Saturday, July 20, 2019
TỨ THƠ
Nguyễn Hưng Quốc
Tổng kết kinh nghiệm gần một đời làm thơ của mình, trong quyển "Công việc làm thơ" xuất bản năm 1984, Xuân Diệu viết:
"Lao động thơ, trước hết là kiếm tứ.
Ngôn từ, lời, chữ, vần là rất quan trọng. Tuy nhiên đó là cái quan trọng thứ hai, mà cái quan trọng thứ nhất, làm rường cột cho tất cả, là cái tứ thơ, nó chủ đạo cả bài.
Làm thơ, khó nhất là tìm tứ". (Trang 117).
Dù sau này, dưới chế độ cộng sản, Xuân Diệu làm thơ không ra gì, tuy nhiên, đừng quên, trước kia, có một thời, thời 30-45, ông là nhà thơ có tài lớn. Nở bừng ra giữa một mùa khô hạn của nền văn học đầu thế kỷ 20 nặng nề quẩn lại bước chân cũ những thế kỷ trước, những bài thơ của Xuân Diệu, cùng với thơ của nhiều người khác, trong đó thơ Xuân Diệu là một trong vài đỉnh cao, đã xuất phát từ một quan điểm thẩm mỹ mới, thể hiện một tâm trạng mới, sử dụng một ngôn ngữ mới, sáng tạo một phong cách mới, mở rộng địa lý của thơ, mang đến cho thơ một khí hậu cực kỳ ấm áp, gần gủi nhân tình. Thời ấy, Xuân Diệu thực sự là một nhà cách tân. Ông đã làm cho lãnh thổ cái đẹp trở thành rộng rinh hơn khi khám phá ra nét phân vân trên một cánh cò, cái rung mình của một ánh trăng thâu, cái hoà hợp âm thầm của một nhành hoa, một bãi cỏ và một làn rêu trong đêm tối, cái bâng khuâng không duyên cớ khi trời chiều tự dưng trong vắt, cái hơi rét gây gây luồn lách, len lỏi vào trong gió thu. Xuân Diệu là người đầu tiên nhận ra hương bưởi là tín hiệu của đêm khuya, hiện tượng nắng tự nhiên nhạt màu, mây tự nhiên trôi nhẹ và gió tự nhiên hiu hiu là tín hiệu của tình yêu.
Sau này, khi trở thành gã mãi võ của cộng sản, Xuân Diệu chỉ tạo được, dưới hình thức gọi là thơ, những cuộc hoà âm ầm ĩ mà rỗng tuếch của phèng la và chập choã. Tiếng chim hót của ngày xưa không còn. Chỉ còn một vòi nước rè rè và đục vẩn. Nhưng đó là nói về sáng tác. Còn kinh nghiệm lại là cái gì khác ở ngoài mọi lập trường, mọi quan điểm. Kinh nghiệm là đứa con của thời gian. Do đó không nên khăng khăng hất đổ những gì Xuân Diệu tổng kết ở trên.
Nhưng, trước hết, tứ thơ là gì?
Có nhiều cách hiểu khác nhau. Theo Chế Lan Viên, "gọi nó là tứ để phân biệt với ý. Chữ 'tứ' chẳng qua là ý lớn toàn bài vậy" (Văn Học, Hà Nội , 17/11/1961, bút hiệu Chàng Văn). Ngược lại, theo Nguyễn Xuân Nam, "tứ trong toàn bài là hình tượng xuyên suốt cả bài thơ" (Văn Học, Hà Nội, 2.1981). Hai quan niệm khác nhau. Một đằng thiên về ý. Một đằng thiên về hình tượng. Nhưng lại giống nhau ở một điểm: bất cập.
Thử đọc bài thơ này của một nhà thơ cộng sản:
Tiếng loa nhắc vụ này thay giống lúa mới
Mùa đông giữ ấm ngực trẻ con
Trung ương vận động mua công trái nhiều hơn
Việc vợ chồng sinh đẻ có kế hoạch
Thì cũng có ý đấy. Nhưng tứ thơ đâu?
Hay thử đọc bài thơ này của một "nhà thơ" cộng sản khác:
Bãi lầy lắm hến nhiều ngao
Càng nhiều bãi lội càng cao lượng mồi
Đi chăn chực khó ướt người
Thì đêm ấy lượng trứng trồi hẳn lên
Thì cũng có hình tượng đấy. Nhưng tứ thơ đâu?
Đồng hoá tứ thơ với ý hoặc với hình tượng không những sai lầm mà còn là điều nguy hiểm. Thứ nhất, nó cũng có nghĩa là đồng hoá thơ và vè, thơ và các loại diễn ca chính trị tầm thường rỗng tuếch nhan nhản trên sách báo tuyên truyền hoặc trên các vỉa hè, các đường phố: tất cả đều có điểm chung, hoặc có ý, hoặc có hình tượng, hoặc có cả hai. Thứ hai, nó làm mất khả năng phân biệt thơ hay và thơ dở. Không hiếm gì những bài thơ có ý tưởng ra vẻ "triết lý" cao kỳ mà lại là những bài thơ kém. Cũng không hiếm gì những bài thơ có hình tượng cũng gọi là "đèm đẹp" nhưng lại chỉ là những bài thơ nhạt phèo, chán ngắt. Thứ ba, nó làm lạc hướng những người mới bắt đầu làm thơ: họ dễ tưởng làm thơ chỉ là công việc thuần tuý của tư duy hay chỉ là công việc lắp ráp các hình tượng ngồ ngộ lại với nhau. Để cuối cùng, tạo nên một cái gì rất đỗi... xa thơ.
Trong tứ có ý, nhưng tự nó, ý chưa là tứ. Trong tứ có hình tượng, nhưng tự nó, hình tượng chưa là tứ. Còn xa xôi vô cùng. Không phải cứ đem mấy khái niệm triết học mốc thếch từ đâu, gắn vào đít của chúng vài chữ đồng thanh, đồng âm cho ra vần vè là tự nhiên có thơ. Cũng như không phải cứ vất bừa bãi dăm bảy cành hoa lại với nhau là tự nhiên người ta có một bình hoa mỹ thuật. Ý, nó khô khốc lắm. Như là xương. Hình tượng, nó khơi với, bồng bềnh lắm. Như là khói. Ý và hình tượng phải kết tụ lại với nhau như da thịt đắp lên xương xẩu thì mới có hình người. Nhưng chưa là con người. Hình như trong Cựu Ước có viết, sau khi nắn thành hình người, Đức Chúa Trời phải thổi vào hình người ấy một hơi thở để tạo ra cái gọi là linh hồn, hình người ấy mới thực sự có sự sống, người đàn ông mới biết quay lại nhìn người đàn bà, để thấy, nơi mái tóc đen nhánh kia có một cái gì khiến sóng trong lòng mình xao lên, nao nao. Linh hồn ấy, trong thơ, chính là cảm xúc.
Chỉ gọi là tứ khi có một ý tưởng làm bồng lên trong hồn người những niềm rung động sâu sắc và ý tưởng ấy, niềm rung động ấy cùng quyện lại với nhau, nhập thân vào một hình tượng cụ thể.
