào những chiều chủ nhật. Cô chú vật lộn với đời sống tự do mới trong những xưởng máy, những tiệm ăn. Đứa cháu chạy theo với bạn học Mỹ và lêu lỏng với tụi nó.

"Hải  có chuyện gì buồn mà mặt có vẻ suy tư quá vậy ? " Trang, em gái Hùng nghiêng đầu nhìn hắn.
Hải giật mình ngó mọi người. Hình như ai cũng ăn mặc quần áo lịch sự, ngoại trừ hắn với cái áo thun đen. Cũng may tóc hắn bây giờ ngắn gọn, không còn punk quái gỡ. Hải gãi gãi đầu.
"Ngày mai thi Vật Lý hơi lo, thế thôi".
Có người gật gù. Đôi mắt trong sáng của Mỹ Lan đang rọi vào những ngõ ngách tối đen trong tâm hồn hắn. Những mảng sáng bò xuống những cái thang trôn ốc, mỗi lúc một nhanh, rồi ào ào chiếu sáng một góc tường loang lổ. Ở góc tường đó hắn thấy một thân thể trần truồng. Hắn không nhận ra những gì trên tấm thân trắng khói, ngoại trừ đôi môi mấp máy chờ đợi. Hải vội ngoảnh mặt đi, tránh cặp mắt của Mỹ Lan.

"Thi vật lý hả ? Me too". Có ai đó nói ở đầu bàn.
Giữa cái ngoảnh mặt đi, Hải thoáng thấy Mỹ Lan nắm cánh tay Hùng. Hắn bỗng thấy mình vô ý tứ và bất lịch sự. Buổi sáng gặp Mỹ Lan trong lớp, Hải nhận lời mời đi ăn cơm tối chung nhân dịp cha Mỹ Lan lên trường thăm con. Chẳng hiểu tại sao hắn đã không chú ý đến vấn đề quần áo, cứ tự nhiên mặc quần jeans và áo thun đen, đi theo đám bạn của Mỹ Lan và ông Quốc vào cái tiệm sang trọng này. Cũng may tóc hắn gọn, cũng may hắn đã không đeo cái bông tai và cũng may hắn đã không giắt cái khăn mù xoa đỏ lòi tòi ở túi quần giống như mấy Redneck American. Chứ không trước mắt những người này hắn còn tồi tệ đến mức nào. Khi nãy đứng cạnh Hải, Hùng càng có vẻ khỏe mạnh, đứng đắn và sáng sủa với cặp kiến cận tròn trí thức. Cái giá trị của bề ngoài không tầm thường như hắn đã nghĩ.

Đám bạn của Mỹ Lan lại trò chuyện tiếp với bác sĩ Quốc, trong khi hắn ngồi mơ ước được hôn Mỹ Lan. Khi yêu Mỹ Lan, cái đầu Hải hết quái gỡ, hết nhẵn thín ở một bên, nhưng tình yêu một chiều của Hải bỗng trở nên quái gỡ và trái ngược. Lúc nhận ra Mỹ Lan có lối sống và tư tưởng rất đàng hoàng và trong sáng, khác hẳn với cái nhìn u tối, bi quan và ghẻ lở của hắn, Hải chợt không chống lại nổi sự hấp dẫn kỳ lạ từ Mỹ Lan, như quỷ sứ thèm lên trời, tìm đủ cách để nhảy lên mây. Nhưng càng lại gần cái tâm hồn lành mạnh ấy, Hải thấy tình yêu của mình càng đi đến chỗ tuyệt vọng, càng xa sự hạnh phúc. Trong tình bạn cũng như trong tình yêu, ai cũng muốn thay đổi đối tượng theo ý mình, chứ không ai chịu chấp nhận những gì có sẵn. Mỹ Lan đã tìm cách thay đổi hắn và sung sướng khi thấy hắn bỏ tóc punk, bỏ hút thuốc lá khi gần nàng và bớt chưởi thề.