Ý là của chung mọi người. Hình tượng là của chung trong trời đất. Ánh trăng nằm trên cành liễu thì có gì là mới mẻ đâu? Nhưng cái tứ ánh trăng "nằm sóng soải trên cành liễu. Đợi gió đông về để lả lơi" thì rõ ràng là của riêng Hàn Mạc Tử. Niềm say mê cái đẹp tinh khiết của vũ trụ thì có gì là lạ đâu? Nhưng cái tứ "Ta van cát bụi bên đường. Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này. Để ta tròn một kiếp say. Cao xanh liều một cánh tay níu trời" thì rõ ràng là của riêng Vũ Hoàng Chương. Tứ là cái gì rất riêng tây ở mỗi nhà thơ, ở mỗi bài thơ. Tứ là thế giới tinh khôi lần đầu tiên được nhà thơ tạo dựng trong cơn say ngây ngất của cái người ta quen gọi là cảm hứng.
Có thể định nghĩa vắn tắt: tứ là những suy nghĩ của trái tim trước cuộc đời.
Bởi vì tứ là cái gì rất tổng hợp, do đó, quá trình tìm tứ cũng là một quá trình tổng hợp: nhà thơ phải vận động cùng lúc ba khả năng, suy nghĩ, tưởng tượng và cảm xúc. Chỉ khi nào ba yếu tố trên gặp gở nhau ở một điểm nào đó, tứ thơ mới hình thành. Nghĩ coi, có thể tin được không, là, trong suốt cuộc đời đi học, đi làm xa của mình, chỉ có một lần duy nhất Huy Cận cảm thấy nhớ nhà? Chắc chắn là không. Nỗi nhớ cũng tự nhiên như là mây giăng ở những góc trời xa vắng. Thế thì tại sao chỉ có một lần, một lần duy nhất nở nhớ ấy hoá thành thơ? Câu trả lời: bởi vì chỉ có một lần duy nhất ba yếu tố trên hoà nhập được với nhau. Trong một thời điểm: chiều hanh hao nắng. Trên một địa điểm: tràng giang điệp điệp sóng buồn. Sông thì dài, trời thì rộng, mây thì xa, bến thì cô liêu, ý niệm về sự lẻ loi của người lữ thứ càng đậm, nỗi sầu ly hương càng thêm thê thiết: tứ thơ khai sinh.
... Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Rất nhiều nhà thơ kể giống nhau: có những cảnh vật người ta nhìn hoài, nhìn hoài. Quen thuộc lắm. Nhớ làu làu từng chi tiết nhỏ. Nhưng cứ thấy là bình thường, tầm thường. Cảnh vật chỉ đọng trong mắt mà không len vào máu. Chỉ ơ hờ xa lạ bên cạnh những bước đi đi về về hằng ngày. Rồi bỗng dưng, một hôm, trong một tâm cảnh nào đó không ai biết rõ, hình như những tư tưởng nung nấu từ lâu đã chín muồi, hình như những cảm xúc im lìm đã cồn cào lên sóng, người ta nhìn lại những cảnh vật ấy, thấy lạ lùng hẳn, mới, tươi và gần gủi tâm hồn như thoạt thấy lần đầu. Chén trà khuya không chỉ là chén trà nữa. Chén trà khuya đã "nao nao trăng hạ tuần" như trong thơ Quách Tấn. Ánh trăng non không là ánh trăng non nữa. Mà trở thành "mới lớn lên trăng đã thẹn thò" như trong thơ Hàn Mạc Tử. Buổi chiều không còn là buổi chiều nữa. Buổi chiều đã là buổi chiều u uẩn và quạnh vắng của cõi lòng "buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường" như trong thơ Thanh Tâm Tuyền.
Tìm tứ là một quá trình chống lại một thói quen, chống lại những quán tính ù lì và những con đường mòn nhẵn thín cứ lôi người ta trơn tuột giữa cuộc đời. Tìm tứ là quá trình phát hiện cái bất bình thường từ những cái rất mực bình thường. Tìm tứ là quá trình khôi phục sự hồn nhiên bỡ ngỡ cho đôi mắt và cho trái tim.
Thế Lữ hồi ức lại hoàn cảnh sáng tác bài "Nhớ Rừng" như sau:
"Tôi làm một chân chữa bài in trong báo Volonté Indochinoise (Ý muốn của Đông Dương) ở phố Cửa Bắc, từ nhà tôi ở, muốn đến toà soạn, phải qua đường Ngọc Hà, thành ra qua vườn Bách Thảo. Chính vì qua vườn Bách Thảo mà nảy ra bải "Nhớ Rừng". Một trưa hè, ngồi nghỉ ở vườn, tôi nghe tiếng người làm vườn uể oải kéo lê bước chân trên đường sỏi, nghe ghê người lắm. Tôi nghĩ con hổ bị giam trong này thì buồn biết bao nhiêu. Bỗng nảy ra tứ một câu thơ đùa "Chú nó trong nắng hè uể oải. Cũng không buồn thương nhớ cảnh rừng xa". Nhưng sau đó tôi lại chuyển sang tứ là thương nhớ rừng. Khi đã nảy ra tứ thơ nhớ rừng thì bài thơ đến rất nhanh, từ sáng đến trưa là xong, không phải sửa chữa gì lắm" (Văn Nghệ, Hà Nội, số Tết 84).
Trước khi sáng tác bài "Nhớ rừng" đã bao nhiêu lần Thế Lữ đi ngang qua vườn Bách Thảo? Đã bao nhiêu lần nhìn con hổ bị giam trong củi sắt? Nhưng chỉ khi nào hình ảnh ấy hiện lên cùng lúc với tiếng bước chân "người làm vườn uể oải kéo lê trên đường sỏi" thì mới làm dâng trào lên trong tâm hồn Thế Lữ nỗi bùi ngùi trước những cuộc đời bị tù hãm, bị quẩn đọng trong một thế giới thật chật chộp, thật vuông vức. Con hổ không còn là con hổ. Con hổ trở thành một ý niệm, một biểu tượng của sự tự do bị đè nén. Tứ thơ loá lên. Con hổ tự nhiên có nỗi bất mãn thật kiêu hùng "Ghét những cảnh không đời nào thay đổi", có ước mơ lãng mạn và cao ngất hào khí:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Con hổ hoá nên nơi hội ngộ của một tư tưởng: tư tưởng tự do, và một tâm trạng: tâm trạng chán ngán hết mọi tù túng.
Quá trình sáng tác bài "Đêm thu nghe quạ kêu" của Quách Tấn cũng tương tự: đó là quá trình một tiếng quạ kêu nghe thấy tình cờ trở thành một tiếng đồng vọng của tâm tư. Quách Tấn kể:
"Nguyên một buổi chiều cuối thu năm Đinh Mão (1927), tôi ở Trường Định xuống An Thái hốt thuốc cho bà thân tôi. Theo con đường gần và dễ đi nhất, tôi qua bến đò An Thái sang An Vinh, rồi theo bờ sông Cổn đi thẳng lên.
Đêm hôm ấy có trăng, nhưng không được sáng, vì trời nhiều sương. Tôi vừa đi vừa nghĩ vẩn vơ. Chợt đến một khúc đường tre che khuất cả bóng trăng, và mo nang rụng đầy mặt đất. Tôi dẫm phải những mo khô mới rụng, tiếng kêu sột soạt làm bầy quạ đương ngủ trên cây, giật mình vỗ cánh kêu vang dậy. Tiếng kêu thình lình giữa đêm vắng, nghe vừa rùng rợn vừa lạnh lùng. Cả mình tôi rởn ốc!