Hắn chưa bao giờ để ai gọi hắn dậy nửa đêm, chỉ để nghe người gọi tỉ tê chuyện lặt vặt hàng ngày qua điện thoại. Vậy mà hắn không ngại, kiên nhẫn nằm nghe người hắn yêu lải nhải cả giờ. Hắn không biết thơ với văn là cái quái gì, vậy mà cũng chịu khó nghe lời Mỹ Lan đọc mấy cuốn sách dày cộm, chữ nhỏ li ti, tư tưởng cao vời vợi, của mấy người hắn chẳng muốn biết, đã chết rửa xác từ lâu, để rồi mùi văn chương của họ bây giờ đã len lỏi vào tâm hồn hắn. Rồi từ những cái ho đạo đức của Mỹ Lan, hắn đã nhiễm những con vi trùng tôn giáo vào trí óc, để bị những cơn sốt chết đi sống lại của Chúa Jesus , bį mê man ở cõi Niết Bàn của Phật, và tự nghi ngờ mình là hiện thân của ác quỷ.
Nhưng hắn đã không thay đổi hoàn toàn. Vẫn thèm được tự do chạy rong ngoài vòng xã hội, dầu biết rằng càng chạy xa, cái vòng tròn càng nới rộng ra, rượt theo hắn tới kỳ cùng. Rồi Mỹ Lan làm hắn vấp té và bị nuốt  vào hàng rào kín mít. Hắn yêu Mỹ Lan và ghét cái vòng rào. Trong bóng tối nhiều đêm hắn mĩm cười khi chợt nghe có tiếng hú từ xa vọng về. Tiếng hú của con chó sói lìa đàn, bỏ bầy chó ăn thịt sống, để rồi chết trên sa mạc tuyết.

"Có ai gặp Linh hôm nay không ?" Nhân hỏi.
"Ở đây hình như chỉ có anh Hải là hay gặp Linh". Mỹ Lan mĩm cười hóm hĩnh.
Mọi người, trừ ông Quốc, nhìn hắn. Họ không nói, nhưng ngó mấy cái bộ mặt ranh mãnh của họ, Hải biết họ đang nghĩ gì, và nếu móc ra những ý nghĩ đó để cạnh nhau, hắn sẽ thấy những bộ lòng đang tiêu hoá một món lạ.
"Hồi trưa tôi thấy Hải ngồi với Linh trong cafeteria". Lộc nói, với đôi mắt công an him híp.
"Tình cờ gặp Linh ở đấy thế thôi". Hải nói thật.
"Vậy à ?"
"Really ?"
Chứ không phải hẹn ở đấy sao ?
Trông như cặp tình nhân.
Cả bọn cười ồ, ngoại trừ ông Quốc chưa hiểu rõ.
Linh là ai vậy ? Ông Quốc hỏi.
Linh lại cái, đồng tính luyến ái. Half and half. Hùng nói nhanh như sợ người khác nói mất.

Ông Quốc nhấp tí trà, mặt suy tư. Trông ông như một đạo sĩ, ngơ ngẩn trước một cảnh lạ giữa thiên nhiên.
"Hải dạo này để ý tới Linh nhiều lắm thì phải ? " Mỹ Lan nói.
Hải nhìn môi Mỹ Lan mấp máy, đầu óc quay cuồng với hình ảnh môi hắn mớm môi Mỹ Lan.
" Mê lắm. " Hắn nói.
Mấy người trẻ cười rộ. Mắt hắn không rời đôi môi, Mỹ Lan chợt đưa ly nước lên môi. Hải gọi thêm chai bia, trong khi tay tìm gói thuốc lá trong túi áo lạnh.
Ông Quốc đưa tay nâng cằm, nghĩ ngợi.
" Lạ nhỉ" ông nói.

" Hải có thấy lạ không ?"  Linh hỏi.
" Đâu có gì là lạ. Nếu mình có những tình cảm tự nhiên như vậy thì không nên chối bỏ nó. Chỉ đừng cho nó bộc lộ không đúng chỗ làm người ta sợ vì không hiểu hay không dám hiểu. Sợ sẽ tạo ra những phản ứng bạo động, nguy hiểm. " Hải uống cạn ly rượu nho.
" Hồi mới đến Mỹ, Linh hay đi nhà thờ. Nhưng sau một thời gian, không chịu nổi mặc cảm có tội do những người chung quanh quăng lên trên người mình. Linh bỏ đi lễ. Linh biết Chúa hiểu và yêu Linh như Chúa hiểu và yêu những con chiên khác của Ngài. Dưới mắt Chúa ai ai cũng như nhau. Linh cần tình thương như tất cả con người trên trái đất. Chúa không xét xử, Chúa chỉ ban tình thương. Người xét xử người vì không cho nhau được tình thương. " Linh đưa hai tay vò mái tóc mềm hai màu, như muốn những sợi tóc đứt lìa khỏi da đầu.
" Người ta sợ cái vòng rào nó vỡ, trong và ngoài sẽ lẫn lộn tùm lum, không ai biết mình là ai, đứng ở đâu. Đánh giá người khác là tự cho mình một chỗ đứng, để tự mặc cho mình một bộ đồ sắt che đậy thịt mềm bên trong."