Từ ấy tiếng quạ ám ảnh tôi luôn.
Cách ba tháng sau bà thân tôi mất. Tiếng quạ vẫn cứ theo tôi, nhưng giọng rùng rợn đổi thành giọng não nùng. Qua thời gian khá lâu, tiếng quạ thưa dần và nhạt dần, rồi lịm mất.
Mùa hạ năm Kỷ Mão (1939), một đêm trăng tôi ngồi hóng mát cùng nhà tôi và một người bạn, trên bờ đầm Nha Trang ở trước mặt nhà. Lúc ấy đã khuya. Nghe tiếng phở rao, nhà tôi gọi. Không thấy trả lời, anh bạn gọi tiếp. Tiếng gọi bị núi Sinh Trung bên kia đầm dội lại, ngân dài trong đêm khuya... Tiếng quạ năm xưa ở tâm hồn tôi vụt thức dậy rộn ràng... Rộn ràng nhưng dịu dàng chứ không rùng rợn, cũng không não nùng như ngày trước.
Trở vô nhà, suốt đêm tôi không ngủ được. Tiếng quạ vọng bên tai, và gợi lên không biết bao nhiêu là ký ức. Phần thì nhớ mẹ già xưa, phần thì thương cảnh làng cũ, bồi hồi áo não... tôi nằm im lìm để cho nước mắt trào ra... Niềm thương nhớ vơi theo nước mắt và lòng tôi êm dịu dần dần.
Toan ngồi dậy ghi lại dòng cảm xúc, song sợ thắp đèn quấy rầy giấc ngủ của vợ con, tôi đành nằm im đợi sáng.
Sáng hôm sau nhằm ngày chủ nhật, được nghỉ, tôi toan lấy giấy bút để làm thơ thì khách đến! Thế là mất hết buổi sáng. Chiều đến đóng kín cửa phòng, một mình ngồi lập ý.
Vừa nghĩ đến chữ quạ thì liên tưởng đến màu đen, đến chữ Ô. Chữ Ô làm nhớ đến bài Ô y hạng của Lưu Vũ Tích:
Chu tước kiều biên dã thảo hoa
Ô y hạng khẩu tịch dương tà.
Cựu thời Vương Tạ đình tiền yến
Phi nhập tầm thường bách tính gia.
Trần Trọng San dịch:
Chu tước bên cầu cỏ trổ hoa
Cửa Ô y hạng ánh dương tà
Xưa kia én đậu lầu Vương Tạ,
Nay tới dân gian lượn mái nhà.
Những cảnh trong thơ hiện ra mơ màng trước mắt.
Tôi đặt bút xuống bàn, ngồi nhắm mắt lại để lòng vui theo cảnh... Bầy yến dễ thương bỗng bay tản mát rồi nhập lại nơi lùm tre cao.
Tre che khuất bóng bầy chim én, nhưng lại đưa ra mấy tiếng quạ rộn ràng... Liền đó như một cuốn phim, những cảnh bến đò An Thái, con đường ven sông Cổn dần dần hiện ra dưới bóng nguyệt mờ sương... Rồi tiếng quạ ngân lên, và theo dư âm, bến đò An Thái biến thành bến Phong Kiều của Trương Kế với quang cảnh:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung lai đáo khách thuyền.
Tản Đà dịch:
Trăng tà tiếng quạ kêu sương
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Và con sông Cổn biến thành dòng sông Xích Bích với con thuyền của Tô Đông Pha trôi chầm chậm dưới bóng trăng thu... Tôi tưởng tôi là họ Tô đương ngồi vuốt chòm râu rậm bay phất phơ trước gió, và gõ mạn thuyền ngâm bài phú Xích Bích có nhắc đến họ Tào. Tôi như trông thấy rõ dáng đắc ý của Tào Mạnh Đức đứng trên đoàn thuyền kết dài trên mặt sông, quay ngang ngọn đáo ngâm bài:
Nguyệt minh tinh hi
Ô thước Nam phi
Nhiễu thọ tam táp
Vô chi khả y?
Dịch:
Đêm nay sao tỏ trăng thanh
Về Nam con quạ lao mình trên không
Lượn quanh cây lớn ba vòng
Tìm không chỗ đậu lại vùng bay đi.
Rồi hết điển này đến điển khác nối nhau đưa tôi vào sâu trong cõi mộng... Tôi ngồi ngủ say cho tới lúc người nhà lay dậy ăn cơm tối!
Cơm xong, tôi ngồi lại bàn giấy làm việc. Tôi nhất định ghi tất cả những gì đã đến cùng tôi. Nhưng không thể được, vì tôi không thích lối trường thiên. Tôi bèn chọn những nét rung cảm nhất, lọc những gì nên thơ nhất, dồn vào trong tám câu:
Từ Ô y hạng rủ rê sang
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
Thắc thỏm chăng ai quả ấn vàng?
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi
Tình lang mang gợi tứ lang mang.
Tôi rất lấy làm thích và lấy nhan đề là "Đêm nghe quạ kêu"
Năm 1941, nhân các bạn ở toà soạn tạp chí "Bạn Đường" mới xuất bản, gửi thư xin bài, tôi liền gửi đăng bài ấy.
Cách đó ít lâu, xem xét lại các bài thơ đã làm để in vào tập "Mùa Cổ Điển", tôi nhận thấy bài trên đây, câu luận chưa sướng.
Câu trạng do những cảnh cũ gợi điển.
Câu luận bị thời cuộc lúc bấy giờ ảnh hưởng: Lúc ấy quân Nhật đóng ở Việt Nam, nhiều người đi lính để lập công danh, nhiều bà vợ bị chiếc bóng. Do đó mà mượn tiếng sông Ngân, mượn đến tích Trương Hạo lượm được một viên đá tròn do con sơn thước hoá ra, đem đập vỡ thì thấy một quả ấn vàng có mấy chữ "Trung hiền hầu ấn", sau làm tướng được phong đến tước hầu.
Chưa lấy làm sướng nhưng sửa mãi chưa được.
Một đêm ngồi tựa lan can, trầm ngâm ngẫm nghĩ. Ngoài trời trăng sáng vằng vặc. Những cánh cửa sổ mở hé được ánh trăng chiếu vào trong như xuy bạc và thềm giếng mới rửa loang loáng sắc hoàng kim. Trí tôi và mắt tôi dồn cả vào sắc vàng trắng của cảnh vật và của câu thơ... Chợt một vật gì rơi vào lòng giếng tạo thành một tiếng "chũm" lạnh lùng. Tôi cảm xúc sửa ngay được câu thơ:
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng.
Sửa được câu này tôi khoái hơn khi làm xong tám câu trước. Nhưng ngâm đi ngâm lại, tôi thấy câu kết chưa nói đúng nỗi lòng. Một lần nữa, tôi phải lo sửa lại:
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang.
Như thế là ổn. Thích chí ngâm vang cả trời khuya.
Chế Lan Viên cũng cho câu sửa hay hơn hẳn nguyên tác nhưng còn chê đề bài chưa được nên thơ, mới thêm chữ "thu" vào thành "Đêm thu nghe quạ kêu".
(Trích từ Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến, tập 5, Nam Á tái bản, 1986, tr. 123-126)
Dĩ nhiên, không phải tứ thơ nào cũng được thai nghén một cách lâu lắc và vất vả như thế. Cũng không phải người nào, khi làm thơ, cũng lập ý một cách cầu kỳ với những điển cố xa xôi như thế. Nhưng kinh nghiệm trăn trở tìm tứ của Quách Tấn lại rất điển hình: dù nhanh hay chậm, dù bằng cách thức nào đi nữa, sự hình thành tứ thơ nào cũng phải đi qua ba giai đoạn:
Trước hết, phải có một cảnh vật, một sự kiện cụ thể có khả năng gây ấn tượng mạnh và sắc.
Thứ hai, ấn tượng ấy cứ âm vang mãi trong hồn người, tạo nên những niềm cảm xúc sâu đậm.
Và thứ ba, từ ấn tượng và cảm xúc ấy, nhà thơ phải vận dụng khả năng liên tưởng, tưởng tượng, tư duy để tìm ý, tìm chất liệu để khai triển thành một bài thơ hoàn chỉnh.
Chính ở đây, có sự khác biệt sâu sắc giữa Quách Tấn và các nhà thơ sau này. Quách Tấn cũng như người xưa thường tìm ý và chất liệu từ kho tàng điển cố, điển tích. Các nhà thơ sau này thường tìm ý và chất liệu ngay từ trong đời sống thực. Không nên tuyệt đối hoá sự phân biệt này. Khi Huy Cận viết "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" chắc chắn là Huy Cận nhớ đến hai câu cuối trong bài "Hoàng hạc lâu" của Thôi Hiệu. Khi Thâm Tâm viết "Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ. Chí lớn không về bàn tay không. Thì không bao giờ nói trở lại. Ba năm mẹ già cũng đừng mong" chắc chắn là Thâm Tâm nhớ đến hình ảnh Kinh Kha với câu thơ "Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn". Đọc nhiều bài thơ của Nguyễn Mạnh Trinh đăng báo gần đây, tôi chắc thế nào Nguyễn Mạnh Trinh cũng nhớ đến Nguyễn Bắc Sơn.
Vai trò của tứ trong thơ cực kỳ quan trọng. Nó giống như là nền móng, cột kèo trong một ngôi nhà. Nó giống như là xương xẩu trong một thân thể. Không có bài thơ nào lại không có tứ. Ngoại lệ: những bài thơ dở.
Hầu hết mọi nhà thơ đều đồng ý, trong công việc làm thơ, có loay hoay trăn trở thì chủ yếu là lay hoay trăn trở để tìm tứ. Có tứ, thời gian hoàn chỉnh bài thơ thường khá nhanh. Tứ, tự nó sẽ huy động những từ ngữ và chi tiết nó cần. Con hổ sẽ biết mời gọi "cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già" với những "lá gai cỏ sắc", những "bình mình cây xanh nắng gội", những "buổi chiều lênh láng máu sau rừng". Tràng giang sẽ biết mời gọi những "thuyền về nước lại", những "cồn nhỏ gió đìu hiu", những "bèo dạt về đâu hàng nối hàng", những "sóng gợn... buồn điệp điệp". Cũng vậy, hầu như đã có sẵn chung quanh ông đồ viết câu đối Tết thuê những hình ảnh quen thuộc: "mực tàu", "giấy đỏ", "người thuê viết", "nét chữ như phượng múa rồng bay", những "lá vàng rơi trên giấy", "ngoặt trời mưa bụi bay". Đây lả công việc của trí tưởng tượng. Đối với nhà thơ, lúc này, cần nhất là sự tỉnh táo để lựa chọn. Nguyên tắc thứ nhất là cần tập trung. Tất cả các chi tiết đều nhắm tới mục đích thể hiện và làm nổi bật tứ. Nhà thơ lớn là nhà chiến lược lớn: không có chiến thuật nào không để góp phần dẫn đến chiến thắng cuối cùng. Trong bài "Một chút xuân quê nhà", Luân Hoán chọn lựa chi tiết rất đắc. Tố cáo cuộc sống bần cùng, khốn khó dưới chế độ cộng sản, ông không cần dao to búa lớn. Chỉ cần một lá thư với những chi tiết nhỏ nhoi đến tội nghiệp:
... xin báo cùng anh tin vui thứ nhất
cây cúc đầu hè nở được một bông
... xin báo cùng anh cây cà chưa nhỏ
cũng đậu được vài trái đỏ xinh xinh
... xin báo cùng anh vồng khoai luống cải
nhờ bón phân người lá cũng rất xanh
... xin báo cùng anh sáng nay đầu ngõ
có con cu cườm đậu tuốt ngọn tre...
Chỉ có thế. Dù "thư viết cho anh đắn đo từng chữ, lựa lọc từng lời cho đỡ nặng cân", nhưng những lời kể trước sau vẫn cứ quanh quẩn hoài với những điều rất mực vu vơ, những niềm vui rất ư nhỏ bé. Không còn gì khác. Người đọc đủ thấy rưng rưng hiện lên trước mắt một cuộc đời lam lũ, tối tăm đến là thương. Nói là báo "tin vui" nhưng sự thực lại là vang lên tiếng khóc não nùng.
Nguyên tắc thứ hai là tiết kiệm. Chơi hoa, người ta phải biết tỉa cành và ngắt lá. Để hình hoa nổi rõ. Để sắc hoa thêm chói. Chi tiết càng rườm, tứ thơ càng mờ. Chi tiết càng chồng chất, tứ thơ càng vụn nát. Người xưa hay nói "vẽ mây nẩy trăng": đừng cho mây nhiều đến độ ánh trăng bị khuất.
Ai không công nhận Đoàn Văn Cừ là người rất giỏi trong việc dựng lại những khung cảnh đồng quê thuở xưa? Nhưng mấy người nhớ nổi thơ họ Đoàn? Người ta chỉ nhớ những bài thơ chấm phá ít nét của Nguyễn Bính. Trong cuộc tranh cãi văn chương, trí nhớ con người là trọng tài đáng tin cậy nhất.
Vai trò thứ hai của tứ là định hướng kết cấu bài thơ. Nói chung, một trong những yêu cầu lớn nhất đối với thơ là tính chất thống nhất. Cả bài thơ phải là một chỉnh thể toàn vẹn. Tứ sẽ là cơ sở của sự thống nhất và toàn vẹn ấy. Xuân Diệu kể bài thơ "Với bàn tay ấy thoạt đầu như sau:
Một tối bầu trời chẳng gợn mây
Cây tìm nghiêng bóng xuống hoa gầy
Hoa nghiêng xuống cỏ trong khi cỏ
Nghiêng xuống làn rêu: - một tối đầy.
Những lời huyền bí bốc lên trăng...
Xuân Diệu gửi bài thơ đăng báo. Thế Lữ, khi chọn đăng, đã tinh ý nhận ra nét đặc sắc của cái tứ mà nhà thơ trẻ là Xuân Diệu hồi ấy muốn dựng: cả trời đất giao hoà với nhau. Cây nghiêng xuống hoa, hoa nghiêng xuống cỏ, cỏ nghiêng xuống rêu. Nhưng Thế Lữ cũng phát hiện ra ngay một điểm yếu cơ bản trong bài thơ ấy: trong khi vạn vật song sóng gần kề hoà hợp với nhau, thì bầu trời, lạ chưa, bầu trời lại "chẳng gợn mây", nó lẻ loi, nó lạc lỏng đến chông chênh, nó bơ vơ đến tội nghiệp và lạ lùng. Thế Lữ chữa lại câu thơ là :
Một tối bầu trời đắm sắc mây
Cây tìm nghiêng xuống nhánh hoa gầy...