Nhìn Linh ngồi bó gối sát tường, quấn mình trong cái mền mỏng, Hải không nỡ bỏ về, dù rằng chỉ có ý định ghé ngang để trả cuốn sách nhạc, chứ không tính ngồi lâu để nghe Linh than thở cái cuộc đời quấn sau tấm mền hơn hai mươi năm của Linh.
" Sự đè nén nào cũng có lúc bùng nổ."  Hải nói.
" Bùng nổ đầy đầu rồi đây nè. Hải có thấy không. " Linh chợt cười mong manh, tay mân mê những sợi tóc đen vàng."  Bây giờ chỉ có mẹ Linh còn liên lạc, chứ cha coi Linh như một thứ cỏ dại cần nhổ đi."
Như ngón tay thứ sáu quái dị, cần chặt đi để bàn tay được giống như những bàn tay lành lặn khác.
Hải liếc nhìn đôi môi ươn ướt, đầy đặn như múi cam chín vừa lột vỏ.
" Đi đâu Linh cũng thấy những cái nhìn chế nhạo, cũng nghe những lời nguyền rủa, cũng bị tách xa ngấm ngầm."
Hải nhớ đến những đêm cuối tuần của năm chót trung học, nhớ những khu phố tối đen hắn đã bước chân qua. Từng cái bar, cái rạp chiếu phim bẩn, cái hầm nhạc sống nào hắn cũng ghé vào, để được thấy tận mắt những cái ghẻ đang hoành hành trên cơ thể của xã hội, để thỏa mãn cái trí óc bất mãn ngứa ngáy của hắn.
" Hãy liếm thử mấy cái ghẻ dại. " Hải nói.
Linh ngơ ngẩn nhìn Hải.
" Ghẻ ?"
" Hãy dạo thử cái thế giới ung loạn."  Hải mĩm cười lạnh lùng xong quay mặt đi che dấu và đè nén sự thèm muốn. " Tối rồi, tôi về đây. Có muốn gì thì gọi, okay ?"  Hải bước nhanh ra khỏi phòng, không thấy sự thầm hiểu mấp máy trên đôi môi múi cam chờ đợi.

" Sao vậy Hải ?"  Linh hỏi, sau khi mở cửa cho hắn vào.
Hải lầm lì đến ngồi bên cửa sổ, nhìn ra ngoài sân cỏ ngập bóng tối. Vài ngọn đèn trắng tỏa những vòng tròn lấm láp, giữ chặc cây cỏ, băng ghế trong vòng ôm của ánh sáng, không để bóng tối khều tay vào sờ mó. Nhìn đến phòng của mình, Hải thấy đèn vẫn sáng, không tắt như mọi lần. Mấy đứa sinh viên Mỹ ở cùng tầng chắc đang nhốn nháo hỏi nhau về cái đập cửa vừa rồi của hắn. Tụi nó không biết Mỹ Lan là ai, nhưng chắc cũng đoán ra sự tức giận gây ra bởi một người đàn bà. Hải bỗng thấy mình quá trẻ con.

" Làm bài thi không được phải hôn ?"  Linh hỏi.
Hải ngồi yên không nói, mắt vẫn cào vào bóng tối.
" Hay là chuyện Mỹ Lan ?"
" Linh có thích Hùng không ? "  Hải đột nhiên hỏi.
Hùng đầy nam tính, lại học giỏi, ai mà không mê.
Hải muốn để tóc punk lại, cạo trọc bên trái thay vì bên phải kỳ này. Hải liên tục xốc ngược bàn tay vào mái tóc ngắn, khiến những sợi tóc ngắn chỉa nằm vô trật tự.
Thôi, đừng cắt. Như thế này đẹp hơn. Linh tiến lại, đưa tay vuốt mái tóc của Hải.