Như vậy thiên nhiên mới có sự giao hoà rõ rệt. Tứ thơ chặt. Bài thơ thành ra nhất quán. Cách chữa của Thế Lữ rất được Xuân Diệu đồng tình và tri ân.
(Công việc làm thơ, sđd, tr. 26)
Bài "Tống biệt hành" của Thâm Tâm là một bài thơ hay, rất hay, có lẽ là một trong những bài thơ hay nhất của thời 30-45. Bài thơ hình thành như hai lời đối thoại, không, đúng hơn, như hai lời độc thoại của hai người, một người ra đi và một người đưa tiễn. Người đưa tiễn buồn mênh mang. Nghe tiếng sóng xao trong lòng. Nghe hoàng hôn rơi trong mắt:
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng.
Không biết người ra đi trả lời hay chỉ là tự nhủ thầm cho một mình mình nghe:
Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí lớn không về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
Nghe có vẻ đầy hào khí, nhưng người đưa tiễn biết đó chỉ là giả vờ:
Ta biết ngươi buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị đều như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Ta biết ngươi buồn sáng hôm nay
Trời chưa là thu tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc sáng hôm nay.
Chị, em và người yêu lưu luyến thế ấy, chẳng lẽ lại đành tâm ra đi? Nhưng ly khách lại đi thật. Bóng đã xa, người đưa tiễn còn ngơ ngác đứng và hun hút nhìn:
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là giọt rượu
Em thà coi như hơi rượu say.
Trong "Thi Nhân Việt Nam Tiền Chiến", dựa theo nguyên bản bài thơ đăng trên "Tiểu thuyết thứ bảy", Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng phục hồi thêm bốn câu cuối:
Mây thu đầu núi, gió lên trăng
Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm
Ly khách ven trời nghe muốn khóc
Tiếng Đời xô động, tiếng hờn câm.
Đúng là giọng thơ Thâm Tâm. Nhưng tôi có cảm tưởng thêm bốn câu ấy vào, bài thơ không hay hơn. Hơn nữa, yếu xuống. Nó lạc điệu. Lạc về biện pháp: cả bài thơ được tác giả sử dụng biện pháp biểu hiện, đi sâu, xoáy sâu vào tâm tư. Đoạn cuối lại là những câu tả. Lạc điệu về giọng: bài thơ có hai nhân vật chính, người ra đi và người đưa tiễn, song cái thế của bài thơ là xuất phát từ vị trí người đưa tiễn. Đoạn cuối lại tập trung ở ly khách. Lạc điệu về tứ: trong mấy đoạn đầu, ly khách tuy ngậm ngùi nhưng nét chính vẫn là sự nghênh ngang, hào sảng. Thấp thoáng chút hùng khí đời xưa. Phảng phất chút hình ảnh Kinh Kha ngày trước. Rất đẹp. Biết là cường điệu mà vẫn thấy đẹp. Đoạn cuối xoá tan tất cả những hình ảnh và ấn tượng ấy: ly khách lại trở thành nhỏ nhoi, thảm thương "ven trời nghe muốn khóc". Tôi không biết Thâm Tâm hay Hoài Thanh đã cắt bỏ đoạn thơ ấy trong Thi Nhân Việt Nam. Dù là do ai, sự cắt bỏ ấy cũng rất mực tài tình.
Có người chia tứ thơ ra làm hai loại: tứ thơ thiên về tạo hình và tứ thơ thiên về dòng suy nghĩ liên tưởng.
Tứ thơ thiên về tạo hình là loại tứ được xây dựng với mục tiêu khắc họa một nhân vật hoặc một cảnh vật cụ thể qua đó nhà thơ gửi gấm cảm xúc và tư tưởng của mình. Lênh theo từng đường nét hội họa của thơ là những nhịp thở xôn xao từ trái tim người. Đây là loại tứ phổ biến và xuất hiện sớm nhất. Hầu hết những bài thơ nêu trên đều thuộc loại tứ này.
Hôm nay dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm...
Thơ Nguyễn Bính. Tựa "Không đề". Chỉ có bốn câu. Theo tôi, đây là một trong những bài thơ hay nhất, hoàn chỉnh nhất của Nguyễn Bính. Bài thơ có hai nhân vật, một người con trai và một người con gái. Người con trai ở dưới bến chờ xuôi đò. Người con gái ở trong nhà, qua vuông cửa sổ, thẩn thờ ngó ra. Nguyễn Bính nói họ "thương nhau". Chắc chỉ là thương thầm. Nên không có tiễn đưa. Nên người con gái mới băn khoăn tự hỏa "Anh đi đấy, anh về đâu?". Sáu chữ mà bời bời hai tâm sự ngổn ngang. "Anh đi đấy?" là câu hỏi thảng thốt. Đau nhói. "Anh về đâu?" là câu hỏi ngậm ngùi. Buồn tênh. Người con gái ngạc nhiên, rồi bàng hoàng, rồi ngẩn ngơ. Chiếc thuyền rời bến, từ từ đi xa. Hình ảnh người con trai mất hút. Chỉ còn chiếc thuyền. Rồi chiếc thuyền cũng khuất. Chỉ còn cánh buồm vươn cao, vươn cao, chới với, chập chờn, lung linh, xa xăm:
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm...
Người con gái vẫn còn đứng đó, bên thành cửa sổ, vời vợi nhìn theo. Câu thơ cắt thành ba nhịp, tưởng như mỗi nhịp ngắt là một làn sóng đột nhiên trào lên, che khuất cánh buồm. Bao nhiêu lần khuất rồi hiện. Lần cuối cùng, đã xa lơ xa lắc, người con gái chỉ còn nhìn thấy, mờ thật mờ, hình ảnh cánh buồm thấp thoáng, nhoà đi trong khói sóng bập bềnh. Không còn thấy màu sắc nữa: chữ "nâu" ở nhịp cuối biến mất.
Trần Huyền Trân, người khách muộn màng nhất trong "Thi Nhân Việt Nam", người bị Hoài Thanh Hoài Chân vừa đón tiếp vừa dè bĩu là "không xuất sắc lắm", lại là tác giả một bài thơ lục bát tuyệt hay: bài "Ngõ trúc" (sau này Trần Huyền Trân đổi tựa lại là "Thu").
Mưa rơi trắng lá rau tần
Thuyền ai bốc khói xa dần bến mưa
Người về khép lại song thưa
Để rêu ngõ trúc tương tư lá vàng.
Cặp lục bát đầu mở ra và khép lại bằng hai chữ "mưa". Cả không gian bị vây quanh dưới mưa. Mưa rơi trùng trùng, sướng mướt, lê thê. Mưa tung toé sủi bọt trắng xoá trên những chiếc lá rau tần yếu ớt. Mưa xoá nhoà hình ảnh chiếc thuyền khiến nó biến thành hư hư ảo ảo như một cụm khói. Tôi ngờ là chiếc thuyền vẫn đậu yên. Nhưng mưa mờ mắt nhìn, gây cảm tưởng chiếc thuyền mỗi lúc một xa dần, xa dần. Đường vắng. Ngõ vắng. Không có ai cả. Suốt bài thơ không hề thoáng thấy một nhân ảnh. "Thuyền ai" chỉ là cách nói chỉ chiếc thuyền xa lạ. "Người về" cũng chỉ là cách nói chỉ một ý niệm hết sức bâng quơ. Trên các lối ngõ ven sông chỉ có những khóm trúc đứng buồn thiu dưới mưa. Và rêu xanh sũng nước. Và lá vàng rụng rơi.
Khó mà bình câu cuối. Hiếm khi nào thơ lục bát lại hàm súc đến vậy. Một cái gì vắng, thật vắng. Lặng, thật lặng. Mà cũng hiu hắt quá chừng. Tưởng như từ thiên cổ, trên ngõ trúc ấy, đã không có người vãng lai. Tưởng như đến nghìn năm sau, trên ngõ trúc ấy, vẫn phong hoài niềm hiu quạnh. Chỉ có rêu nhớ lá.
Loại thiên về dòng suy nghĩ liên tưởng lại khác. Ở đây có thể hình tượng, đôi khi dày đặc hình tượng, tuy nhiên cái mạch chính để dẫn dắt tứ thơ lại là một cảm nghĩ nào đó. Hình tượng có thể rời rạc với nhau nhưng lại thống nhất trong một chủ đề chung. Nhà thơ có thể miên man liên tưởng đến những vấn đề khác, xa hay gần. Kết cấu loại tứ này, do đó thường sinh động và đa dạng. Bài thơ hình thành như một thứ giao hưởng giữa trái tim và đầu óc. Chất thơ và chất suy tưởng đan quyện lại với nhau. Từ hiện tại, nhà thơ có thể quay về quá khứ hay đến tương lai. Từ một cảnh vật cụ thể, nhà thơ mông lung nghĩ ngợi đến những chuyện xa vời. Có thể dẫn bài "Đất nước" làm thí dụ. Bài thơ này được sáng tác từ năm 1948, cùng thời gian với bài Tây Tiến" của Quang Dũng, thời toàn dân chống Pháp, lúc cộng sản chưa dùng những hình thức tàn bạo nghiệt ngã siết văn thơ vào khuôn khổ chật chội của một cái loa tuyên truyền rỉ sét.
Tứ thơ hình thành từ một thời gian và một không gian cụ thể:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.
Sau đó tứ thơ chuyển về quá khứ:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác heo may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Rồi lại quay về hiện tại:
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng đây vui giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Rừng thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.
Giọng bâng khuâng biến thành giọng hùng tráng:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.
Đang suy nghĩ về tổ quốc, nhà thơ chợt nhớ đến những kỷ niệm riêng tư:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Đoạn kế tiếp lại pha rất nhiều vẻ chính luận:
Từ những năm đau thương chiến đấu
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Bỗng bật lên những tiếng căm hờn...
Cứ thế, theo dòng liên tưởng của mình, nhà thơ dẫn dắt người đọc đi từ chuyện này qua chuyện kia, từ vấn đề này qua vấn đề khác, từ quá khứ đến hiện tại, đến tương lai, từ việc riêng đến việc chung, từ giọng tâm tình đến giọng suy tưởng nhưng trước sau vẫn bám vào một cái trục duy nhất: những suy nghĩ về đất nước.
Tôi có cảm tưởng các nhà thơ ở miền Nam trước đây hay ở hải ngoại hiện nay ít khai thác loại cấu tứ này. Tiếc. Có thật nhiều cơ hội để tiếp xúc với những luồng tư tưởng lớn trên thế giới, đầu óc được hoàn toàn tự do để suy nghĩ, cuộc sống nội tâm vô cùng phong phú, đó không phải là những điều kiện cần và đủ cho loại tứ này nở hoa?
Bài thơ "Lệ đá xanh" của Thanh Tâm Tuyền giàu chất suy tư nhưng do thiếu những liên tưởng bất ngờ nên tứ thơ ít biến hoá, thiếu linh động, giống như một nhành hoa thẳng đuột, khẳng khiu.
Bài thơ chia làm ba phần như một thứ... tam đoạn luận cứng nhắc. Phần đầu trình bày những ấn tượng chung của tác giả về cuộc đời:
Tôi biết những người khóc lẻ loi
Không nguôi một phút
Những người khóc lệ không rơi ngoài tim mình
Em biết không
Lệ là những viên đá xanh
Tim rủ rượi
Mỗi người trong cuộc đời như một ốc đảo trong địa ngục. Họ khóc triền miên. Tiếng khóc giữa cô đơn không thể vỡ oà. Nó nén lại. Thành một nghẹn ngào. Những giọt nước mắt âm thầm và không tan trên khoé mắt ấy càng khiến con người thêm u uất, ngỡ chúng như những "viên đá xanh" đè lên trái tim, gây biết bao đau đớn, ngột ngạt, tức tối. Đây là đoạn thơ hay nhất trong bài. Ngôn ngữ mạnh và sắc. Nhạc điệu mới và hay.
Đoạn thứ hai, tác giả muốn phá tan cái ấn tượng ảm đạm ấy bằng cách:
Đôi khi anh muốn tin
ngoài đời chỉ có trời sao là đáng kể
mà bên những vì sao lấp lánh đôi mắt em
đến ngày cuối
đôi khi anh muốn tin
ngoài đời thơm phức những trái cây của Thượng Đế
mà bên những trái cây ngọt ngào đôi môi em
nguồn sữa mật khởi đầu
đôi khi anh muốn tin
ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em
vòng ân ái
đôi khi anh muốn tin.
Nhiều người phần nàn thơ Thanh Tâm Tuyền khó hiểu. Thật ra. Không đến nỗi. Tất cả "bí mật" của thơ ông đều nằm trong hai yếu tố: đảo ngữ và dấu biệt liên từ. Đã quen với thơ ông, người ta sẽ thấy phần lớn đều sáng sủa đến độ... khó mà bình giảng thêm. Chẳng hạn, khổ đầu của đoạn thơ trên sẽ là "đôi khi anh muốn tin, ngoài đời chỉ có trời sao là đáng kể, mà bên những vì sao (ấy) (là) đôi mắt em (sẽ) lấp lánh đến ngày cuối".
Đáng để ý nhất trong đoạn thơ trên là mệnh đề láy đi láy lại nhiều lần "đôi khi anh muốn tin". Niềm tin ở đây thật ngượng ngập và thật mong manh. Dễ hiểu tại sao, cuối đoạn, sau khi viết "đôi khi anh muốn tin", tác giả dừng lại đột ngột, hết sức lửng lơ. Bởi lúc ấy, ngay lúc ấy, cuộc đời bỗng dội lên thực tế não nề:
ôi những người khóc lẻ loi
đau đớn lệ là những viên đá xanh
tim rủ rượi.
Giống hệt đoạn đầu, chỉ thêm một hình dung từ và một tán thán cho hơi thơ có âm hưởng hơn.
"Lệ đá xanh" chưa phải là bài thơ hay nhất của Thanh Tâm Tuyền. Tuy nhiên đây là bài thơ mở ra khía cạnh ít người ngờ ở tâm hồn nhà thơ thỉnh thoảng có những phát ngôn ra vẻ nhẫn tâm này: lòng nhân hậu. Rất yêu cuộc đời đến không nỡ kiếm riêng một niềm vui.