Hải ngồi yên, để bàn tay mềm và mỏng của Linh gãi từ từ trên da đầu ngứa ngáy. Chắc hết khoá này Hải sẽ nghỉ học.
" Sao vậy ?"
" Chán quá."
" Đừng nói vậy. Cái gì rồi cũng qua đi. Sau những thử thách bây giờ, Hải sẽ trưởng thành."
" Trưởng thành để làm gì. Để thành một đứa trẻ con già tuổi ?"
Hải nắm tay Linh và kéo nó ra khỏi tổ hắn.
" Phải chấp nhận cuộc đời và tất cả gì trong nó. " Linh quay người tính trở lại ngồi trên giường.
" Có nghĩa là chịu đứng trong hàng rào ? Có nghĩa là ép mình vào thiên hạ ?"
Hải nắm tay Linh kéo lại, Linh quay người nhìn Hải, chờ đợi.
" Tại sao không dám nhảy rào, chạy ra ngoài để được tự do ? " Hải vòng tay qua lưng Linh, luồn những ngón tay nóng ấm vào trong lớp áo len và ngừng lại ở trên bụng âm ấm.
Linh đặt tay lên trên tay Hải, mân mê những ngón tay thô cứng, xong từ từ gỡ bàn tay Hải ra khỏi bụng.
" Không được. Không nên quá bồng bột như vậy. Hải còn tương lai. Một khi đã nhảy ra thì khó mà vào lại được. Hải không phải như Linh."
Linh quay đi, tránh thấy sự tự ái đang đỏ máu trên mặt Hải.
Nhưng Hải đâu có muốn trở vào, hắn nói đau đớn, như đang ngồi trên hàng rào gai bén nhọn, chân trong chân ngoài.
" Cái gì rồi cũng thay đổi. " Linh ngồi xuống giường.

Hải thôi nhìn theo. Hắn trở lại với bóng tối ngoài cửa. Như vậy một ngày nào đó tóc Linh sẽ hết vàng, sẽ lại nâu đen như những cái nâu đen khác. Hải cắn môi. Có lẽ Linh nói đúng. Một ngày nào đó  hắn sẽ thay đổi và quên rằng đã có lúc hắn là một tên ghẻ lở.
" Bài vở cho tập san bây giờ đến đâu rồi Hải ?"  Linh tìm cách đổi hướng.
" Fuck that shit."  Hải nói tỉnh bơ, không lớn tiếng cũng không nhỏ, chỉ bình thường như những thứ bình thường khác. Một hồi lâu không nghe Linh nói gì, Hải quay lại để kịp thấy đôi mắt đỏ ướt của Linh dưới ánh đèn vàng độc nhất trong phòng. Hắn rời cửa sổ đến ngồi bên cạnh Linh.
" Bài cũng khá đầy đủ. Nhân viết nhiều lắm. Truyện ngắn, thơ, đủ thứ hết. Hải nói nhỏ, thơ của hắn hay lắm."
" Thế Hải có viết gì không ?"  Linh đưa tay áo quẹt nước mắt , mặt còn hờn dỗi như đứa bé gái.
" Cũng viết vài bài ngăn ngắn. " Hải nhìn môi Linh.
" Có hay không ? " Linh chớp mắt.
" Chắc buồn chớ không hay. Linh nhớ vẽ dùm cái bìa và trang trí mấy trang trong được không."
Linh gật đầu. Hải hôn nhẹ môi Linh, rồi đứng dậy ra về. Linh nắm tay Hải bóp nhẹ xong thả ra.
" Mai mang bài lại đây đánh nhé. Nhớ rủ Nhân đến phụ cho vui. Linh muốn biết mặt thi sĩ Nhân ra sao."
" Okay ! Thôi Hải về."

Ngoài đường, đêm khuya vẫn còn nhộn nhịp với sinh viên chuẩn bị đi nghỉ spring break. Mấy chiếc xe chở đầy nhóc bạn với tình nhân, cùng tiếng cười giỡn ồn ào, nặng nề lăn bánh. Đi ngang qua mấy cái bar, hắn tính ghé vào, nhưng sợ lát nữa vô tình gặp Nhân với Linh ở trong đó, để rồi phải ngồi trong cái không khí khó chịu và thiếu tự nhiên, nên thôi. Hắn cũng không muốn trở về phòng. Ở đó chẳng có gì cả.
Đến trạm xe buýt , hắn gặp những chuyến xe cuối cùng chất đống tuổi trẻ hồn nhiên, tưng bừng ở trong những khung cửa sổ vuông vắn. Có mấy đứa quen thấy Hải liền gõ tay lên cửa kiếng, hay vẫy vẫy gọi hắn vào. Nhìn mấy cái miệng mấp máy nói không ra tiếng trong xe, Hải hiểu chúng nó muốn hắn lên xe theo chúng nó đi chơi đâu đó cho hết tuần nghỉ xuân. Có lúc hắn tính lên xe theo tụi nó, nhưng lại thôi, và Hải đứng dựa tường nhìn theo những chiếc xe từ từ chạy đi mang tất cả nô nức không phát tiếng ra ngoài khung kiếng. Chiếc xe cuối cùng rồi cũng rời trạm.

 Điếu thuốc cuối cùng đang cháy dở trên môi. Trời tối. Hắn bỗng ao ước có cơn mưa nửa đêm bất chợt đổ ào xuống, để hắn có lý do đứng lại dưới mái hiên của trạm xe, không phải đi đâu cả. Trời không mưa. Im lặng và tối đen. Hải đổi thế đứng. Một chân thẳng đạp đất, một chân co đạp tường. Hai tay thọc trong túi quần jeans. Hắn đứng đợi mưa.

Có chiếc xe chạy ngang góc đường, dừng lại ở vài chục thước sau đó, rồi lùi lại gần nơi Hải đang đứng.
" Xin lỗi anh là người Việt Nam ?"  Cái đầu con gái đeo kính đen từ trong chiếc xe Mustang đỏ chói ló ra ngoài cửa xe hỏi lớn.
Hải gật đầu và từ từ bước lại.
" Anh có biết đường đến main campus không ? " Người con gái hỏi, và vẫn chưa nhận ra cái đầu punk của Hải.
Hải ngừng bước cách xe khoảng hai mươi thước. Người con gái gỡ kiếng, để lộ khuôn mặt trắng, mắt trong sáng và đôi môi hồng nhạt. Cô ta hơi ngỡ ngàng khi nhận ra một bên đầu cạo trọc của Hải. Hắn tiếp tục bước.
" Còn xa, nhưng đường đến đó thì đơn giản lắm" , Hải mĩm cười thân thiện. " Đến ghi tên vào lớp học hả ?" 
Người con gái gật đầu.
" Nhưng Thứ Sáu văn phòng không làm việc"  . Hải nói và dừng chân ở mé đường, tại ranh giới đồng cỏ và đường tráng dầu hắc.
" Vậy à ? Anh học đây lâu chưa. " Cô gái có vẻ tự nhiên.
" Mới xong năm đầu tiên. À, tôi tên Hải, còn cô tên gì vậy." 
" Tôi là Mỹ Lan. Anh làm gì mà đứng ngoài đồng hoang như thế này ?"  Nói xong Mỹ Lan tắt máy xe.
Hải quay đầu nhìn đồng cỏ, rồi chỉ tay về phía khu rừng phong xanh um giữa trưa hè, nói: 
" Ngày nào tôi cũng đi bộ ngang đây và quay lại, lúc nãy thấy có cái này lạ lắm nên dừng lại xem. Muốn xem không ?"  

Không đợi Mỹ Lan trả lời, Hải ung dung chậm rãi bước vào đồng cỏ xanh. Phong cách khoan thai của Hải khiến Mỹ Lan lấy làm lạ. Rồi như công chúa chưa từng ra ngoài lâu đài bao giờ, Mỹ Lan rời xe và chạy theo Hải.
Hải từ từ đi trước, Mỹ Lan theo sau, giữa đồng hoang đang lung lay múa vờn trong gió. Cái váy xanh biển vải mỏng của Mỹ Lan tung bay lất phất trong gió theo những ngọn cỏ dài uốn éo. Tới gần mé rừng dưới chân đồi, Hải trỏ tay xuống đất chỉ. Mỹ Lan ngoái đầu nhìn cái chấm đỏ xa xa trên đường nhựa, rồi hướng mắt theo ngón tay của Hải. Đôi mắt trong sáng của Mỹ Lan chợt ngừng trên một cái chấm xanh biển nhạt giữa thảm xanh lá cây mênh mông. Mỹ Lan ngạc nhiên, không hiểu tại sao Hải lại chú ý đến cái màu xanh nhỏ bé lạc loài kia.
Nàng nhìn Hải đang quỳ gối ngắm nghía cái chấm xanh biển. Hắn có vẻ hãnh diện với sự khám phá cho riêng mình.
Hải bỗng ngước đầu nhìn Mỹ Lan, vừa cười vừa nói: 

Hoa dại. Đây là hoa dại.


  Hoàng Mai Đạt




----------------------------------
Nguồn: VĂN  số 71, tháng 5-1988