Đứng về phương diện xây dựng tứ thơ, theo tôi, có ba cách:
Thứ nhất, cấu tứ theo lối tăng tiến.
Thuộc loại này, những bài thơ có tứ tương đối định hình sớm, ngay từ những câu đầu và sau đó, ở những câu kế tiếp cho đến lúc chấm dứt, tác giả chỉ làm nhiệm vụ khai triển thêm, đào sâu thêm. Cách cấu tứ này rất phổ biến. Nó thích hợp với những trạng thái tâm lý ngưng đọng ở một nét nào đó rõ ràng. Nó không gây bất ngờ song có khả năng dẫn người đọc mỗi lúc một đi sâu, đi xa, đến tận cùng một nỗi niềm, một tâm trạng.
Chắc ít người nhớ bài "Về đây" của Cung Trầm Tưởng:
Về đây tôi lại gặp tôi
lang thang lối cũ trước đồi sau mương
ngô đồng lả ngọn thuần lương
trời cao không đỉnh, mến thương không bờ
cố tri khóm hạnh bây giờ
vẫn bừng hoa nở đứng chờ lối xưa
vẫn hanh vàng nắng tỏa vừa
hiu hiu tùng rũ bóng chưa hao gầy
về đây tôi lại về đây
non lên thắm nhớ, chiều đầy khoan dung
chân vui lối rộn không cùng
gần xa trời mở vòng cung thâu vào
chân phương lòng thấy nao nao
với muôn thương mến lên cao hôn trời.
Thơ tả một cuộc trở về quê quán cũ mà được như vậy kể cũng ít. Giọng thơ nhẹ nhàng. Tình thơ đôn hậu. Ăm ắp niềm vui. Vui vì gặp lại không gian quen thân cũ. Vui vì gặp lại chính mình thuở ấu thơ. Nỗi vui lênh tràn ra trời đất. Mấy câu cuối, hình tượng đẹp và ý hay.
Bài thơ "Thơ bệnh" của Viên Linh cũng theo lối cấu tứ tăng tiến.
Trong tâm trạng của nhà thơ lúc bệnh, thoạt đầu hình ảnh của mình là một sự dừng lại, dừng lại để thấy bao nhiêu nhiệt tâm một đời đổ ào ra khơi xa, bao nhiêu mơ ước còn chôn chặc u uẩn trong lòng:
Lúc này hình đất tượng cây
Đời ta như nước chảy đầy bãi xa
Chiều rồi lòng mở không ra
Mênh mông trong ngực mùa hoa hải tần
Dừng lại rồi gảy đổ giữa trùng trùng sóng dập:
Khói um kín mộng thanh tân
Hình ta sụp đổ mấy lần trong gương
Bên kia bóng vội lên đường
Đằng sau mặt thủy trùng dương sóng dồi.
Dừng lại, sụp đố rồi lún xuống. Lún đến nửa đời người. Trong vũng sầu mênh mông:
Nước xa cuồn cuộn ra khơi
Sâu trong tâm thể có đôi giọt gần
Bãi sầu trời ngập đến chân
Dương gian ta lún nửa thân còn gì.
Lún theo thời gian và lún theo cơn bệnh. Đến một lúc nào ngỡ đã tiếp cận với bờ bên kia cõi sống:
Chiều nay mưa dưới âm ty
Ta nghe kiếp trước thầm thì hỏi han.
Khi xây dựng tứ thơ theo lối tăng tiến, cần chú ý một điều: càng về sau, cảm xúc càng phải mạnh hơn, chặt hơn, đậm hơn. Thì mới gây được ấn tượng sâu. Nếu không, cái thế của đoạn sau dễ thành hụt hẫng. Hoá thừa.
Lối kết cấu thứ hai : gợi mở.
Thuộc loại này, những bài thơ có tứ chính được giấu kín đến những câu cuối cùng. Bài "Ông đồ" của Vũ Đình Liên là thí dụ. Suốt 18 câu đầu, tác giả chỉ tả hình ảnh ông đồ cụ thể xuyên suốt quãng thời gian dài, từ quá khứ đến hiện tại, từ thuở vàng son đến lúc bị lãng quên. Đến hai câu cuối, ngỡ tác giả sẽ buông lời cảm khái trước một ông đồ hẩm hiu. Nhưng không. Vũ Đình Liên, từ một ông đồ cụ thể, đã liên tưởng đến cái gì rộng hơn, mênh mông hơn:
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Tứ thơ đột ngột mở rộng. Chợt man mác buồn nhớ đến những giọt lệ của Trần Tử Ngang ngày nào.
Bài "Mất ô" của Tú Xương cũng có lối kết cấu tương tự:
Đêm qua anh đến chơi đây
Giày dôn anh diện, ô tây anh cầm
Rạng ngày sang trống canh năm
Anh dậy em hãy còn nằm trơ trơ
Hỏi ô, ô mất bao giờ
Hỏi em, em cứ ỡm ờ không thưa...
Đến đây, bài thơ không có gì đặc sắc. Chỉ là lời tường thuật pha chút u-mua nhẹ nhàng.
Thế nhưng, còn hai câu cuối nữa:
Chỉ e rày gió mai mưa
Lấy chi đi sớm về trưa với tình.
Bài thơ, nói như Nguyễn Tuân, tự nhiên "nổi gió" hẳn lên. Không còn là văn xuôi trần trụi. Đã là thơ. Từ cái việc cỏn con là mất ô, Tú Xương mở ra bát ngát một tấm lòng khao khát tình yêu vô hạn.
Luân Hoán, trong Hơi Thở Việt Nam, thường sử dụng lối kết cấu tăng tiến. Gần đây, trong nhiều bài thơ đăng báo, tôi có cảm tưởng ông nghiêng về lối cấu tứ gợi mở hơn. Ông đang học bài học của Kim Trọng: từ một gót giày in trong rêu xanh, mở ra những tâm tình người man mác. Ông đang học lại bài học của Quách Tấn: từ một "vỏ sò khô", làm thức dậy những tiếng "sóng trùng dương" vọng vang trên những "muôn xa bờ bến cũ". Thơ ông, nhờ đó, có âm hưởng ngân vang hơn, sâu lắng hơn, nhói lòng hơn. Bài thơ "Bạc tóc" đăng trên Văn Học số xuân Mậu Thìn là bài thơ cảm động. Từ mấy cọng tóc bạc trên đầu, Luân Hoán mở ra một tấm lòng đang phôi pha theo ngày tháng lưu cư khắc khoải:
Không đâu em, chúng mình là đá trắng
Đang xây dần phần mộ của riêng ta
Hoa ngập nước lâu ngày đành phải rã
Hồn ngấm sầu lâu quá phải phôi pha.
Cách cấu tứ gợi mở thường được người xưa sử dụng. Nó bất ngờ. Có cảm giác đang ở trong một không gian chật, hẹp, khép kín, mọi cửa ngõ đều bằng bặt đóng im, rồi bỗng dưng, thật đột ngột, mọi cánh cửa đều mở toang. Thấy lồng lộng bên ngoài một sắc trời xanh, xanh biếc.
Có điều, theo lối cấu tứ này, bài thơ khó dài. Dài, thời gian chuẩn bị tâm thế lâu dễ sinh ngột, nản. Mà nói thế, chứ ai lại mong làm thơ dài?
Cách cấu tứ thứ ba: tương phản
Trong bài "Đám tang Nguyễn Duy Diễn", Nguyên Sa viết:
Diễn đã chết, Diễn đã chết
Chúng tôi nhảy múa hò reo
Như những người da đen
Thế là nó thoát, thế là nó thoát!
Thế là nó thoát, đúng rồi, thế là nó thoát
Thoát khỏi ngủ, khỏi ăn, khỏi thở
Khỏi đêm, khỏi ngày, khỏi tháng, khỏi năm
Khỏi chờ, khỏi đợi
Khỏi hy vọng ban mai, buồn thiu buổi tối
Thế là nó thoát, thế là nó thoát
Khỏi phải đi, khỏi phải đứng, khỏi phải ngồi
Khỏi bốn mươi giờ dạy học mỗi tuần
Khỏi viết ban đêm, khỏi đến nhà in buổi sáng
------------------------------------------
Thế là nó thoát, thế là nó thoát
Cuồng lưu dằn vặt đã trôi đi
Khỏi phải nghĩ, khỏi lo âu, sợ hãi
Sự thực có phải bao giờ cũng tối như đêm
Tình ái có phải suốt đời là canh bạc lận
Lịch sử, rút lại, có phải là thằng mù sờ soạng
Ném tất cả rồi, ném xuống biển sâu
Này hai vai nói nhẹ:
Chiếc lưới đã mở rồi
Thế là nó thoát, anh em ơi.
Thử so sánh với bài "Khóc Dương Khuê" của Nguyễn Khuyến. Chưa tới một thế kỷ mà cách nghĩ, cách viết khác nhau biết mấy. Bài thơ của Nguyên Sa nung nấu đầy những uất ức vả cay đắng. Nghe tin bạn chết, Nguyên Sa không "bàng hoàng" như người xưa. Ông và những kẻ còn sống "nhảy múa hò reo". Thật chăng? Hãy đọc lại mấy câu cuối. Hãy nghe lời "hai vai nói nhẹ" theo từng nhịp nấc. Cảm giác phẩn nộ đối với cuộc sống, đến đây thành một sự nghẹn ngào.
Bài thơ không có một câu một chữ nào tiếc thương người khuất nhưng cả tứ thơ lại toát lên niềm đau đớn vô tận.
Bài "Phiêu bồng" của Cao Tần cũng có lối cấu tứ tương phản:
Cho ta làm lại cuộc đời
Thì ta lại vẫn ra khơi như thường
Vật vờ vượt sóng trùng dương
Kiếm đời di tản nghìn cơn nhục nhằn
Mai này tính sổ trăm năm
May chăng lời được cái thân phiêu bồng.
Nhà thơ ca ngợi sự " phiêu bồng" và thích thú "đời di tản" chăng? Không. Ông kinh sợ nó. Hai chữ "phiêu bồng" nghe có vẻ lãng mạng thật. Nhưng đời người sẽ có ý nghĩa gì khi vì nó, phải chịu đựng "nghìn cơn nhục nhằn" để đến lúc nhắm mắt, nhìn lại, chỉ thấy toàn những dấu chân lênh đênh. Cần chú ý hai chữ "may chăng" ở câu cuối. Cái điều duy nhất có thể gọi được là "lời" của người lưu vong, coi bộ cũng phiêu hốt, mong manh lắm.
Cả hai bài thơ mới dẫn của Nguyên Sa và của Cao Tần đều cấu tứ theo lối tương phản. Cái tứ nằm ở mặt trái của chữ và của ý. Loại tứ này hiếm xuất hiện và còn để ngõ nhiều khả năng thật lớn.
Ở trên, tôi có trích lại hai nhận định quan trọng của Xuân Diệu: một, làm thơ, trước hết là tìm tứ; hai, trong việc làm thơ, khó nhất là tìm tứ.
Đưa ra hai nhận định ấy, Xuân Diệu xuất phát từ góc độ sáng tác thơ.
Đứng ở phạm vì một bài thơ cụ thể, người ta cũng có thể nêu ra một số nhận định cơ bản khác:
Một, cốt lõi của bài thơ là cái tứ.
Hai, mỗi bài thơ chỉ có một tứ duy nhất. Ý, có thể trùng trùng. Hình tượng, có thể điệp điệp. Nhưng tứ phải là một. Chỉ có một. Hơn, bài thơ bị nát thành hai, ba phần rời rạc, lạ lẫm bên nhau.
Ba, yếu tố quan trọng nhất quyết định giá trị một bài thơ, quyết định sức sống của bài thơ chính là cái tứ.
Nói đến thơ văn đời Lý, đời Trần, không kể bài "Thiên đô chiếu" của Lý Công Uẩn, bài "Nam quốc sơn Hà, Nam đế cư" của Lý Thường Kiệt, bài "Tụng giá hoàn kinh sư" của Trần Quang Khải, và bài "Hịch tướng sĩ" của Trần Hưng Đạo vốn được nhắc nhở nhiều vì lý do chính trị hơn vì lý do thuần tuý văn học, nói chung, có mấy bài thơ hay được người ta dẫn và bình nhất: bài "Thị đệ tử" của Vạn Hạnh, bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, bài "Ngôn hoài " của Không Lộ thuộc đời Lý và bài "Cảm hoài" của Đặng Dung ở cuối đời Trần.
Những bài thơ được nhắc nhở nhiều ấy hay hơn hẳn những bài thơ khác ? Chưa chắc. Đứng về phương diện ngôn ngữ cũng như hình tượng, những bài thơ của Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Huyền Quang, Trần Nguyên Đán... có lẽ vững hơn nhiều. Vậy ra lịch sử nhầm lẫn hay bất công chăng? Cũng không phải. Sự thực đơn giản lắm: người ta nhớ thơ trước hết là vì cái tứ.
Bất cứ cái tứ nào diễn tả được tâm trạng phổ biến nhất của con người ở những cảnh huống họ hay gặp nhất, tứ thơ ấy sẽ sống mãi.
Nghĩ lại coi, câu thơ "Anh đi đường anh, tôi đi đường tôi" của Thế Lữ, hay câu "Yêu là chết ở trong lòng một ít" của Xuân Diệu, hay câu "Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ" của Vũ Hoàng Chương thời tiền chiến... là hay lắm sao? Thật ra, đó là những câu thơ cũng bình thường thôi. Nhưng, chắc chắn, bao lâu ở đời còn có những người chia tay nhau, những người bị lỡ làng trong tình yêu, những người bất đắc chí trong cuộc sống, bấy lâu mấy câu thơ trên còn vọng vang mãi. Ai dám chắc, trong đời mình, chưa bao giờ ngâm lên nho nhỏ mấy câu thơ ấy để làm nguôi khuây những niềm u uẩn.
Kết luận: tứ thơ cần phải độc đáo, cần phải cô sắc, nhưng trước hết, cần phải chân thực. Thời gian chỉ giữ gìn những tứ thơ chiếm lĩnh một không gian bao la và sâu sắc trong lòng mọi người.
Nguyễn Hưng Quốc
Tìm hiểu NGHỆ THUẬT THƠ VIỆT NAM
Khảo luận của Nguyễn Hưng Quốc
Quê Mẹ ấn hành
Paris 1988
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment