Saturday, July 20, 2019
TỨ THƠ
Nguyễn Hưng Quốc
Tổng kết kinh nghiệm gần một đời làm thơ của mình, trong quyển "Công việc làm thơ" xuất bản năm 1984, Xuân Diệu viết:
"Lao động thơ, trước hết là kiếm tứ.
Ngôn từ, lời, chữ, vần là rất quan trọng. Tuy nhiên đó là cái quan trọng thứ hai, mà cái quan trọng thứ nhất, làm rường cột cho tất cả, là cái tứ thơ, nó chủ đạo cả bài.
Làm thơ, khó nhất là tìm tứ". (Trang 117).
Dù sau này, dưới chế độ cộng sản, Xuân Diệu làm thơ không ra gì, tuy nhiên, đừng quên, trước kia, có một thời, thời 30-45, ông là nhà thơ có tài lớn. Nở bừng ra giữa một mùa khô hạn của nền văn học đầu thế kỷ 20 nặng nề quẩn lại bước chân cũ những thế kỷ trước, những bài thơ của Xuân Diệu, cùng với thơ của nhiều người khác, trong đó thơ Xuân Diệu là một trong vài đỉnh cao, đã xuất phát từ một quan điểm thẩm mỹ mới, thể hiện một tâm trạng mới, sử dụng một ngôn ngữ mới, sáng tạo một phong cách mới, mở rộng địa lý của thơ, mang đến cho thơ một khí hậu cực kỳ ấm áp, gần gủi nhân tình. Thời ấy, Xuân Diệu thực sự là một nhà cách tân. Ông đã làm cho lãnh thổ cái đẹp trở thành rộng rinh hơn khi khám phá ra nét phân vân trên một cánh cò, cái rung mình của một ánh trăng thâu, cái hoà hợp âm thầm của một nhành hoa, một bãi cỏ và một làn rêu trong đêm tối, cái bâng khuâng không duyên cớ khi trời chiều tự dưng trong vắt, cái hơi rét gây gây luồn lách, len lỏi vào trong gió thu. Xuân Diệu là người đầu tiên nhận ra hương bưởi là tín hiệu của đêm khuya, hiện tượng nắng tự nhiên nhạt màu, mây tự nhiên trôi nhẹ và gió tự nhiên hiu hiu là tín hiệu của tình yêu.
Sau này, khi trở thành gã mãi võ của cộng sản, Xuân Diệu chỉ tạo được, dưới hình thức gọi là thơ, những cuộc hoà âm ầm ĩ mà rỗng tuếch của phèng la và chập choã. Tiếng chim hót của ngày xưa không còn. Chỉ còn một vòi nước rè rè và đục vẩn. Nhưng đó là nói về sáng tác. Còn kinh nghiệm lại là cái gì khác ở ngoài mọi lập trường, mọi quan điểm. Kinh nghiệm là đứa con của thời gian. Do đó không nên khăng khăng hất đổ những gì Xuân Diệu tổng kết ở trên.
Nhưng, trước hết, tứ thơ là gì?
Có nhiều cách hiểu khác nhau. Theo Chế Lan Viên, "gọi nó là tứ để phân biệt với ý. Chữ 'tứ' chẳng qua là ý lớn toàn bài vậy" (Văn Học, Hà Nội , 17/11/1961, bút hiệu Chàng Văn). Ngược lại, theo Nguyễn Xuân Nam, "tứ trong toàn bài là hình tượng xuyên suốt cả bài thơ" (Văn Học, Hà Nội, 2.1981). Hai quan niệm khác nhau. Một đằng thiên về ý. Một đằng thiên về hình tượng. Nhưng lại giống nhau ở một điểm: bất cập.
Thử đọc bài thơ này của một nhà thơ cộng sản:
Tiếng loa nhắc vụ này thay giống lúa mới
Mùa đông giữ ấm ngực trẻ con
Trung ương vận động mua công trái nhiều hơn
Việc vợ chồng sinh đẻ có kế hoạch
Thì cũng có ý đấy. Nhưng tứ thơ đâu?
Hay thử đọc bài thơ này của một "nhà thơ" cộng sản khác:
Bãi lầy lắm hến nhiều ngao
Càng nhiều bãi lội càng cao lượng mồi
Đi chăn chực khó ướt người
Thì đêm ấy lượng trứng trồi hẳn lên
Thì cũng có hình tượng đấy. Nhưng tứ thơ đâu?
Đồng hoá tứ thơ với ý hoặc với hình tượng không những sai lầm mà còn là điều nguy hiểm. Thứ nhất, nó cũng có nghĩa là đồng hoá thơ và vè, thơ và các loại diễn ca chính trị tầm thường rỗng tuếch nhan nhản trên sách báo tuyên truyền hoặc trên các vỉa hè, các đường phố: tất cả đều có điểm chung, hoặc có ý, hoặc có hình tượng, hoặc có cả hai. Thứ hai, nó làm mất khả năng phân biệt thơ hay và thơ dở. Không hiếm gì những bài thơ có ý tưởng ra vẻ "triết lý" cao kỳ mà lại là những bài thơ kém. Cũng không hiếm gì những bài thơ có hình tượng cũng gọi là "đèm đẹp" nhưng lại chỉ là những bài thơ nhạt phèo, chán ngắt. Thứ ba, nó làm lạc hướng những người mới bắt đầu làm thơ: họ dễ tưởng làm thơ chỉ là công việc thuần tuý của tư duy hay chỉ là công việc lắp ráp các hình tượng ngồ ngộ lại với nhau. Để cuối cùng, tạo nên một cái gì rất đỗi... xa thơ.
Trong tứ có ý, nhưng tự nó, ý chưa là tứ. Trong tứ có hình tượng, nhưng tự nó, hình tượng chưa là tứ. Còn xa xôi vô cùng. Không phải cứ đem mấy khái niệm triết học mốc thếch từ đâu, gắn vào đít của chúng vài chữ đồng thanh, đồng âm cho ra vần vè là tự nhiên có thơ. Cũng như không phải cứ vất bừa bãi dăm bảy cành hoa lại với nhau là tự nhiên người ta có một bình hoa mỹ thuật. Ý, nó khô khốc lắm. Như là xương. Hình tượng, nó khơi với, bồng bềnh lắm. Như là khói. Ý và hình tượng phải kết tụ lại với nhau như da thịt đắp lên xương xẩu thì mới có hình người. Nhưng chưa là con người. Hình như trong Cựu Ước có viết, sau khi nắn thành hình người, Đức Chúa Trời phải thổi vào hình người ấy một hơi thở để tạo ra cái gọi là linh hồn, hình người ấy mới thực sự có sự sống, người đàn ông mới biết quay lại nhìn người đàn bà, để thấy, nơi mái tóc đen nhánh kia có một cái gì khiến sóng trong lòng mình xao lên, nao nao. Linh hồn ấy, trong thơ, chính là cảm xúc.
Chỉ gọi là tứ khi có một ý tưởng làm bồng lên trong hồn người những niềm rung động sâu sắc và ý tưởng ấy, niềm rung động ấy cùng quyện lại với nhau, nhập thân vào một hình tượng cụ thể.
Ý là của chung mọi người. Hình tượng là của chung trong trời đất. Ánh trăng nằm trên cành liễu thì có gì là mới mẻ đâu? Nhưng cái tứ ánh trăng "nằm sóng soải trên cành liễu. Đợi gió đông về để lả lơi" thì rõ ràng là của riêng Hàn Mạc Tử. Niềm say mê cái đẹp tinh khiết của vũ trụ thì có gì là lạ đâu? Nhưng cái tứ "Ta van cát bụi bên đường. Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này. Để ta tròn một kiếp say. Cao xanh liều một cánh tay níu trời" thì rõ ràng là của riêng Vũ Hoàng Chương. Tứ là cái gì rất riêng tây ở mỗi nhà thơ, ở mỗi bài thơ. Tứ là thế giới tinh khôi lần đầu tiên được nhà thơ tạo dựng trong cơn say ngây ngất của cái người ta quen gọi là cảm hứng.
Có thể định nghĩa vắn tắt: tứ là những suy nghĩ của trái tim trước cuộc đời.
Bởi vì tứ là cái gì rất tổng hợp, do đó, quá trình tìm tứ cũng là một quá trình tổng hợp: nhà thơ phải vận động cùng lúc ba khả năng, suy nghĩ, tưởng tượng và cảm xúc. Chỉ khi nào ba yếu tố trên gặp gở nhau ở một điểm nào đó, tứ thơ mới hình thành. Nghĩ coi, có thể tin được không, là, trong suốt cuộc đời đi học, đi làm xa của mình, chỉ có một lần duy nhất Huy Cận cảm thấy nhớ nhà? Chắc chắn là không. Nỗi nhớ cũng tự nhiên như là mây giăng ở những góc trời xa vắng. Thế thì tại sao chỉ có một lần, một lần duy nhất nở nhớ ấy hoá thành thơ? Câu trả lời: bởi vì chỉ có một lần duy nhất ba yếu tố trên hoà nhập được với nhau. Trong một thời điểm: chiều hanh hao nắng. Trên một địa điểm: tràng giang điệp điệp sóng buồn. Sông thì dài, trời thì rộng, mây thì xa, bến thì cô liêu, ý niệm về sự lẻ loi của người lữ thứ càng đậm, nỗi sầu ly hương càng thêm thê thiết: tứ thơ khai sinh.
... Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Rất nhiều nhà thơ kể giống nhau: có những cảnh vật người ta nhìn hoài, nhìn hoài. Quen thuộc lắm. Nhớ làu làu từng chi tiết nhỏ. Nhưng cứ thấy là bình thường, tầm thường. Cảnh vật chỉ đọng trong mắt mà không len vào máu. Chỉ ơ hờ xa lạ bên cạnh những bước đi đi về về hằng ngày. Rồi bỗng dưng, một hôm, trong một tâm cảnh nào đó không ai biết rõ, hình như những tư tưởng nung nấu từ lâu đã chín muồi, hình như những cảm xúc im lìm đã cồn cào lên sóng, người ta nhìn lại những cảnh vật ấy, thấy lạ lùng hẳn, mới, tươi và gần gủi tâm hồn như thoạt thấy lần đầu. Chén trà khuya không chỉ là chén trà nữa. Chén trà khuya đã "nao nao trăng hạ tuần" như trong thơ Quách Tấn. Ánh trăng non không là ánh trăng non nữa. Mà trở thành "mới lớn lên trăng đã thẹn thò" như trong thơ Hàn Mạc Tử. Buổi chiều không còn là buổi chiều nữa. Buổi chiều đã là buổi chiều u uẩn và quạnh vắng của cõi lòng "buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường" như trong thơ Thanh Tâm Tuyền.
Tìm tứ là một quá trình chống lại một thói quen, chống lại những quán tính ù lì và những con đường mòn nhẵn thín cứ lôi người ta trơn tuột giữa cuộc đời. Tìm tứ là quá trình phát hiện cái bất bình thường từ những cái rất mực bình thường. Tìm tứ là quá trình khôi phục sự hồn nhiên bỡ ngỡ cho đôi mắt và cho trái tim.
Thế Lữ hồi ức lại hoàn cảnh sáng tác bài "Nhớ Rừng" như sau:
"Tôi làm một chân chữa bài in trong báo Volonté Indochinoise (Ý muốn của Đông Dương) ở phố Cửa Bắc, từ nhà tôi ở, muốn đến toà soạn, phải qua đường Ngọc Hà, thành ra qua vườn Bách Thảo. Chính vì qua vườn Bách Thảo mà nảy ra bải "Nhớ Rừng". Một trưa hè, ngồi nghỉ ở vườn, tôi nghe tiếng người làm vườn uể oải kéo lê bước chân trên đường sỏi, nghe ghê người lắm. Tôi nghĩ con hổ bị giam trong này thì buồn biết bao nhiêu. Bỗng nảy ra tứ một câu thơ đùa "Chú nó trong nắng hè uể oải. Cũng không buồn thương nhớ cảnh rừng xa". Nhưng sau đó tôi lại chuyển sang tứ là thương nhớ rừng. Khi đã nảy ra tứ thơ nhớ rừng thì bài thơ đến rất nhanh, từ sáng đến trưa là xong, không phải sửa chữa gì lắm" (Văn Nghệ, Hà Nội, số Tết 84).
Trước khi sáng tác bài "Nhớ rừng" đã bao nhiêu lần Thế Lữ đi ngang qua vườn Bách Thảo? Đã bao nhiêu lần nhìn con hổ bị giam trong củi sắt? Nhưng chỉ khi nào hình ảnh ấy hiện lên cùng lúc với tiếng bước chân "người làm vườn uể oải kéo lê trên đường sỏi" thì mới làm dâng trào lên trong tâm hồn Thế Lữ nỗi bùi ngùi trước những cuộc đời bị tù hãm, bị quẩn đọng trong một thế giới thật chật chộp, thật vuông vức. Con hổ không còn là con hổ. Con hổ trở thành một ý niệm, một biểu tượng của sự tự do bị đè nén. Tứ thơ loá lên. Con hổ tự nhiên có nỗi bất mãn thật kiêu hùng "Ghét những cảnh không đời nào thay đổi", có ước mơ lãng mạn và cao ngất hào khí:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Con hổ hoá nên nơi hội ngộ của một tư tưởng: tư tưởng tự do, và một tâm trạng: tâm trạng chán ngán hết mọi tù túng.
Quá trình sáng tác bài "Đêm thu nghe quạ kêu" của Quách Tấn cũng tương tự: đó là quá trình một tiếng quạ kêu nghe thấy tình cờ trở thành một tiếng đồng vọng của tâm tư. Quách Tấn kể:
"Nguyên một buổi chiều cuối thu năm Đinh Mão (1927), tôi ở Trường Định xuống An Thái hốt thuốc cho bà thân tôi. Theo con đường gần và dễ đi nhất, tôi qua bến đò An Thái sang An Vinh, rồi theo bờ sông Cổn đi thẳng lên.
Đêm hôm ấy có trăng, nhưng không được sáng, vì trời nhiều sương. Tôi vừa đi vừa nghĩ vẩn vơ. Chợt đến một khúc đường tre che khuất cả bóng trăng, và mo nang rụng đầy mặt đất. Tôi dẫm phải những mo khô mới rụng, tiếng kêu sột soạt làm bầy quạ đương ngủ trên cây, giật mình vỗ cánh kêu vang dậy. Tiếng kêu thình lình giữa đêm vắng, nghe vừa rùng rợn vừa lạnh lùng. Cả mình tôi rởn ốc!
Từ ấy tiếng quạ ám ảnh tôi luôn.
Cách ba tháng sau bà thân tôi mất. Tiếng quạ vẫn cứ theo tôi, nhưng giọng rùng rợn đổi thành giọng não nùng. Qua thời gian khá lâu, tiếng quạ thưa dần và nhạt dần, rồi lịm mất.
Mùa hạ năm Kỷ Mão (1939), một đêm trăng tôi ngồi hóng mát cùng nhà tôi và một người bạn, trên bờ đầm Nha Trang ở trước mặt nhà. Lúc ấy đã khuya. Nghe tiếng phở rao, nhà tôi gọi. Không thấy trả lời, anh bạn gọi tiếp. Tiếng gọi bị núi Sinh Trung bên kia đầm dội lại, ngân dài trong đêm khuya... Tiếng quạ năm xưa ở tâm hồn tôi vụt thức dậy rộn ràng... Rộn ràng nhưng dịu dàng chứ không rùng rợn, cũng không não nùng như ngày trước.
Trở vô nhà, suốt đêm tôi không ngủ được. Tiếng quạ vọng bên tai, và gợi lên không biết bao nhiêu là ký ức. Phần thì nhớ mẹ già xưa, phần thì thương cảnh làng cũ, bồi hồi áo não... tôi nằm im lìm để cho nước mắt trào ra... Niềm thương nhớ vơi theo nước mắt và lòng tôi êm dịu dần dần.
Toan ngồi dậy ghi lại dòng cảm xúc, song sợ thắp đèn quấy rầy giấc ngủ của vợ con, tôi đành nằm im đợi sáng.
Sáng hôm sau nhằm ngày chủ nhật, được nghỉ, tôi toan lấy giấy bút để làm thơ thì khách đến! Thế là mất hết buổi sáng. Chiều đến đóng kín cửa phòng, một mình ngồi lập ý.
Vừa nghĩ đến chữ quạ thì liên tưởng đến màu đen, đến chữ Ô. Chữ Ô làm nhớ đến bài Ô y hạng của Lưu Vũ Tích:
Chu tước kiều biên dã thảo hoa
Ô y hạng khẩu tịch dương tà.
Cựu thời Vương Tạ đình tiền yến
Phi nhập tầm thường bách tính gia.
Trần Trọng San dịch:
Chu tước bên cầu cỏ trổ hoa
Cửa Ô y hạng ánh dương tà
Xưa kia én đậu lầu Vương Tạ,
Nay tới dân gian lượn mái nhà.
Những cảnh trong thơ hiện ra mơ màng trước mắt.
Tôi đặt bút xuống bàn, ngồi nhắm mắt lại để lòng vui theo cảnh... Bầy yến dễ thương bỗng bay tản mát rồi nhập lại nơi lùm tre cao.
Tre che khuất bóng bầy chim én, nhưng lại đưa ra mấy tiếng quạ rộn ràng... Liền đó như một cuốn phim, những cảnh bến đò An Thái, con đường ven sông Cổn dần dần hiện ra dưới bóng nguyệt mờ sương... Rồi tiếng quạ ngân lên, và theo dư âm, bến đò An Thái biến thành bến Phong Kiều của Trương Kế với quang cảnh:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung lai đáo khách thuyền.
Tản Đà dịch:
Trăng tà tiếng quạ kêu sương
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Và con sông Cổn biến thành dòng sông Xích Bích với con thuyền của Tô Đông Pha trôi chầm chậm dưới bóng trăng thu... Tôi tưởng tôi là họ Tô đương ngồi vuốt chòm râu rậm bay phất phơ trước gió, và gõ mạn thuyền ngâm bài phú Xích Bích có nhắc đến họ Tào. Tôi như trông thấy rõ dáng đắc ý của Tào Mạnh Đức đứng trên đoàn thuyền kết dài trên mặt sông, quay ngang ngọn đáo ngâm bài:
Nguyệt minh tinh hi
Ô thước Nam phi
Nhiễu thọ tam táp
Vô chi khả y?
Dịch:
Đêm nay sao tỏ trăng thanh
Về Nam con quạ lao mình trên không
Lượn quanh cây lớn ba vòng
Tìm không chỗ đậu lại vùng bay đi.
Rồi hết điển này đến điển khác nối nhau đưa tôi vào sâu trong cõi mộng... Tôi ngồi ngủ say cho tới lúc người nhà lay dậy ăn cơm tối!
Cơm xong, tôi ngồi lại bàn giấy làm việc. Tôi nhất định ghi tất cả những gì đã đến cùng tôi. Nhưng không thể được, vì tôi không thích lối trường thiên. Tôi bèn chọn những nét rung cảm nhất, lọc những gì nên thơ nhất, dồn vào trong tám câu:
Từ Ô y hạng rủ rê sang
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
Thắc thỏm chăng ai quả ấn vàng?
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi
Tình lang mang gợi tứ lang mang.
Tôi rất lấy làm thích và lấy nhan đề là "Đêm nghe quạ kêu"
Năm 1941, nhân các bạn ở toà soạn tạp chí "Bạn Đường" mới xuất bản, gửi thư xin bài, tôi liền gửi đăng bài ấy.
Cách đó ít lâu, xem xét lại các bài thơ đã làm để in vào tập "Mùa Cổ Điển", tôi nhận thấy bài trên đây, câu luận chưa sướng.
Câu trạng do những cảnh cũ gợi điển.
Câu luận bị thời cuộc lúc bấy giờ ảnh hưởng: Lúc ấy quân Nhật đóng ở Việt Nam, nhiều người đi lính để lập công danh, nhiều bà vợ bị chiếc bóng. Do đó mà mượn tiếng sông Ngân, mượn đến tích Trương Hạo lượm được một viên đá tròn do con sơn thước hoá ra, đem đập vỡ thì thấy một quả ấn vàng có mấy chữ "Trung hiền hầu ấn", sau làm tướng được phong đến tước hầu.
Chưa lấy làm sướng nhưng sửa mãi chưa được.
Một đêm ngồi tựa lan can, trầm ngâm ngẫm nghĩ. Ngoài trời trăng sáng vằng vặc. Những cánh cửa sổ mở hé được ánh trăng chiếu vào trong như xuy bạc và thềm giếng mới rửa loang loáng sắc hoàng kim. Trí tôi và mắt tôi dồn cả vào sắc vàng trắng của cảnh vật và của câu thơ... Chợt một vật gì rơi vào lòng giếng tạo thành một tiếng "chũm" lạnh lùng. Tôi cảm xúc sửa ngay được câu thơ:
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng.
Sửa được câu này tôi khoái hơn khi làm xong tám câu trước. Nhưng ngâm đi ngâm lại, tôi thấy câu kết chưa nói đúng nỗi lòng. Một lần nữa, tôi phải lo sửa lại:
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang.
Như thế là ổn. Thích chí ngâm vang cả trời khuya.
Chế Lan Viên cũng cho câu sửa hay hơn hẳn nguyên tác nhưng còn chê đề bài chưa được nên thơ, mới thêm chữ "thu" vào thành "Đêm thu nghe quạ kêu".
(Trích từ Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến, tập 5, Nam Á tái bản, 1986, tr. 123-126)
Dĩ nhiên, không phải tứ thơ nào cũng được thai nghén một cách lâu lắc và vất vả như thế. Cũng không phải người nào, khi làm thơ, cũng lập ý một cách cầu kỳ với những điển cố xa xôi như thế. Nhưng kinh nghiệm trăn trở tìm tứ của Quách Tấn lại rất điển hình: dù nhanh hay chậm, dù bằng cách thức nào đi nữa, sự hình thành tứ thơ nào cũng phải đi qua ba giai đoạn:
Trước hết, phải có một cảnh vật, một sự kiện cụ thể có khả năng gây ấn tượng mạnh và sắc.
Thứ hai, ấn tượng ấy cứ âm vang mãi trong hồn người, tạo nên những niềm cảm xúc sâu đậm.
Và thứ ba, từ ấn tượng và cảm xúc ấy, nhà thơ phải vận dụng khả năng liên tưởng, tưởng tượng, tư duy để tìm ý, tìm chất liệu để khai triển thành một bài thơ hoàn chỉnh.
Chính ở đây, có sự khác biệt sâu sắc giữa Quách Tấn và các nhà thơ sau này. Quách Tấn cũng như người xưa thường tìm ý và chất liệu từ kho tàng điển cố, điển tích. Các nhà thơ sau này thường tìm ý và chất liệu ngay từ trong đời sống thực. Không nên tuyệt đối hoá sự phân biệt này. Khi Huy Cận viết "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" chắc chắn là Huy Cận nhớ đến hai câu cuối trong bài "Hoàng hạc lâu" của Thôi Hiệu. Khi Thâm Tâm viết "Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ. Chí lớn không về bàn tay không. Thì không bao giờ nói trở lại. Ba năm mẹ già cũng đừng mong" chắc chắn là Thâm Tâm nhớ đến hình ảnh Kinh Kha với câu thơ "Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn". Đọc nhiều bài thơ của Nguyễn Mạnh Trinh đăng báo gần đây, tôi chắc thế nào Nguyễn Mạnh Trinh cũng nhớ đến Nguyễn Bắc Sơn.
Vai trò của tứ trong thơ cực kỳ quan trọng. Nó giống như là nền móng, cột kèo trong một ngôi nhà. Nó giống như là xương xẩu trong một thân thể. Không có bài thơ nào lại không có tứ. Ngoại lệ: những bài thơ dở.
Hầu hết mọi nhà thơ đều đồng ý, trong công việc làm thơ, có loay hoay trăn trở thì chủ yếu là lay hoay trăn trở để tìm tứ. Có tứ, thời gian hoàn chỉnh bài thơ thường khá nhanh. Tứ, tự nó sẽ huy động những từ ngữ và chi tiết nó cần. Con hổ sẽ biết mời gọi "cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già" với những "lá gai cỏ sắc", những "bình mình cây xanh nắng gội", những "buổi chiều lênh láng máu sau rừng". Tràng giang sẽ biết mời gọi những "thuyền về nước lại", những "cồn nhỏ gió đìu hiu", những "bèo dạt về đâu hàng nối hàng", những "sóng gợn... buồn điệp điệp". Cũng vậy, hầu như đã có sẵn chung quanh ông đồ viết câu đối Tết thuê những hình ảnh quen thuộc: "mực tàu", "giấy đỏ", "người thuê viết", "nét chữ như phượng múa rồng bay", những "lá vàng rơi trên giấy", "ngoặt trời mưa bụi bay". Đây lả công việc của trí tưởng tượng. Đối với nhà thơ, lúc này, cần nhất là sự tỉnh táo để lựa chọn. Nguyên tắc thứ nhất là cần tập trung. Tất cả các chi tiết đều nhắm tới mục đích thể hiện và làm nổi bật tứ. Nhà thơ lớn là nhà chiến lược lớn: không có chiến thuật nào không để góp phần dẫn đến chiến thắng cuối cùng. Trong bài "Một chút xuân quê nhà", Luân Hoán chọn lựa chi tiết rất đắc. Tố cáo cuộc sống bần cùng, khốn khó dưới chế độ cộng sản, ông không cần dao to búa lớn. Chỉ cần một lá thư với những chi tiết nhỏ nhoi đến tội nghiệp:
... xin báo cùng anh tin vui thứ nhất
cây cúc đầu hè nở được một bông
... xin báo cùng anh cây cà chưa nhỏ
cũng đậu được vài trái đỏ xinh xinh
... xin báo cùng anh vồng khoai luống cải
nhờ bón phân người lá cũng rất xanh
... xin báo cùng anh sáng nay đầu ngõ
có con cu cườm đậu tuốt ngọn tre...
Chỉ có thế. Dù "thư viết cho anh đắn đo từng chữ, lựa lọc từng lời cho đỡ nặng cân", nhưng những lời kể trước sau vẫn cứ quanh quẩn hoài với những điều rất mực vu vơ, những niềm vui rất ư nhỏ bé. Không còn gì khác. Người đọc đủ thấy rưng rưng hiện lên trước mắt một cuộc đời lam lũ, tối tăm đến là thương. Nói là báo "tin vui" nhưng sự thực lại là vang lên tiếng khóc não nùng.
Nguyên tắc thứ hai là tiết kiệm. Chơi hoa, người ta phải biết tỉa cành và ngắt lá. Để hình hoa nổi rõ. Để sắc hoa thêm chói. Chi tiết càng rườm, tứ thơ càng mờ. Chi tiết càng chồng chất, tứ thơ càng vụn nát. Người xưa hay nói "vẽ mây nẩy trăng": đừng cho mây nhiều đến độ ánh trăng bị khuất.
Ai không công nhận Đoàn Văn Cừ là người rất giỏi trong việc dựng lại những khung cảnh đồng quê thuở xưa? Nhưng mấy người nhớ nổi thơ họ Đoàn? Người ta chỉ nhớ những bài thơ chấm phá ít nét của Nguyễn Bính. Trong cuộc tranh cãi văn chương, trí nhớ con người là trọng tài đáng tin cậy nhất.
Vai trò thứ hai của tứ là định hướng kết cấu bài thơ. Nói chung, một trong những yêu cầu lớn nhất đối với thơ là tính chất thống nhất. Cả bài thơ phải là một chỉnh thể toàn vẹn. Tứ sẽ là cơ sở của sự thống nhất và toàn vẹn ấy. Xuân Diệu kể bài thơ "Với bàn tay ấy thoạt đầu như sau:
Một tối bầu trời chẳng gợn mây
Cây tìm nghiêng bóng xuống hoa gầy
Hoa nghiêng xuống cỏ trong khi cỏ
Nghiêng xuống làn rêu: - một tối đầy.
Những lời huyền bí bốc lên trăng...
Xuân Diệu gửi bài thơ đăng báo. Thế Lữ, khi chọn đăng, đã tinh ý nhận ra nét đặc sắc của cái tứ mà nhà thơ trẻ là Xuân Diệu hồi ấy muốn dựng: cả trời đất giao hoà với nhau. Cây nghiêng xuống hoa, hoa nghiêng xuống cỏ, cỏ nghiêng xuống rêu. Nhưng Thế Lữ cũng phát hiện ra ngay một điểm yếu cơ bản trong bài thơ ấy: trong khi vạn vật song sóng gần kề hoà hợp với nhau, thì bầu trời, lạ chưa, bầu trời lại "chẳng gợn mây", nó lẻ loi, nó lạc lỏng đến chông chênh, nó bơ vơ đến tội nghiệp và lạ lùng. Thế Lữ chữa lại câu thơ là :
Một tối bầu trời đắm sắc mây
Cây tìm nghiêng xuống nhánh hoa gầy...
Như vậy thiên nhiên mới có sự giao hoà rõ rệt. Tứ thơ chặt. Bài thơ thành ra nhất quán. Cách chữa của Thế Lữ rất được Xuân Diệu đồng tình và tri ân.
(Công việc làm thơ, sđd, tr. 26)
Bài "Tống biệt hành" của Thâm Tâm là một bài thơ hay, rất hay, có lẽ là một trong những bài thơ hay nhất của thời 30-45. Bài thơ hình thành như hai lời đối thoại, không, đúng hơn, như hai lời độc thoại của hai người, một người ra đi và một người đưa tiễn. Người đưa tiễn buồn mênh mang. Nghe tiếng sóng xao trong lòng. Nghe hoàng hôn rơi trong mắt:
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng.
Không biết người ra đi trả lời hay chỉ là tự nhủ thầm cho một mình mình nghe:
Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí lớn không về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
Nghe có vẻ đầy hào khí, nhưng người đưa tiễn biết đó chỉ là giả vờ:
Ta biết ngươi buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị đều như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Ta biết ngươi buồn sáng hôm nay
Trời chưa là thu tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc sáng hôm nay.
Chị, em và người yêu lưu luyến thế ấy, chẳng lẽ lại đành tâm ra đi? Nhưng ly khách lại đi thật. Bóng đã xa, người đưa tiễn còn ngơ ngác đứng và hun hút nhìn:
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là giọt rượu
Em thà coi như hơi rượu say.
Trong "Thi Nhân Việt Nam Tiền Chiến", dựa theo nguyên bản bài thơ đăng trên "Tiểu thuyết thứ bảy", Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng phục hồi thêm bốn câu cuối:
Mây thu đầu núi, gió lên trăng
Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm
Ly khách ven trời nghe muốn khóc
Tiếng Đời xô động, tiếng hờn câm.
Đúng là giọng thơ Thâm Tâm. Nhưng tôi có cảm tưởng thêm bốn câu ấy vào, bài thơ không hay hơn. Hơn nữa, yếu xuống. Nó lạc điệu. Lạc về biện pháp: cả bài thơ được tác giả sử dụng biện pháp biểu hiện, đi sâu, xoáy sâu vào tâm tư. Đoạn cuối lại là những câu tả. Lạc điệu về giọng: bài thơ có hai nhân vật chính, người ra đi và người đưa tiễn, song cái thế của bài thơ là xuất phát từ vị trí người đưa tiễn. Đoạn cuối lại tập trung ở ly khách. Lạc điệu về tứ: trong mấy đoạn đầu, ly khách tuy ngậm ngùi nhưng nét chính vẫn là sự nghênh ngang, hào sảng. Thấp thoáng chút hùng khí đời xưa. Phảng phất chút hình ảnh Kinh Kha ngày trước. Rất đẹp. Biết là cường điệu mà vẫn thấy đẹp. Đoạn cuối xoá tan tất cả những hình ảnh và ấn tượng ấy: ly khách lại trở thành nhỏ nhoi, thảm thương "ven trời nghe muốn khóc". Tôi không biết Thâm Tâm hay Hoài Thanh đã cắt bỏ đoạn thơ ấy trong Thi Nhân Việt Nam. Dù là do ai, sự cắt bỏ ấy cũng rất mực tài tình.
Có người chia tứ thơ ra làm hai loại: tứ thơ thiên về tạo hình và tứ thơ thiên về dòng suy nghĩ liên tưởng.
Tứ thơ thiên về tạo hình là loại tứ được xây dựng với mục tiêu khắc họa một nhân vật hoặc một cảnh vật cụ thể qua đó nhà thơ gửi gấm cảm xúc và tư tưởng của mình. Lênh theo từng đường nét hội họa của thơ là những nhịp thở xôn xao từ trái tim người. Đây là loại tứ phổ biến và xuất hiện sớm nhất. Hầu hết những bài thơ nêu trên đều thuộc loại tứ này.
Hôm nay dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm...
Thơ Nguyễn Bính. Tựa "Không đề". Chỉ có bốn câu. Theo tôi, đây là một trong những bài thơ hay nhất, hoàn chỉnh nhất của Nguyễn Bính. Bài thơ có hai nhân vật, một người con trai và một người con gái. Người con trai ở dưới bến chờ xuôi đò. Người con gái ở trong nhà, qua vuông cửa sổ, thẩn thờ ngó ra. Nguyễn Bính nói họ "thương nhau". Chắc chỉ là thương thầm. Nên không có tiễn đưa. Nên người con gái mới băn khoăn tự hỏa "Anh đi đấy, anh về đâu?". Sáu chữ mà bời bời hai tâm sự ngổn ngang. "Anh đi đấy?" là câu hỏi thảng thốt. Đau nhói. "Anh về đâu?" là câu hỏi ngậm ngùi. Buồn tênh. Người con gái ngạc nhiên, rồi bàng hoàng, rồi ngẩn ngơ. Chiếc thuyền rời bến, từ từ đi xa. Hình ảnh người con trai mất hút. Chỉ còn chiếc thuyền. Rồi chiếc thuyền cũng khuất. Chỉ còn cánh buồm vươn cao, vươn cao, chới với, chập chờn, lung linh, xa xăm:
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm...
Người con gái vẫn còn đứng đó, bên thành cửa sổ, vời vợi nhìn theo. Câu thơ cắt thành ba nhịp, tưởng như mỗi nhịp ngắt là một làn sóng đột nhiên trào lên, che khuất cánh buồm. Bao nhiêu lần khuất rồi hiện. Lần cuối cùng, đã xa lơ xa lắc, người con gái chỉ còn nhìn thấy, mờ thật mờ, hình ảnh cánh buồm thấp thoáng, nhoà đi trong khói sóng bập bềnh. Không còn thấy màu sắc nữa: chữ "nâu" ở nhịp cuối biến mất.
Trần Huyền Trân, người khách muộn màng nhất trong "Thi Nhân Việt Nam", người bị Hoài Thanh Hoài Chân vừa đón tiếp vừa dè bĩu là "không xuất sắc lắm", lại là tác giả một bài thơ lục bát tuyệt hay: bài "Ngõ trúc" (sau này Trần Huyền Trân đổi tựa lại là "Thu").
Mưa rơi trắng lá rau tần
Thuyền ai bốc khói xa dần bến mưa
Người về khép lại song thưa
Để rêu ngõ trúc tương tư lá vàng.
Cặp lục bát đầu mở ra và khép lại bằng hai chữ "mưa". Cả không gian bị vây quanh dưới mưa. Mưa rơi trùng trùng, sướng mướt, lê thê. Mưa tung toé sủi bọt trắng xoá trên những chiếc lá rau tần yếu ớt. Mưa xoá nhoà hình ảnh chiếc thuyền khiến nó biến thành hư hư ảo ảo như một cụm khói. Tôi ngờ là chiếc thuyền vẫn đậu yên. Nhưng mưa mờ mắt nhìn, gây cảm tưởng chiếc thuyền mỗi lúc một xa dần, xa dần. Đường vắng. Ngõ vắng. Không có ai cả. Suốt bài thơ không hề thoáng thấy một nhân ảnh. "Thuyền ai" chỉ là cách nói chỉ chiếc thuyền xa lạ. "Người về" cũng chỉ là cách nói chỉ một ý niệm hết sức bâng quơ. Trên các lối ngõ ven sông chỉ có những khóm trúc đứng buồn thiu dưới mưa. Và rêu xanh sũng nước. Và lá vàng rụng rơi.
Khó mà bình câu cuối. Hiếm khi nào thơ lục bát lại hàm súc đến vậy. Một cái gì vắng, thật vắng. Lặng, thật lặng. Mà cũng hiu hắt quá chừng. Tưởng như từ thiên cổ, trên ngõ trúc ấy, đã không có người vãng lai. Tưởng như đến nghìn năm sau, trên ngõ trúc ấy, vẫn phong hoài niềm hiu quạnh. Chỉ có rêu nhớ lá.
Loại thiên về dòng suy nghĩ liên tưởng lại khác. Ở đây có thể hình tượng, đôi khi dày đặc hình tượng, tuy nhiên cái mạch chính để dẫn dắt tứ thơ lại là một cảm nghĩ nào đó. Hình tượng có thể rời rạc với nhau nhưng lại thống nhất trong một chủ đề chung. Nhà thơ có thể miên man liên tưởng đến những vấn đề khác, xa hay gần. Kết cấu loại tứ này, do đó thường sinh động và đa dạng. Bài thơ hình thành như một thứ giao hưởng giữa trái tim và đầu óc. Chất thơ và chất suy tưởng đan quyện lại với nhau. Từ hiện tại, nhà thơ có thể quay về quá khứ hay đến tương lai. Từ một cảnh vật cụ thể, nhà thơ mông lung nghĩ ngợi đến những chuyện xa vời. Có thể dẫn bài "Đất nước" làm thí dụ. Bài thơ này được sáng tác từ năm 1948, cùng thời gian với bài Tây Tiến" của Quang Dũng, thời toàn dân chống Pháp, lúc cộng sản chưa dùng những hình thức tàn bạo nghiệt ngã siết văn thơ vào khuôn khổ chật chội của một cái loa tuyên truyền rỉ sét.
Tứ thơ hình thành từ một thời gian và một không gian cụ thể:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.
Sau đó tứ thơ chuyển về quá khứ:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác heo may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Rồi lại quay về hiện tại:
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng đây vui giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Rừng thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.
Giọng bâng khuâng biến thành giọng hùng tráng:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.
Đang suy nghĩ về tổ quốc, nhà thơ chợt nhớ đến những kỷ niệm riêng tư:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Đoạn kế tiếp lại pha rất nhiều vẻ chính luận:
Từ những năm đau thương chiến đấu
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Bỗng bật lên những tiếng căm hờn...
Cứ thế, theo dòng liên tưởng của mình, nhà thơ dẫn dắt người đọc đi từ chuyện này qua chuyện kia, từ vấn đề này qua vấn đề khác, từ quá khứ đến hiện tại, đến tương lai, từ việc riêng đến việc chung, từ giọng tâm tình đến giọng suy tưởng nhưng trước sau vẫn bám vào một cái trục duy nhất: những suy nghĩ về đất nước.
Tôi có cảm tưởng các nhà thơ ở miền Nam trước đây hay ở hải ngoại hiện nay ít khai thác loại cấu tứ này. Tiếc. Có thật nhiều cơ hội để tiếp xúc với những luồng tư tưởng lớn trên thế giới, đầu óc được hoàn toàn tự do để suy nghĩ, cuộc sống nội tâm vô cùng phong phú, đó không phải là những điều kiện cần và đủ cho loại tứ này nở hoa?
Bài thơ "Lệ đá xanh" của Thanh Tâm Tuyền giàu chất suy tư nhưng do thiếu những liên tưởng bất ngờ nên tứ thơ ít biến hoá, thiếu linh động, giống như một nhành hoa thẳng đuột, khẳng khiu.
Bài thơ chia làm ba phần như một thứ... tam đoạn luận cứng nhắc. Phần đầu trình bày những ấn tượng chung của tác giả về cuộc đời:
Tôi biết những người khóc lẻ loi
Không nguôi một phút
Những người khóc lệ không rơi ngoài tim mình
Em biết không
Lệ là những viên đá xanh
Tim rủ rượi
Mỗi người trong cuộc đời như một ốc đảo trong địa ngục. Họ khóc triền miên. Tiếng khóc giữa cô đơn không thể vỡ oà. Nó nén lại. Thành một nghẹn ngào. Những giọt nước mắt âm thầm và không tan trên khoé mắt ấy càng khiến con người thêm u uất, ngỡ chúng như những "viên đá xanh" đè lên trái tim, gây biết bao đau đớn, ngột ngạt, tức tối. Đây là đoạn thơ hay nhất trong bài. Ngôn ngữ mạnh và sắc. Nhạc điệu mới và hay.
Đoạn thứ hai, tác giả muốn phá tan cái ấn tượng ảm đạm ấy bằng cách:
Đôi khi anh muốn tin
ngoài đời chỉ có trời sao là đáng kể
mà bên những vì sao lấp lánh đôi mắt em
đến ngày cuối
đôi khi anh muốn tin
ngoài đời thơm phức những trái cây của Thượng Đế
mà bên những trái cây ngọt ngào đôi môi em
nguồn sữa mật khởi đầu
đôi khi anh muốn tin
ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em
vòng ân ái
đôi khi anh muốn tin.
Nhiều người phần nàn thơ Thanh Tâm Tuyền khó hiểu. Thật ra. Không đến nỗi. Tất cả "bí mật" của thơ ông đều nằm trong hai yếu tố: đảo ngữ và dấu biệt liên từ. Đã quen với thơ ông, người ta sẽ thấy phần lớn đều sáng sủa đến độ... khó mà bình giảng thêm. Chẳng hạn, khổ đầu của đoạn thơ trên sẽ là "đôi khi anh muốn tin, ngoài đời chỉ có trời sao là đáng kể, mà bên những vì sao (ấy) (là) đôi mắt em (sẽ) lấp lánh đến ngày cuối".
Đáng để ý nhất trong đoạn thơ trên là mệnh đề láy đi láy lại nhiều lần "đôi khi anh muốn tin". Niềm tin ở đây thật ngượng ngập và thật mong manh. Dễ hiểu tại sao, cuối đoạn, sau khi viết "đôi khi anh muốn tin", tác giả dừng lại đột ngột, hết sức lửng lơ. Bởi lúc ấy, ngay lúc ấy, cuộc đời bỗng dội lên thực tế não nề:
ôi những người khóc lẻ loi
đau đớn lệ là những viên đá xanh
tim rủ rượi.
Giống hệt đoạn đầu, chỉ thêm một hình dung từ và một tán thán cho hơi thơ có âm hưởng hơn.
"Lệ đá xanh" chưa phải là bài thơ hay nhất của Thanh Tâm Tuyền. Tuy nhiên đây là bài thơ mở ra khía cạnh ít người ngờ ở tâm hồn nhà thơ thỉnh thoảng có những phát ngôn ra vẻ nhẫn tâm này: lòng nhân hậu. Rất yêu cuộc đời đến không nỡ kiếm riêng một niềm vui.
Đứng về phương diện xây dựng tứ thơ, theo tôi, có ba cách:
Thứ nhất, cấu tứ theo lối tăng tiến.
Thuộc loại này, những bài thơ có tứ tương đối định hình sớm, ngay từ những câu đầu và sau đó, ở những câu kế tiếp cho đến lúc chấm dứt, tác giả chỉ làm nhiệm vụ khai triển thêm, đào sâu thêm. Cách cấu tứ này rất phổ biến. Nó thích hợp với những trạng thái tâm lý ngưng đọng ở một nét nào đó rõ ràng. Nó không gây bất ngờ song có khả năng dẫn người đọc mỗi lúc một đi sâu, đi xa, đến tận cùng một nỗi niềm, một tâm trạng.
Chắc ít người nhớ bài "Về đây" của Cung Trầm Tưởng:
Về đây tôi lại gặp tôi
lang thang lối cũ trước đồi sau mương
ngô đồng lả ngọn thuần lương
trời cao không đỉnh, mến thương không bờ
cố tri khóm hạnh bây giờ
vẫn bừng hoa nở đứng chờ lối xưa
vẫn hanh vàng nắng tỏa vừa
hiu hiu tùng rũ bóng chưa hao gầy
về đây tôi lại về đây
non lên thắm nhớ, chiều đầy khoan dung
chân vui lối rộn không cùng
gần xa trời mở vòng cung thâu vào
chân phương lòng thấy nao nao
với muôn thương mến lên cao hôn trời.
Thơ tả một cuộc trở về quê quán cũ mà được như vậy kể cũng ít. Giọng thơ nhẹ nhàng. Tình thơ đôn hậu. Ăm ắp niềm vui. Vui vì gặp lại không gian quen thân cũ. Vui vì gặp lại chính mình thuở ấu thơ. Nỗi vui lênh tràn ra trời đất. Mấy câu cuối, hình tượng đẹp và ý hay.
Bài thơ "Thơ bệnh" của Viên Linh cũng theo lối cấu tứ tăng tiến.
Trong tâm trạng của nhà thơ lúc bệnh, thoạt đầu hình ảnh của mình là một sự dừng lại, dừng lại để thấy bao nhiêu nhiệt tâm một đời đổ ào ra khơi xa, bao nhiêu mơ ước còn chôn chặc u uẩn trong lòng:
Lúc này hình đất tượng cây
Đời ta như nước chảy đầy bãi xa
Chiều rồi lòng mở không ra
Mênh mông trong ngực mùa hoa hải tần
Dừng lại rồi gảy đổ giữa trùng trùng sóng dập:
Khói um kín mộng thanh tân
Hình ta sụp đổ mấy lần trong gương
Bên kia bóng vội lên đường
Đằng sau mặt thủy trùng dương sóng dồi.
Dừng lại, sụp đố rồi lún xuống. Lún đến nửa đời người. Trong vũng sầu mênh mông:
Nước xa cuồn cuộn ra khơi
Sâu trong tâm thể có đôi giọt gần
Bãi sầu trời ngập đến chân
Dương gian ta lún nửa thân còn gì.
Lún theo thời gian và lún theo cơn bệnh. Đến một lúc nào ngỡ đã tiếp cận với bờ bên kia cõi sống:
Chiều nay mưa dưới âm ty
Ta nghe kiếp trước thầm thì hỏi han.
Khi xây dựng tứ thơ theo lối tăng tiến, cần chú ý một điều: càng về sau, cảm xúc càng phải mạnh hơn, chặt hơn, đậm hơn. Thì mới gây được ấn tượng sâu. Nếu không, cái thế của đoạn sau dễ thành hụt hẫng. Hoá thừa.
Lối kết cấu thứ hai : gợi mở.
Thuộc loại này, những bài thơ có tứ chính được giấu kín đến những câu cuối cùng. Bài "Ông đồ" của Vũ Đình Liên là thí dụ. Suốt 18 câu đầu, tác giả chỉ tả hình ảnh ông đồ cụ thể xuyên suốt quãng thời gian dài, từ quá khứ đến hiện tại, từ thuở vàng son đến lúc bị lãng quên. Đến hai câu cuối, ngỡ tác giả sẽ buông lời cảm khái trước một ông đồ hẩm hiu. Nhưng không. Vũ Đình Liên, từ một ông đồ cụ thể, đã liên tưởng đến cái gì rộng hơn, mênh mông hơn:
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Tứ thơ đột ngột mở rộng. Chợt man mác buồn nhớ đến những giọt lệ của Trần Tử Ngang ngày nào.
Bài "Mất ô" của Tú Xương cũng có lối kết cấu tương tự:
Đêm qua anh đến chơi đây
Giày dôn anh diện, ô tây anh cầm
Rạng ngày sang trống canh năm
Anh dậy em hãy còn nằm trơ trơ
Hỏi ô, ô mất bao giờ
Hỏi em, em cứ ỡm ờ không thưa...
Đến đây, bài thơ không có gì đặc sắc. Chỉ là lời tường thuật pha chút u-mua nhẹ nhàng.
Thế nhưng, còn hai câu cuối nữa:
Chỉ e rày gió mai mưa
Lấy chi đi sớm về trưa với tình.
Bài thơ, nói như Nguyễn Tuân, tự nhiên "nổi gió" hẳn lên. Không còn là văn xuôi trần trụi. Đã là thơ. Từ cái việc cỏn con là mất ô, Tú Xương mở ra bát ngát một tấm lòng khao khát tình yêu vô hạn.
Luân Hoán, trong Hơi Thở Việt Nam, thường sử dụng lối kết cấu tăng tiến. Gần đây, trong nhiều bài thơ đăng báo, tôi có cảm tưởng ông nghiêng về lối cấu tứ gợi mở hơn. Ông đang học bài học của Kim Trọng: từ một gót giày in trong rêu xanh, mở ra những tâm tình người man mác. Ông đang học lại bài học của Quách Tấn: từ một "vỏ sò khô", làm thức dậy những tiếng "sóng trùng dương" vọng vang trên những "muôn xa bờ bến cũ". Thơ ông, nhờ đó, có âm hưởng ngân vang hơn, sâu lắng hơn, nhói lòng hơn. Bài thơ "Bạc tóc" đăng trên Văn Học số xuân Mậu Thìn là bài thơ cảm động. Từ mấy cọng tóc bạc trên đầu, Luân Hoán mở ra một tấm lòng đang phôi pha theo ngày tháng lưu cư khắc khoải:
Không đâu em, chúng mình là đá trắng
Đang xây dần phần mộ của riêng ta
Hoa ngập nước lâu ngày đành phải rã
Hồn ngấm sầu lâu quá phải phôi pha.
Cách cấu tứ gợi mở thường được người xưa sử dụng. Nó bất ngờ. Có cảm giác đang ở trong một không gian chật, hẹp, khép kín, mọi cửa ngõ đều bằng bặt đóng im, rồi bỗng dưng, thật đột ngột, mọi cánh cửa đều mở toang. Thấy lồng lộng bên ngoài một sắc trời xanh, xanh biếc.
Có điều, theo lối cấu tứ này, bài thơ khó dài. Dài, thời gian chuẩn bị tâm thế lâu dễ sinh ngột, nản. Mà nói thế, chứ ai lại mong làm thơ dài?
Cách cấu tứ thứ ba: tương phản
Trong bài "Đám tang Nguyễn Duy Diễn", Nguyên Sa viết:
Diễn đã chết, Diễn đã chết
Chúng tôi nhảy múa hò reo
Như những người da đen
Thế là nó thoát, thế là nó thoát!
Thế là nó thoát, đúng rồi, thế là nó thoát
Thoát khỏi ngủ, khỏi ăn, khỏi thở
Khỏi đêm, khỏi ngày, khỏi tháng, khỏi năm
Khỏi chờ, khỏi đợi
Khỏi hy vọng ban mai, buồn thiu buổi tối
Thế là nó thoát, thế là nó thoát
Khỏi phải đi, khỏi phải đứng, khỏi phải ngồi
Khỏi bốn mươi giờ dạy học mỗi tuần
Khỏi viết ban đêm, khỏi đến nhà in buổi sáng
------------------------------------------
Thế là nó thoát, thế là nó thoát
Cuồng lưu dằn vặt đã trôi đi
Khỏi phải nghĩ, khỏi lo âu, sợ hãi
Sự thực có phải bao giờ cũng tối như đêm
Tình ái có phải suốt đời là canh bạc lận
Lịch sử, rút lại, có phải là thằng mù sờ soạng
Ném tất cả rồi, ném xuống biển sâu
Này hai vai nói nhẹ:
Chiếc lưới đã mở rồi
Thế là nó thoát, anh em ơi.
Thử so sánh với bài "Khóc Dương Khuê" của Nguyễn Khuyến. Chưa tới một thế kỷ mà cách nghĩ, cách viết khác nhau biết mấy. Bài thơ của Nguyên Sa nung nấu đầy những uất ức vả cay đắng. Nghe tin bạn chết, Nguyên Sa không "bàng hoàng" như người xưa. Ông và những kẻ còn sống "nhảy múa hò reo". Thật chăng? Hãy đọc lại mấy câu cuối. Hãy nghe lời "hai vai nói nhẹ" theo từng nhịp nấc. Cảm giác phẩn nộ đối với cuộc sống, đến đây thành một sự nghẹn ngào.
Bài thơ không có một câu một chữ nào tiếc thương người khuất nhưng cả tứ thơ lại toát lên niềm đau đớn vô tận.
Bài "Phiêu bồng" của Cao Tần cũng có lối cấu tứ tương phản:
Cho ta làm lại cuộc đời
Thì ta lại vẫn ra khơi như thường
Vật vờ vượt sóng trùng dương
Kiếm đời di tản nghìn cơn nhục nhằn
Mai này tính sổ trăm năm
May chăng lời được cái thân phiêu bồng.
Nhà thơ ca ngợi sự " phiêu bồng" và thích thú "đời di tản" chăng? Không. Ông kinh sợ nó. Hai chữ "phiêu bồng" nghe có vẻ lãng mạng thật. Nhưng đời người sẽ có ý nghĩa gì khi vì nó, phải chịu đựng "nghìn cơn nhục nhằn" để đến lúc nhắm mắt, nhìn lại, chỉ thấy toàn những dấu chân lênh đênh. Cần chú ý hai chữ "may chăng" ở câu cuối. Cái điều duy nhất có thể gọi được là "lời" của người lưu vong, coi bộ cũng phiêu hốt, mong manh lắm.
Cả hai bài thơ mới dẫn của Nguyên Sa và của Cao Tần đều cấu tứ theo lối tương phản. Cái tứ nằm ở mặt trái của chữ và của ý. Loại tứ này hiếm xuất hiện và còn để ngõ nhiều khả năng thật lớn.
Ở trên, tôi có trích lại hai nhận định quan trọng của Xuân Diệu: một, làm thơ, trước hết là tìm tứ; hai, trong việc làm thơ, khó nhất là tìm tứ.
Đưa ra hai nhận định ấy, Xuân Diệu xuất phát từ góc độ sáng tác thơ.
Đứng ở phạm vì một bài thơ cụ thể, người ta cũng có thể nêu ra một số nhận định cơ bản khác:
Một, cốt lõi của bài thơ là cái tứ.
Hai, mỗi bài thơ chỉ có một tứ duy nhất. Ý, có thể trùng trùng. Hình tượng, có thể điệp điệp. Nhưng tứ phải là một. Chỉ có một. Hơn, bài thơ bị nát thành hai, ba phần rời rạc, lạ lẫm bên nhau.
Ba, yếu tố quan trọng nhất quyết định giá trị một bài thơ, quyết định sức sống của bài thơ chính là cái tứ.
Nói đến thơ văn đời Lý, đời Trần, không kể bài "Thiên đô chiếu" của Lý Công Uẩn, bài "Nam quốc sơn Hà, Nam đế cư" của Lý Thường Kiệt, bài "Tụng giá hoàn kinh sư" của Trần Quang Khải, và bài "Hịch tướng sĩ" của Trần Hưng Đạo vốn được nhắc nhở nhiều vì lý do chính trị hơn vì lý do thuần tuý văn học, nói chung, có mấy bài thơ hay được người ta dẫn và bình nhất: bài "Thị đệ tử" của Vạn Hạnh, bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, bài "Ngôn hoài " của Không Lộ thuộc đời Lý và bài "Cảm hoài" của Đặng Dung ở cuối đời Trần.
Những bài thơ được nhắc nhở nhiều ấy hay hơn hẳn những bài thơ khác ? Chưa chắc. Đứng về phương diện ngôn ngữ cũng như hình tượng, những bài thơ của Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Huyền Quang, Trần Nguyên Đán... có lẽ vững hơn nhiều. Vậy ra lịch sử nhầm lẫn hay bất công chăng? Cũng không phải. Sự thực đơn giản lắm: người ta nhớ thơ trước hết là vì cái tứ.
Bất cứ cái tứ nào diễn tả được tâm trạng phổ biến nhất của con người ở những cảnh huống họ hay gặp nhất, tứ thơ ấy sẽ sống mãi.
Nghĩ lại coi, câu thơ "Anh đi đường anh, tôi đi đường tôi" của Thế Lữ, hay câu "Yêu là chết ở trong lòng một ít" của Xuân Diệu, hay câu "Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ" của Vũ Hoàng Chương thời tiền chiến... là hay lắm sao? Thật ra, đó là những câu thơ cũng bình thường thôi. Nhưng, chắc chắn, bao lâu ở đời còn có những người chia tay nhau, những người bị lỡ làng trong tình yêu, những người bất đắc chí trong cuộc sống, bấy lâu mấy câu thơ trên còn vọng vang mãi. Ai dám chắc, trong đời mình, chưa bao giờ ngâm lên nho nhỏ mấy câu thơ ấy để làm nguôi khuây những niềm u uẩn.
Kết luận: tứ thơ cần phải độc đáo, cần phải cô sắc, nhưng trước hết, cần phải chân thực. Thời gian chỉ giữ gìn những tứ thơ chiếm lĩnh một không gian bao la và sâu sắc trong lòng mọi người.
Nguyễn Hưng Quốc
Tìm hiểu NGHỆ THUẬT THƠ VIỆT NAM
Khảo luận của Nguyễn Hưng Quốc
Quê Mẹ ấn hành
Paris 1988
Tuesday, July 16, 2019
LỜI KHẤN NGUYỆN CỦA MỘT NGƯỜI VỢ
Ý Ngôn
Lúc mẹ tôi mất cách đây hai năm, anh em tôi có đến chùa xin làm lễ "cúng thất" cho bà. Tổng cộng bảy cái thất, làm lễ cúng vào ngày chúa nhật hàng tuần. Tại đây tôi quen biết chị Lành.
Ngày cuối tuần hay ngày rằm hoặc ngày mồng một đầu tháng (âm lịch), chị Lành đều đến chùa làm công quả. Chị đứng phụ bếp hoặc làm công việc lặt vặt trong bếp, nấu đồ chay để đãi khách viếng chùa. Thỉnh thoảng chồng chị và thằng con trai của chị cũng đến phụ dọn dẹp, bưng bàn ghế, rửa chén hoặc hốt rác đổ rác, trong chùa thì rất nhiều việc làm hoài không hết.
Hỏi ra mới biết trước đây chị ở cùng quê với tôi, nhà chị ở gần "cầu Đốt" gần trường trung học, còn nhà tôi thì ở xóm "cầu Đình", cũng gần gần đó.
Một hôm đến chùa tôi thấy chị xuống tóc cạo đầu trọc, tôi không dám hỏi, chị tự kể câu chuyện đời chị cho tôi nghe.
... Hồi trước năm 75 ba chị làm cảnh sát, chỉ cấp bậc nhỏ nên không phải đi tù học tập cải tạo. Nhà chị có năm anh em, chị có một người anh và ba đứa em. Má chị ở nhà nấu cơm làm công chuyện nhà, cả nhà chỉ trông nhờ vào đồng lương của ba chị. Năm đó chị mới mười hai tuổi, thình lình ba chị bị mất việc, nhà khổ lắm, bửa đói bửa no. Ba má chị ai mướn gì cũng làm, làm suốt ngày chỉ đủ tiền mua gạo. Lúc khổ quá có mấy người hàng xóm rủ vô chùa làm công quả ăn cơm chùa. Mấy anh em chị thường vô chùa làm công chuyện, làm lặt vặt kiếm cơm chay ăn lấy no sống qua ngày.
Nhiều bửa ở trong chùa chị cứ lạy Phật, miệng thì đọc kinh mà đầu óc thì cứ cầu xin Đức Phật cứu khổ cứu nạn, xin giúp gia đình con.
Ba chị đau bao tử kinh niên mà không có tiền uống thuốc. Lúc nhìn thấy ông tiều tụy chị buồn lắm, chị không biết làm sao để có tiền, chị vái với Đức Phật cho chị trúng số. Em biết không, tờ giấy số có năm ngàn, chị phải để dành lâu lắm mới đủ tiền mua, thiệt lúc khổ, năm ngàn thấy cũng lớn. Mua xong, chị vô chùa lạy Phật cầu xin cho con được trúng số. Lạy tới sói đầu mà cũng chưa trúng, lô an ủi cũng chẳng thấy.
Chị đi học tới lớp mười thì nghỉ, lúc đó mười sáu tuổi rồi, đi làm mướn kiếm tiền phụ cha mẹ. Mà đi học thì cũng chẳng để làm gì, rồi thì cũng nhào ra đi làm mướn mà thôi. Chị cũng không đến nỗi xấu, phải không em? Chị được cái dáng cao ráo không mập không ốm. Chỉ có nước da hơi ngâm đen, với lại đôi mắt một mí. Trong nhà chị ai cũng mắt hai mí, chỉ mình chị mắt một mí. Hồi xưa, chị cứ luôn ao ước, khi nào có tiền mình sẽ đi cắt mắt. Chừng nói cho chồng chị nghe, ổng cản, thôi, mắt bà vậy đẹp rồi, bày đặt đi cắt cho nó đui không thấy đường thì khổ.
Chị chưa từng có bạn trai, lúc mới lớn cũng có thương một vài người, chút chút thôi, nhưng chị không dám nói. Nghĩ mình nghèo quá đâu ai thèm, lúc đó cũng muốn có chồng như người ta, nhưng ngày qua tháng lại chẳng ai ngõ lời. Qua ba mươi tuổi thì chị nghĩ chắc số chị không có chồng, cũng buồn một chút thôi, lúc rãnh rỗi thường vô chùa làm công chuyện, lấy đó làm niềm vui, có lúc chị nghĩ về già mà có một thân một mình chắc chị vô chùa ở.
Có một vài người quen, thỉnh thoảng kêu chị tới giúp việc nhà, dọn dẹp nấu cơm nấu nước. Ông xã của chị bây giờ, cái năm mà vợ ổng chết ổng mang tro cốt vợ ổng về bển chôn. Có người giới thiệu chị tới lo cơm nước cho ổng, lúc đó chị ba mươi sáu tuổi rồi, ổng lớn hơn chị một giáp, ổng bốn mươi tám tuổi có hai đứa con. Ổng về Mỹ một thời gian rồi trở qua Việt Nam hỏi cưới chị. Chị thiệt là bất ngờ, thấy ổng cũng hiền lành tử tế nên ưng đại, chớ thiệt ra hồi lúc đó cũng chưa biết thương yêu gì đâu.
Chị qua Mỹ được mấy tháng vừa biết lái xe là vô hãng điện tử làm, làm từ đó tới giờ. Chị ở với ổng được một năm thì có bầu đẻ được thằng con trai, lúc đó hai đứa con riêng ổng còn nhỏ, đứa mười bốn đứa mười hai. Tụi nó ở chung với chị cũng thuận thảo, không có cảnh mẹ ghẻ con chồng. Bữa nay tụi nó lớn hết rồi, đứa con gái lớn có chồng ra ở riêng, thằng con trai đi làm xa, lâu lâu về nhà thăm ông già. Thằng con trai chị bữa nay hai mươi tuổi rồi, em biết đó, nó cũng ngoan, lâu lâu theo chị vô chùa giúp việc lặt vặt.
Lúc con chị còn nhỏ, lúc đó nó chừng mười tuổi, chồng chị bỗng nhiên đổ bệnh nặng. Người mệt mỏi hốc hác, sụt cả mười mấy pounds, ai thấy cũng quở. Đi bác sĩ gia đình cũng không tìm ra bệnh gì, tới chừng người ổng bị sưng vù, bụng trương bự, da vàng mới đi vô nhà thương Bascom cấp cứu. Ngồi ở phòng đợi ở nhà thương chị bỗng thấy buồn vô hạn, nhớ những ngày mới biết ổng thấy ổng sao mà hiền lành tử tế. Chị ở với ổng không bao giờ to tiếng chửi bới. Ổng không là cà quán xá nhậu nhẹt, chỉ có cái hút thuốc là không bỏ được, nhưng từ hôm bịnh ổng bỏ luôn rồi.
Ổng thều thào cầm tay chị nói ổng mà có bề gì thì chị cũng ráng nuôi mấy đứa con cho nên người. Chị bỗng khóc ồ ồ như mưa. Con chị lúc đó mới mười tuổi, chị sợ ổng chết thì tội nghiệp nó lắm mà chị cũng khổ lắm. Chị nguyện cầu với Đức Phật cùng Phật Bà Quan Âm cùng chư vị Bồ Tát giúp cho chồng chị sống thêm được mười năm nữa, đợi khi đứa con chị nó lớn một chút.
Lúc đó có ông bác sĩ trẻ người Việt đi ngang, thấy chị khóc quá đứng lại an ủi. Chị cầm tay ổng nói bác sĩ ơi làm ơn cứu chồng tôi. Bác sĩ ơi làm ơn cứu chồng tôi!
Thiệt là may mắn, ông bác sĩ này đi nói với văn phòng chi đó, lát sau họ cho trực thăng chở chồng chị lên bệnh viện Stanford chữa trị. Chồng chị bị chai túi mật, nó bị bể dịch tràn tùm lum. Bác sĩ cắt bỏ túi mật cứu sống ông xã chị kịp thời...
Chị Lành nhìn tôi cưỡi mĩm, mới đó mà đã mười năm. Tôi hỏi vậy chớ từ ngày đó tới giờ sức khỏe ảnh ra sao. Chị nói cũng tốt, ảnh giờ chỉ uống thuốc cholesterol thôi chớ không bị tiểu đường, tim mạch cũng không có vấn đề.
Rồi không đợi tôi hỏi, chị nói luôn cái lý do chị xuống tóc lần này.
"Trước kia chị sợ ảnh chết bất thình lình, chị cầu nguyện cho ảnh sống thêm được mười năm nữa. Mặc dầu sức khỏe ảnh giờ cũng chẳng có vấn đề gì, nhưng chị nghĩ nếu mà ảnh ra đi lúc này thì chị buồn lắm. Nghĩ tới đó sao tự nhiên thấy thương ảnh quá. Lúc nào ảnh cũng lo cho gia đình, ảnh thấy chị đi làm về mệt là một tay phụ chị làm bếp, cầu tiêu nhà tắm một tay ảnh chùi rửa. Chị rất thích ăn mít, trong nhà không ai ăn chỉ mình chị ăn, vậy mà cả mô mua một lần một trái bự, ngồi lột cả tiếng đồng hồ chưa xong, ảnh thấy vậy nhào vô giúp không một lời cằn nhằn. Phía sau vườn có trồng một cây chanh, một cây plum và một cây hồng dòn. Thằng con chị với chồng chị lâu lâu ăn một trái. Em biết mà, cây trái ở đây sai lắm, nhiều ăn không hết. Chị tiếc của bỏ uổng, hái đem vô hãng cho mấy người làm chung. Chị leo trèo ảnh sợ chị té, ảnh ra hái giúp. Tới chừng ảnh trèo cao, chị lại sợ ảnh té thì báo đời, biểu thằng con phụ ba nó mé bớt nhánh, trái chín trên cao hái không được thì để chim ăn hoặc ngó chơi chớ không dám leo trèo nữa.
Chị sống với ảnh hơn hai mươi năm chưa hề có tiếng cãi lộn. Trên đời này chưa ai thương chị bằng ảnh. Hồi lúc nhỏ chị thường than thân trách phận sao cuộc đời mình khổ quá. Giờ có gia đình êm ấm chị không mong gì nữa. Mấy anh em chị cũng khá, nhà cửa đàng hoàng. Thằng con trai của anh chị học rất giỏi, được học bổng du học bên Úc. Ai cũng nói nhà chị được hưởng phước nhờ mấy anh em chị hay vô chùa làm công quả".
Có người gọi chị Lành nhờ giúp gì đó. Nhìn chị bước đi tôi bỗng thấy có cảm tình với chị, một người vợ xuống tóc vô chùa cầu xin cho chồng mình sống thêm được mười năm nữa. Tôi cũng giống như chị, tôi cũng thường cầu xin ơn trên đủ thứ, khi thì tôi cầu cho được mạnh khỏe đừng có bệnh chi hết, khi tôi cầu xin cho được có tình yêu, đừng bao giờ khổ vì tình. Và nhiều lần, rất nhiều lần tôi cầu được trúng số độc đắc. (Nhưng cũng giống như chị thôi, lạy sói đầu cũng chưa thấy trúng được lô an ủi). Tôi đứng lên định bước ra về tự dưng có ý nghĩ, bước đến bàn thờ Phật, cầu xin ơn trên phù hộ cho chồng chị Lành sống thêm (ít nhất) mười năm nữa.
Friday, July 12, 2019
SANH NGHỀ
Tam Thanh
Vào giữa tháng sáu, sau mấy cơn mưa sa bão táp ở miền Bắc Texas, thời tiết thủ đô Austin còn bị ảnh hưởng dây dớt, mây xám nặng chình chịch đầy trời, khí hậu ẩm ướt, dính nhớp, như nồm ở Việt Nam. Cây cối đứng lặng dưới ánh sáng nhờ nhợ.
Cảnh vật hiện lên im lìm dưới mắt bác sĩ Nguyễn, qua khung cửa sổ có lưới sắt, ở lầu tư Khu Nội Thương Viện Tâm Trí Austin, những mái nhà bằng phẳng một tầng ẩn hiện giữa những lùm cây xanh rì, rậm rạp. Xa xa cột lớn bằng nhôm đã han rỉ, ở khu đốt rác, uể oải nhả vài sợi khói rách nát, một con bồ câu hoang lông xám bay từ cửa sổ lầu ba lên nóc nhà.
Nguyễn đứng im, tay cầm ly nước trà còn bốc khói mới đun ở microwave, trong văn phòng, sách vở báo chí y khoa bừa bộn trên bàn, trên ghế, dưới sàn. Dọn sạch gọn được ít bữa rồi đâu lại vào đó, vứt các tài liệu y khoa đi thì tiếc mà giữ lại thì không có thì giờ đọc! Nguyễn đã bị Tiểu ban an ninh phòng hỏa nhắc nhở rồi, nhưng chẳng khá hơn. Sau, Nguyễn kêu ban vệ sinh để trong phòng một thùng rác lớn, ai hỏi bảo đang dọn dẹp.
Từ khi nhận chức Trưởng khu y khoa này, gần sáu năm nay, Nguyễn có thói quen, Đông cũng như Hè, tới sớm hơn mười lăm phút trước tám giờ, uống ngụm trà trước khi làm việc. Khoảnh khắc đó là thời gian thơ thới, nhẹ nhàng, êm ả, trầm lặng, thoải mái nhất trong hoạt động hằng ngày, trước khi lao vào cả chuyên môn lẫn hành chánh phức tạp, rắc rối.
Hôm nay, sáng thứ hai, lòng Nguyễn không bình thản, êm lặng, ngược lại thấy bứt rứt, khó chịu, bực bội. Thường thường Nguyễn ít bận tâm tới những chuyện thị phi, chuyện gì cũng bỏ qua, phá chấp, không lý tới những lời độc địa, rắn rít, thất đức, dựng đứng liên quan tới đời sống cá nhân của người này, người nọ... Nhưng kỳ này Nguyễn thấy buồn, chán nản vô tả cho thế thái nhân tình, cho vợ một người bạn ăn không ngồi rồi đi phao tin bẩn thỉu, đê tiện về gia đình ông. Nguyễn cố làm ngơ nhưng trí óc vẫn bị ám ảnh, tuy bề ngoài cố bình tĩnh khuyên vợ bỏ ngoài tai những chuyện dơ dáy của một tâm hồn quái đản điên khùng.
Dòng ưu tư suy nghĩ của Nguyễn bị cắt đoạn bởi tiếng chuông điện thoại reo.
- Bác sĩ Nguyễn đây.
- Martha, ông thầy.
- Có chuyện gì đó Martha?
- Ông thầy có bận gì không?
- Hiện bây giờ, không.
- Gặp thầy một lát về công việc ở trại bệnh được không?
- Sẵn sàng. Tôi đang ở văn phòng.
- Em lên ngay.
- Ô kê.
Dăm phút sau đã có tiếng gõ cửa. Martha, nữ y tá trưởng, tóc ngà, cao ráo dễ nhìn, trong bộ đồ trắng thẳng nếp bước vào tươi tắn, đưa ngay nhận xét:
- Phòng bác sĩ bừa bộn dữ!
- Có ai giúp tôi dọn đâu!
- Martha volunteer.
- Thế thì nhất rồi. Cám ơn. Ngồi đây đi Martha.
- Cám ơn.
- Chuyện gì ở trại vậy?
Martha báo cáo hoạt động ở hai trại bệnh nặng và kinh niên, về thái độ bất thường dẫm chân lên việc người khác của y tá phụ Charles, về bệnh nhân Lory ngồi trên xe lăn tay bị té...
Rồi Martha cười duyên, đập lên tay Nguyễn:
- Ông có biết không, nam bệnh nhân Tom đang ve vãn Lora ở trại khùng mới gởi qua vì nuốt đinh ốc...
- Vậy sao? Martha làm mối hả?
- Ông thầy rỡn hoài! Thân em còn chưa có ai đây kìa! Ở đó mà đi làm mối!
- Tom đó!
Martha nguýt Nguyễn một cái dài rồi ngoe nguẩy đứng lên như giận dỗi:
- Xí! Ai mà thèm!
Nguyễn lại gần vỗ vai xin lỗi người y tá về câu đùa lố của mình. Martha quay phắt lại cười giả lả, gục đầu vào vai Nguyễn:
- Hố rồi! Tưởng em giận thật hả?
Trong thoáng giây, Nguyễn muốn ôm thiếu phụ vào tay tỏ lòng thân thiện, nhưng ngưng kịp vì sợ Martha tưởng là hành động lợi dụng, rêu rao là quấy nhiễu sinh lý thì chỉ có mất việc, treo bằng, nhất là Nguyễn biết Martha ly dị chồng và đương cần đàn ông, như mấy người nữ y tá khác thường diễu. Hay cũng chỉ là một mặc cảm nơi Nguyễn hiểu lầm trước thái độ tự nhiên của người đàn bà Mỹ.
Như không thấy đáp ứng, Martha giãn ra, mặt thoáng bẽn lẽn hồng lên, mắt long lanh. Nguyễn ngượng nghịu nói một câu nhiều ý nghĩa.
- Xin lỗi nghe.
Martha bỏ đi, nét mặt như thoáng hờn dỗi, cặp mông cao, no chắc ngúng nguẩy lằn lên vành quần lót nhỏ lưng chừng, để lại sau một mùi nước hoa nồng ấm gợi tình và một tiếc nuối mơ màng...
Trước khi đi thăm bệnh cùng hai bác sĩ phụ tá, Nguyễn liếc qua sổ bệnh mới: hồi đêm có nhận bà Lisa M. 38 tuổi. Lisa gốc Việt, sanh ở Vĩnh Long, qua Mỹ trước hồi di tản mấy năm, theo chồng Hoa Kỳ và ly dị được năm năm, không con. Hiện đương sống với một thanh niên Việt Nam do vợ chồng trước kia bảo trợ. Ít bữa nay nói xàm, phá phách nên bị ông toà quận hạt ký giấy nhập viện cấp tốc.
Bước chân vào phòng 219, Nguyễn thấy ngay thiếu phụ Việt Nam, người nho nhỏ, ngồi chồm hổm trên giường tóc rối bù, mắt trợn ngược nhìn ra phía cửa.
- Chào bà M., Tôi là bác sĩ Nguyễn.
- Anh làm gì ở đây?
- Tôi coi bệnh cho bà.
- Anh là thầy thuốc ma giáo, chứ chữa bệnh gì!. Tôi đã có Chúa chữa cho tôi rồi! Anh đừng mang thuốc độc tới đây. Hại tôi không được đâu!
Nguyễn tính bỏ đi, để bác sĩ thần kinh tâm lý định bệnh và chữa trị người đàn bà rối loạn thần kinh ngang ngược này thì bị Lisa gọi giật lại:
- Anh nói anh chữa bệnh cho tôi, phải không?
- Phải.
- Vậy anh biết tôi là ai không mà anh chữa?
- Bà Lisa M.
- Tên con gái của tôi là gì?
- Tôi không biết.
- Đến tên con gái tôi mà anh không biết thì anh biết cái gì? Làm sao mà anh chữa bệnh được! Toàn ma quỷ cả! Ta là Chúa đây! Hãy quỳ lạy mau!
Bác sĩ Nguyễn lắc đầu bỏ ra ngoài, cũng vừa lúc đó có tiếng gọi trên loa phóng thanh. Nguyễn lại trạm y tá, bốc điện thoại, bấm số vừa nói trên loa:
- Bác sĩ Nguyễn.
- Chào bác sĩ. Tôi là Lara, chủ tịch hội đồng chăm sóc tắc trách và hành hạ bệnh nhân.
- Có gì đó Lara?
- Có đơn tố cáo bác sĩ thiếu chu đáo khi điều trị một bệnh nhân.
Nguyễn xám mặt lại, ngạc nhiên sững sốt:
- Tôi?
- Vâng, bác sĩ.
- Chuyện gì lạ vậy?
- Tôi yêu cầu bác sĩ làm một bản tường trình về trường hợp bệnh nhân Mannuel G. mà bác sĩ đã coi ở phòng ngoại chẩn ngày 9 tháng 5, năm nay. Tuần tới, ngày thứ sáu, hồi 11 giờ sáng, hội đồng nhóm họp ở Khu II Tâm trí nặng, mời bác sĩ tới.
- Được.
- Cám ơn bác sĩ.
Nguyễn đặt mạnh ống nói xuống, mặt mày buồn tức. Trước khi bỏ lên phòng, Nguyễn nói với Mary, thư ký trại:
- Bà nói với hai bác sĩ tiếp tục đi thăm bệnh, tôi kẹt có chuyện phải lo ngay.
Vào tới phòng, Nguyễn gieo mình nặng nề xuống ghế nệm, vừa bực bội, vừa lo lắng, không biết ai tố cáo mình, và vì sơ xuất gì? Chuyện xảy ra cả tháng rồi nên Nguyễn không nhớ rõ chi tiết.
Thói thường, Nguyễn rất kỹ càng trong việc chăm sóc bệnh nhân, một phần vì lương tâm chức nghiệp, một phần vì học hỏi, kinh nghiệm. Hơn nữa kiện tụng y sĩ về hành nghề tắc trách ở xứ Mỹ này rất phổ thông, nên đa số y sĩ lúc nào cũng nơm nớp sợ bị ra toà, vì hàng nghìn hàng trăm lý do sơ hở. Rắc rối với pháp luật về nghề nghiệp là cả một vấn đề trọng đại cho người y sĩ. Tâm thần lo âu, khắc khoải, phẩn uất, biếng ăn, mất ngủ, tâm trí não nề, thân xác mệt mỏi, ủ ê, sinh lực tiêu tán, mất nhiều thời gian thiết lập hồ sơ, hiện diện trước toà, bồi thẩm đoằn, tiền bạc tốn kém cho luật sư, công việc bê trễ... Rồi cái xẩy nẩy ra cái ung, bằng hành nghề bị treo hay bị cúp dễ như bỡn, đưa bản thân và gia đình tới chỗ phá sản, điêu tàn...
Nguyễn lấy lại bình tĩnh, kiểm soát cơn hốt hoảng lo âu lúc đầu. Lý trí tranh đấu phôi thai. Nguyễn lắc đầu: "lại hạn 53 tuổi đây! Năm hạn nào cũng gặp xui!"
Nguyễn tuy theo Tây học nhưng lại tin vào tử vi tướng số. Những hạn tuổi 37 rồi 49 Nguyễn đều lãnh cả, liên quan tới nghề nghiệp, chức tước.
Hồi 37 tuổi ta, đương giữ chức Đại đội trưởng Lựa thương ở Nha Trang, vì một hiểu lầm ngoài ý muốn với cá nhân Chỉ huy trưởng Kho Y dược mà báo cáo bung vỡ ra tới Cục Quân Y và Bộ Chỉ huy Tiếp Vận. Dựa trên những tin tức cố tình xuyên tạc, thổi phồng, không căn cứ. Nguyễn ngày đêm kiếm văn kiện chính xác chứng minh. Bộ Chỉ huy Tiếp Vận thông cảm và giúp đỡ tận tình, trong Chi cục Quân Y lên án đòi hoãn thăng chức và thuyên chuyển. Viên dược sĩ có vây cánh ở Cục huênh hoang ca khúc khải hoàn. Nhưng Nguyễn chưa chịu thua, vì không có cánh nên khua câu chuyện tới Tổng Cục Tiếp Vận, và cuối cùng, để giữ mặt cho cả Cục Quân Y và Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận, Nguyễn vẫn được lên lon, nhưng bị thuyên chuyển về Quân Y Viện với cấp bậc mới.
Năm 49 tuổi, Nguyễn bị sạt nghiệp sau khi ngưng hợp tác làm phòng mạch với một người bạn, và phải làm lại cuộc đời từ con số không.
Nguyễn nghĩ cây ngay không sợ chết đứng nên mọi chuyện rồi cũng đâu vào đó, sau một thời gian sôi nổi, lo sầu, hốc hác. Cái nghiệp của Nguyễn cũng thuộc vào loại nặng.
Nguyễn bắt tay ngay vào việc: kêu thư ký mượn hồ sơ bệnh lý của Manuel G. ở trại người già lên duyệt xét lại, mặt khác nhờ phụ tá hành chánh dò la, tìm hiểu căn nguyên của sự tố cáo...
Manh mối vụ bị tố cáo thiếu sót trong chữa trị chưa được phanh phui thì phòng ngoại chẩn đã gọi Nguyễn ra coi bệnh cho Ả Lìn, người Việt gốc Hoa trước đây ở Rạch Giá. Thiếu nữ này ngoài hai mươi tuổi, người tầm thước, mặt mũi dễ coi. Bị bệnh đãng trí sau ngày tết Mậu Thân, khi hỏa tiển pháo kích nổ ngay sau sân nhà, lúc tỉnh lúc lẫn, chạy thầy chữa thuốc, trị mẹo, mang bùa cũng chẳng khỏi. Rồi năm 75, khi mất nước, Ả Lìn được bố mẹ gởi theo gia đình người chị chạy qua Mỹ, hy vọng với nền y khoa tân tiến có thể giúp được phần nào trở lại bình thường, chớ còn bên nhà thì vô vọng.
Qua Hoa Kỳ, định cư ở El Paso, Texas, Ả Lìn là một gánh nặng cho người chị, nào đưa đi khám bác sĩ thần kinh tâm lý, nào lên cảnh sát lãnh về khi một mình đi lạc, khi thì phải dọn nhà dọn cửa vì bầy đồ đạc bừa bãi, quần áo vứt khắp nhà, khi thì đun bếp không tắt "ga" để khói mù suýt bị cháy nhà. Trong lúc khác lại phải canh chừng ông anh rể nhìn ngang, liếc dọc trên tấm thân ngồn ngộn trần truồng, nhiều lần ra khỏi buồng tắm không mặc đồ, hoặc nằm ngủ ngay giữa nhà hớ hênh hở ngực, lòi mông... Ả Lìn bỏ nhà đi lang thang, sau khi bị bà chị la chửi đánh đập lúc bị bắt gặp quả tang ăn nằm với người anh rể. Cuộc sống ngoài lộ với đám du thử du thực, chích choát ma tuý, làm tình bừa bãi trong những cơn truy hoan tập thể tưng bừng, từ Sì qua Mỹ trắng, Mỹ đen và cả vài thanh niên tị nạn nữa, đưa Ả Lìn lần về tới Austin. Nơi đây, một đêm say thuốc, Ả Lìn đi lạng quạng ở ngoài đường bị cảnh sát chận lại và đưa vào bệnh viện tâm trí.
Khi tỉnh, Ả Lìn được gởi lên bác sĩ Nguyễn coi, vừa bị chứng nhức đầu, vừa ngôn ngữ bất đồng nên bác sĩ thần kinh tâm lý Dunkel vừa nhờ chữa, vừa nhờ hỏi thêm chi tiết bệnh tâm thần và diễn tiến căn nguyên. Ả Lìn thường xin được gặp bác sĩ Nguyễn như để có người nói chuyện tiếng Việt và nghe những lời than vãn tâm sự. Lần thì đồ ăn nhà thương nuốt không vô, và yêu cầu nhà bếp cho cơm mỗi ngày thay vì bánh mì hay bột khoai tây nhào. Lần khác bọn bệnh đàn ông gạ gẫm đứa đòi hôn, đứa đòi sờ, khi bị dụ dỗ hút cần sa, khi bị những bệnh đàn bà khác bắt nạt, chèn ép và nhân viên chẳng những không hiểu câu chuyện còn bực mình nổi nóng mang giam nhốt.
Nguyễn để ý lần nào Ả Lìn cũng đề cập tới sinh lý và có lần còn đề nghị xin về nhà Nguyễn trong một lần đi phép. Nguyễn giữ khoảng cách nghề nghiệp và luôn luôn, dù nói chuyện hay khám bệnh, đều có nữ y tá đứng kèm bên. Ngoài những lời khuyên và giải tỏa các yêu cầu hợp lý, thắc mắc chính xác, Nguyễn giới hạn và tránh nếu có thể, những cởi mở tâm tình của bệnh nhân liên quan tới thân mật sinh lý, mặc dầu khi làm hồ sơ phải hỏi chi tiết đó. Nguyễn hiểu đó là một nhu cầu bình thường của cơ thể người đàn bà đã qua nhiều phút ái ân tập thể.
Có một chuyện ám ảnh Ả Lìn hoài mà không lần nào gặp bác sĩ Nguyễn lại không nhắc tới đến độ Nguyễn thuộc lòng.
- Bác sĩ biết không, sở dĩ em bị "police" bắt đưa vào bệnh viện này cũng vì cái ông Mỹ đen đó. Ông ấy tử tế lắm! Gặp em đi ngoài đường, ông ấy ghé xe bảo đưa em về. Em leo lên xe xem sao. Rồi ông ấy cho em đi ăn. Ông ấy bảo muốn ăn gì, em nói "Chinese food" là ông đưa tới tiệm cơm Tàu. Rồi ông ấy bảo em ghé nhà ông chơi cho biết chỗ. Nhà ông ấy rộng và sang đẹp lắm. Ông ấy cho em uống rượu, cho em hút cần sa. Lúc em ngà ngà say vì uống hơi quá trớn, chứ thường ra em quen với rượu nhiều từ khi qua Mỹ nên dễ dầu gì say đâu, ông ấy bế em ngồi lên đùi rồi từ từ lột quần áo em ra và hôn em từ đầu tới chân, nhột thấy bà! Lúc ông ấy tụt quần ông ấy ra, úi cha mẹ, trời đất, quỉ thần ơi, "cái ấy" to bằng chai xá xị! Ông tính đặt vào, em sợ hết hồn, chạy trốn vào góc nhà. Ông ấy lại gần em, em sợ quá, nhưng ông ấy ra dấu bảo đừng lo rồi đặt tay em vào đó. Mà sao "nó" nóng thế hở bác sĩ? Ông ấy bảo em vuốt nó. Rồi ông ấy rên hư hử trước khi vồ lấy em, em vuột khỏi tay chạy tông ra đường rồi mới bị bắt là vậy đó, bác sĩ biết không?
Bác sĩ Nguyễn tới dăm phút trước giờ hẹn, và ngồi chờ ở ngoài phòng hội, mặt buồn hiu, trông mệt mỏi rõ ràng sau những lo âu, sầu muộn, bực bội và những đêm thao thức mất ngủ về vụ bị tố hành nghề tắc trách, sơ xuất. Khi y tá hay y công đi qua chào, Nguyễn cũng chỉ gật đầu sơ.
Nguyễn có mang câu chuyện kể lại với Vũ, người bạn thân quen từ Việt Nam và từng làm dự thẩm toà Sài Gòn. Vũ an ủi và xem dùm tờ trình để tránh những sơ hở và thiếu sót pháp lý.
John, người quản lý dưới quyền, đi lượm lặt tin tức và lời đồn, về nói lại với Nguyễn là chính Betty, nữ y tá bên trại lão là người tố cáo vì sẵn thù hiềm với Khu Nội, Ngoại Thương, sau khi bị thuyên chuyển khỏi nơi này do một vài lỗi lầm chuyên môn. Betty ghét Khu Nội Thương, chứ không có hiềm khích cá nhân gì với Nguyễn.
Cánh cửa phòng hội mở, Lara mời Nguyễn:
- Bác sĩ Nguyễn.
Nguyễn vào, được mời ngồi đối diện với bốn nhân viên của Hội Đồng, bác sĩ Thomason thần kinh tâm lý, tiến sĩ tâm lý Andrew, Adrian đại diện hành chánh và Lara, trưởng khối xã hội đồng thời là chủ tịch ủy ban.
Sau phần giới thiệu và chỉ dẫn phương cách làm việc của hội đồng như tập trung các văn kiện, tài liệu, những bản báo cáo của bên nguyên cũng như bên bị rồi thẩm vấn từng người, kết quả sẽ do bầu tay và trình lên Tổng Giám Đốc bệnh viện tối hậu phán quyết, Lara nhắc lại:
- Như bác sĩ biết, một khi có đơn khiếu nại, chúng tôi phải điều tra tới gốc vì người đứng tố cáo không có quyền bãi nại khi liên quan tới việc chăm sóc, điều trị bệnh nhân. Ngoài ra tất cả những đối thoại trong buổi họp này đều được thu băng, và trước khi nói phải xưng danh cho dễ nhận... Bác sĩ có câu hỏi gì không?
- Không.
- Vậy chúng ta bắt đầu.
Lara nói tên, chức vụ, ngày giờ và mục đích của buổi hội rồi day qua Nguyễn:
- Bác sĩ Nguyễn, y tá Betty bên trại lão của bệnh viện Austin có đơn tố cáo với ủy ban, bác sĩ sơ xuất trong khi chăm sóc cho bệnh nhân Manuel G. Chúng tôi đã có bản tường trình của bác sĩ về sự việc, bác sĩ có muốn thêm hay bớt gì hay không? Hoặc tốt hơn, bác sĩ vắn tắt diễn tiến sự việc cho mọi người nghe.
- Được, tôi là bác sĩ Nguyễn, Trưởng khu Y Khoa. Ngày 9 tháng 5, năm 1989, hồi 11 giờ 30 sáng, trại bệnh lão có gởi ông Manuel G. lên phòng ngoại chẩn cho tôi coi về bệnh cao áp huyết. Bệnh nhân này ngoài 60 tuổi, khi tỉnh lúc lãng trí. Tôi đo áp huyết thấy bệnh nhân nhăn nhăn mặt như đau chỗ nào. Hỏi, ông kêu không đau bên phía đo máu. Tôi khám thấy nghi ngờ và cho đi chụp hình cùi chỏ và cánh tay trái. Đọc phim, tôi thấy bệnh nhân bị gẫy xương cánh tay trái, lúc nào không ai rõ, từ y sĩ, y tá trại tới y công đều không ai hay, và hồ sơ không nói tới. Tôi liền bó tay bệnh nhân lại cho khỏi động đậy và gọi ngay bác sĩ chuyên khoa về xương Niklaus để nhờ trị. Ông đang bận mổ và hẹn sẽ coi bệnh nhân hồi 1 giờ trưa tại phòng mạch. Lúc đó 12 giờ 15 trưa, nhân viên ngoại chẩn gọi hẹn xe chuyên chở và thông báo với đơn vị. Vào giờ ăn, nên tôi gọi trả Manuel về trại để dùng bữa, rồi thẳng tới coi bác sĩ Niklaus và tôi cũng có dặn y sĩ trực xuống coi dùm xem có biến đổi gì không trước khi bệnh rời trại. Bác sĩ Niklaus coi Manuel rồi gởi lại về trại, nói giữ nguyên băng bó tôi đã làm, không thay đổi gì trong phương cách chữa trị, và hẹn sẽ coi lại ba ngày sau khi thuận tiện hơn để đằng bột. Chuyện chỉ có vậy và tôi không nghĩ là đã sơ xuất gì khi chăm sóc Manuel...!
Bác sĩ Thomason hỏi:
- Theo như đơn tố cáo, Betty thắc mắc tại sao ông không cho Manuel G. nhập khu y khoa mà lại chuyển bệnh về đơn vị, nơi không đầy đủ phương tiện chăm sóc?
- Bệnh đã được chăm sóc tối đa, dù ở khu y khoa hay trại lão, cũng không đòi hỏi thêm điều trị gì đặc biệt cả. Hơn nữa bệnh không trở nặng, và cũng chỉ trong thời gian ngắn ngủi khoảng hơn nửa giờ chờ đợi thôi. Tôi đã cẩn thận nhờ y sĩ trực coi dùm trong thời gian đó rồi. Và tôi cũng không muốn để bệnh nhân nhịn đói.
Bác sĩ Andrew nhìn về phía Nguyễn:
- Ông có cho đó là một trường hợp khẩn cấp không?
- Có.
- Sao ông không cho bệnh vào trại ông như mọi trường hợp khẩn cấp khác, an toàn hơn là khu lão?
- Tôi đã trình bày rồi, dù ở trại tôi, ở phòng ngoại chẩn hay trại cơ hữu, bệnh nhân vẫn được trông chừng và cho tới giờ đi coi y sĩ chuyên môn. Tôi không thắc mắc gì về phương cách trị liệu cả, và sự thể sau này đã chứng mình việc đó. Trại tôi cũng như các trại khác, tỉ lệ y tá phục vụ bệnh nhân như nhau, không thể nói trại nào an toàn hơn trại nào.
Êm lặng theo câu trả lời của Nguyễn.
Lara hỏi:
- Còn ai muốn hỏi gì nữa không?
Mọi người lắc đầu. Lara quay qua Nguyễn:
- Bác sĩ Nguyễn có muốn nói thêm gì không?
- Có. Tôi muốn đề cập tới vấn đề trách nhiệm trong vụ này. Bệnh nhân bị gảy tay không ai biết. Ai là người tìm ra? Tôi. Ai là người chăm sóc cho bệnh nhân? Tôi. Ai là người gởi bệnh nhân cho bác sĩ chuyên khoa coi? Tôi. Vậy trách nhiệm của y sĩ, y tá trại ở đâu? Đã làm gì cho Manuel G.? Trong khi chờ có nửa giờ mà vẫn dưới sự giám sát của y sĩ trực, lại kêu là sơ xuất, thiếu sót? Xin quí vị nghĩ lại dùm và cho câu trả lời chính xác để xem lời tố cáo có căn bản gì hay không?
Nghe Nguyễn lên giọng, Lara ngăn lại:
- Bác sĩ! Bác sĩ! Chúng tôi sẽ họp kín và làm tờ trình sau. Vụ thẩm vấn tới đây chấm dứt. Cám ơn.
Bác sĩ Thomason đứng lên bắt tay Nguyễn và vỗ vai như an ủi:
- Mọi chuyện đâu còn đó. Ông cứ bình tĩnh.
- Cám ơn.
Nguyễn bỏ về, tuy tin là sẽ êm xuôi, nhưng trong mình còn dây dưa bực tức mặc dù suy tư nặng chĩu đã trút được ra trong buổi tường trình. Rõ ràng sự oan ức của Nguyễn được nhân viên hội đồng thông cảm. Chắc Tổng Giám Đốc Bệnh Viện sẽ có quyết định sáng suốt và lời quở trách nhân viên thuộc quyền tố cáo không chính xác một bác sĩ Trưởng Khu để uy tín và danh dự bị tổn thương phần nào.
Nguyễn lắc đầu: "cẩn thận bao nhiêu cũng không vừa ở cái xứ chỉ có tình chớ không có nghĩa này, việc gì cũng kiện được! Chồng đè vợ ra làm tình bị tố là hiếp dâm! Con phá phách, hỗn láo, hoang đàng bị bố mẹ đánh, đi tố bậc sinh thành là hành hạ trẻ con! Thật ngán nền văn minh tột bực này!...
Tiếng gõ cửa văn phòng cắt ngang lời than của Nguyễn:
- Vào đi.
Elamy, thiếu phụ da đen nhân viên phòng tiếp liệu y khoa, ló đầu vào, mắt chớp chớp dưới cặp kính cận to lớn chiếm nửa mặt, phần mặt còn lại là đôi môi dầy thoa son đỏ choét.
Nguyễn chỉ cái ghế bành, sau lời chào hỏi của Elamy:
- Mời ngồi.
- Cám ơn.
- Chuyện gì vậy, Elamy?
Thiếu phụ khoảng ngoài ba mươi, lâu lâu lại gặp bác sĩ Nguyễn để tâm sự đời tư và xin vài lời khuyên hoặc an ủi. Ám ảnh chính của Elamy là hình ảnh người cha ruột đã nhiều lần loạn luân với nàng, đeo đuổi tâm não nàng hoài khi tỉnh cũng như trong giấc mơ, cả khi Elamy có chồng và sau bốn lần sanh đẻ.
Elamy thở dài:
- Cũng lại chuyện bố em!
- Làm sao?
- Ông ấy buông tha em một thời gian lâu rồi, nhưng từ ngày mẹ em chết và em ly dị chồng ba năm trở lại đây, ông lảng vảng lại. Ông ấy như có ý đòi, nhưng em cố hết sức tránh. Ngại hơn cả là sợ người tình của em biết thì đổ bể hết vì tụi em tính tiến tới hôn nhân.
- Thế thì làm gấp đi còn đợi chờ gì nữa? Bồ bịch với nhau bao lâu rồi?
- Hơn một năm. Anh ấy cũng đề nghị rồi, lưỡng lự là ở nơi em. Làm sao em dứt khoát được những ác mộng sinh lý với bố em?
- Lần chót nằm mơ là bao giờ?
- Mới hồi đêm.
- Lần trước nữa?
- Cũng khá lâu rồi, từ ngày bác sĩ khuyên em càng lánh gặp bố em bao nhiêu hay bấy nhiêu, và không bao giờ trực diện một mình cùng luôn luôn có sự hiện diện của người thứ ba.
- Thế trong lúc làm tình với người bồ, hình ảnh ông già còn lởn vởn trong óc như trước kia nữa không?
- Bác sĩ dặn em là tập trung vào tình yêu Joe, em cố gắng theo nên thoát được nhiều lần rồi.
- Ôi, thế thì không sao. Có tiến triển khả quan!
Elamy hít một hơi dài rồi đắn đo:
- Theo bác sĩ, em có nên nói chuyện này với Joe không?
- Với mục đích gì?
- Em không muốn dấu Joe chuyện gì cả trước khi chúng em làm đám cưới.
- Cái đó còn tuỳ. Joe có hay ghen không?
- Ghen dữ lắm, nên em cũng ngại, chỉ e Joe bỏ em khi biết chuyện, chẳng thà nói trước để Joe định đoạt. Mà mất Joe làm sao em sống?
- Mâu thuẩn... ông già của Elamy đâu có phải là tình địch của Joe đâu!
- Đã đành.
- Phải cân nhắc kỹ lưỡng. Bước lầm đưa tới đổ vỡ không cần thiết. Joe có hề nghi ngờ gì không?
- Chỉ có mẹ em đã chết, em, bố em và bác sĩ biết thôi.
- Tuỳ Elamy chọn lựa giữa một hạnh phúc lứa đôi không vẩn đục bởi một ám ảnh quá khứ hay một tan vỡ hoặc lục đục triền miên, oán hờn, hục hặc vì một sự việc mà đương sự không biết và không hỏi tới...
Ngay lúc đó tiếng gọi trên loa vang lên khẩn trương.
- Doctor Leo! Doctor Leo! Room 202.
Nguyễn quầy quả đi, nói với lại:
- Chuyện gì không biết nữa, tôi phải đi liền.
Elamy gật đầu:
- Em gặp bác sĩ sau.
Thang máy chậm rì nên Nguyễn phải chạy cầu thang. Tới phòng 202, người lố nhố từ bác sĩ trại, y tá, y công, nhân viên phòng thử nghiệm, nhân viên quang tuyến...
Y tá Lara báo cáo:
- Paul ăn sandwich tham nuốt miếng lớn nên bị nghẹn, mặt xanh lè, ngộp thở, Marcie nhanh tay làm Heimlich. Paul ọc được ra một cục bự.
- Áp huyết, mạch và nhịp thở ra sao?
Bác sĩ Van Dussey đứng gần đó nói:
- Cho một ít dưỡng khí thấy tốt rồi!
- OK. Loan báo chấm dứt Doctor Leo. Cám ơn tất cả, nhất là Marcie. Lara lát nữa cho chụp hình phổi.
- Bác sĩ Dussey cho rồi. A, còn một vài chuyện cần ông giải quyết.
- Chuyện gì nữa?
- Y tá Rebecca đưa lộn thuốc kinh phong của Barbara cho Charlotte uống.
- Charlotte có sao không?
- Bình thường.
- Làm báo cáo lộn thuốc, ngoài ra quan sát Charlotte trong 24 tiếng. Nói với bác sĩ Van Dussey coi bệnh rồi biên vào hồ sơ cho kỹ.
- Vụ này bỏ qua được không?
- Đâu có được! Rồi làm giấy khiển trách nhẹ thôi, khỏi đưa ra hội đồng thẩm xét nghề nghiệp.
- Còn chuyện rắc rối nữa, Bobby bị y công Lewis bắt gặp đang thủ dâm ở sau màn ngăn, dọa kiện vì đời tư bị xâm phạm. Ông có nói sao cho y bỏ qua được không?
- Được.
Loa phóng thanh lại vang lên:
- Bác sĩ Nguyễn.
- Bác sĩ chờ đầu giây, tôi chuyển điện thoại từ bên ngoài.
- Ô kê.
Tiếng vợ Nguyễn ở đầu giây:
- Bố hả?
- Bố đây.
- Thằng Tèo sốt, ói mửa tùm lum trường gọi đón về...
- Đi rước con ngay đi, bố thu xếp chuyện chút xíu rồi về liền.
Lại có người gọi Nguyễn nữa. Đó là anh Ngọc, chủ nhiệm và chủ bút tờ nguyệt san địa phương gọi Nguyễn giục đóng góp bài về y học. Nguyễn hứa sẽ gọi lại trong ngày vì bây giờ đang bận. Nhờ bác sĩ Van Dussey coi dùm trại và thông báo với thư ký là con đau phải về. Xong Nguyễn vội vả ra xe, chưa mở máy, Nguyễn chợt nhớ còn phải đi họp ban y khoa truyền nhiễm nên lại quay về trại nói thư ký xin miễn dùm.
Tam Thanh
-----------
Nguồn: VĂN, số 99, tháng 9/1990
Sunday, July 7, 2019
MÂY MÙA THU ĐÃ SANG
Hoàng Du Thụy
Chiếc máy bay chạy dài theo phi đạo, ngang qua chỗ đám thân nhân đưa tiễn đang đứng lố nhố, nó cố tình chậm lại cho kẻ ở người đi còn nhìn thấy nhau lần cuối. Tôi đặt bàn tay mình trên khung cửa kính, cổ tay buộc một chiếc khăn mù xoa sậm màu cho chàng dễ nhận ra. Giữa trưa nắng chói chang, bóng Quảng cao gầy, đội chiếc cát két màu đỏ, đứng như pho tượng. Chiếc phi cơ bắt đầu lướt nhanh hơn, lấy đà để vút lên cao. Tôi nhìn xuống, chỉ còn kịp thấy chiếc mũ đỏ như một vết chấm thật nhỏ giữa rừng người. Quảng vẫn đứng im lìm như thế. Dáng cao gầy như đã đứng đó tự trăm năm. Khi chiếc phi cơ mất hút giữa từng không, tôi biết chàng sẽ còn đứng im như thế, có thể là mãi mãi.
Cho đến phút cuối tôi vẫn không cho Quảng biết là tôi đi đoàn tụ với chồng. Tôi vẫn nói dối chàng là người chị bảo lãnh. Trong thâm tâm, Quảng nghĩ tôi độc thân hay có thể anh biết mà không nói gì. Tôi có độc ác lắm không khi dấu chàng sự thật đau lòng này? Mà cũng tại Quảng. Nhiều lần tôi định tỏ thật với chàng nhưng tính Quảng rất kỳ lạ, chàng không bao giờ để tôi nói được những điều tôi muốn nói. Khi thấy tôi bắt đầu tạo không khí nghiêm trang cho một câu chuyện nào đó là chàng tìm cách gạt đi. Tính khí kỳ cục, khác người làm đôi lúc tôi nghĩ Quảng mát dây, nhưng rồi lâu dần tôi lại nghiệm ra cái mát dây đó vậy mà dễ thương và thậm chí có lý. Chẳng hạn như khi yêu nhau, Quảng kỵ nói tiếng yêu. Anh bảo rằng không gì khôi hài bằng mình nói yêu một người nào đó. Ngôn ngữ tự nó nghèo nàn không chịu nỗi, tại sao cứ phải nói ra mới gọi là yêu? Chữ yêu đó có lột hết được cái tình cảm của mình không? Không biết có phải tại suy nghĩ nhiều hay không mà Quảng có nhiều ý tưởng rất lạ đời, người mới quen nếu không cho là chàng điên chắc cũng nghĩ anh chàng gàn.
Nhà tôi là một phòng triển lãm tranh nho nhỏ. Tôi dùng thời giờ nhàn rỗi của mình để vẽ tranh và viết văn. Dưới những bức họa được đóng khung cẩn thận, đôi khi tôi còn kèm cả một bài thơ ngắn. Tôi rất bằng lòng với những tác phẩm của mình. Bạn bè tôi cũng có nhiều người khen tôi xử dụng màu cọ khéo léo, vẽ tranh y-như-thật, ca ngợi thơ tôi chữ dùng tuyệt vời, âm vần đều chỉnh. Vậy mà lần đầu tiên đến nhà, thấy những bức tranh, đọc những bài thơ đó, chẳng những Quảng không khen mà còn cười châm biếm:
- Anh không hiểu tại sao người ta cứ vẽ lại những cái đẹp của thiên nhiên lên bố, rồi lại còn làm tăng thêm sự giới hạn của thiên nhiên bằng cách đóng vào đó một cái khung. Thiên nhiên là vô cùng. Màu, cọ, tất cả đều là vô nghĩa đối với thiên nhiên. Còn thơ văn chỉ là trò chơi ngu xuẩn. Em còn mê thơ là chưa thấy được sự giới hạn của chữ nghĩa, cái nghèo nàn của ngôn ngữ.
Tôi tức nghẹn. Bao nhiêu công trình của tôi bị bôi bác. Để chống lại ý tưởng thù ghét sự giới hạn của màu sắc và ngôn ngữ nơi chàng, tôi càng viết, càng vẽ hăng hơn. Càng cố gắng, tôi càng phải công nhận là chàng có lý. Như cái màu mắt chàng tha thiết quá đỗi, rực rỡ thế kia mà tôi chẳng thể nào pha trộn được. Như tình tôi yêu chàng đằm thắm là vậy mà tôi chẳng thể nào viết được thành lời. Đúng ra tôi chỉ có thể diễn đạt chung chung vậy thôi, bao nhiêu bài thơ, bài văn đắc ý, viết xong đọc lại vẫn thấy thiếu một điều gì. Nó không nói hết được cái tình tôi yêu chàng. Tất cả như bị chắn ngang bởi một vách ngăn bằng kính, thấy đó tưởng là vô cùng nhưng khi chạm phải mới biết ra là nó hữu hạn.
Nghe lời Quảng, tôi dẹp bút, xếp cọ màu vào một xó. Tôi theo chàng vui chơi khắp chốn. Từ quán cơm bà cả Đọi cho đến nhà hàng Bát Đạt, từ cốc cà phê bít tất ở tiệm nước Năm Dưỡng khu Bàn Cờ cho đến ly cà phê đậm đà của quán Phượng, Hải Âu khu Nguyễn Huệ sang cả, chúng tôi đều tận hưởng và thấy thú vị như nhau. Có nhiều đêm đi chơi khuya về, khu phố bị cắt điện, Quảng ở lại với tôi suốt đêm. Ở cạnh Quảng lâu ngày, tôi bị lây cái triết lý của chàng. Yêu là tận hưởng, chỉ có người mình yêu mới là đáng kể, còn mọi thứ chung quanh đều vô nghĩa.
Mọi thứ chung quanh mà Quảng ám chỉ chính là những con mắt tò mò của người trong cư xá. Của cô gái trong căn nhà đối diện, của người đàn bà lắm lời thuộc căn hộ bên tay phải, của cả những đám trẻ con nô đùa trước sân nhà nơi Quảng thường gởi xe. Dân chung cư chuyện nhà ai họ cũng rành, có khi rành hơn cả người trong cuộc. Phía sau hai dãy nhà cách nhau chỉ độ vài thước tây. Buổi trưa, khi các bà nội trợ lo việc bếp núc, người này có thể ngó mặt người kia mà trao đổi những câu chuyện nóng sốt về giá vàng, giá gạo, chuyện ông này, bà nọ. Cũng vì thế một hôm tôi nghe họ bàn tán về mình. Nhà tôi thường đóng kín cửa, ngay cả khi tôi có nhà cũng vậy. Do đó, họ khó đoán được tôi có trong nhà hay không. Sáng hôm đó tôi ở nhà, nên ngủ dậy hơi trưa. Tôi đoán là giờ làm bếp vì nghe họ nói chuyện với nhau. Giọng bà miền Nam:
- Chắc bả cũng sắp lên máy bay rồi. Nghe đâu ổng bảo lãnh lâu lắm mà.
Giọng miền Bắc của bà ở phòng phía bên tay phải:
- Bả mà đi đâu? Đi rồi bỏ ông này lại cho ai?
Có tiếng dao chặt xuống thớt nghe bụp bụp rồi giọng bà miền Nam:
- Mà ông này vợ con để đâu sao ngày nào tui cũng thấy ổng có mặt ở đây hết. Mấy đứa nhỏ ở nhà giữ xe nói có bữa ổng ở lại ban đêm nữa.
Tôi mĩm cười và lắng nghe tiếp câu chuyện. Bà miền Bắc chanh chua:
- Nồi nào thì vung nấy. Người có chồng mà còn lang chạ thì ông kia chắc cũng bỏ vợ vượt biên gì đó.
Câu chuyện nghe lóm không còn làm tôi thấy thú vị nữa. Tôi biết họ đang nói xấu mình. Chuyện đời là thế. Hễ một người đàn ông và đàn bà gặp nhau, dứt khoát phải là chuyện trai gái chớ không có gì khác. Tôi thấy thương mình và thương cho Quảng. Thương vì hai đứa mang nỗi oan Thị Kính mà không có cách giải bày. Cuối đời Thị Kính, người ta còn biết ra nàng là gái, nỗi oan được soi sáng. Còn tấm lòng trong sạch của tôi, có người nào tin? Yêu nhau không phải là tội lỗi, miễn là tình yêu đó không vượt ra ngoài giới hạn, đừng phá rào lễ giáo. Tôi vẫn nhớ mình là đàn bà có chồng, tôi chỉ muốn thân xác mình thuộc về chồng mà thôi. Người đàn bà ngoại tình nơi tôi là người đàn bà lãng mạn, thích được yêu và được mơ như thời con gái. Quả thật tôi chưa hề thèm muốn được chung chăn gối với Quảng. Tôi vẫn sợ nhục dục giết chết tình yêu như nó đã từng phá hủy tình yêu tôi và người chồng tôi tôn thờ như thần tượng khi còn là người tình. Xác thịt rất kỳ lạ, nếu hợp thì là keo với sơn. Bằng không thì tựa hồ như nước với lửa. Tôi đã rơi vào trường hợp thứ hai và những năm Huân đi xa là những năm tôi thật sự tìm thấy hạnh phúc. Tôi có đủ mọi thứ tự do, có nhà cao cửa rộng, và điều quan trọng nhất là tôi được sống cuộc đời của chính mình.
Ba năm qua tôi đã có Quảng như một người tình chung. Nhiều đêm chia tay nhau tôi băn khoăn tự hỏi tại sao Quảng có thể gìn giữ cho tôi trong suốt ngần ấy thời gian yêu nhau. Có lẽ vì biết không lấy được nhau nên anh ấy cố gìn giữ sự trong trắng cho tôi chăng? Cuộc đời này còn có một người cao thượng đến thế ư? Qua những suy tư của Quảng, tôi hiểu anh không phải là người đàn ông tầm thường, nhưng một người đàn ông đối đãi với người yêu như thế quả là hiếm có. Có lần Quảng đã nửa đùa nửa thật với tôi:
- Kể từ khi yêu em anh biết ăn chay.
Tôi đùa lại:
- Tại ăn chay nên yêu cũng chay luôn?
Nụ cười trên môi Quảng bỗng trở nên méo mó:
- Ừ, anh yêu chay. Chỉ yêu bằng trái tim thôi.
Nét đau buồn trên gương mặt Quảng làm tôi xót xa. Tôi vuốt nhẹ bàn tay chàng.
- Quảng này, sao anh không lấy vợ đi? Bốn mươi ba tuổi rồi, còn chờ gì nữa?
Quảng kéo tôi vào lòng rên rỉ:
- Anh lấy ai, em chỉ cho anh đi.
Tôi muốn khóc:
- Ai cũng được nhưng không phải là em. Anh lấy vợ đi cho em yên tâm lên đường. Thấy anh cô đơn hoài em chịu không nỗi.
Quảng không trả lời nhưng gương mặt nặng trĩu suy tư của anh cho tôi biết là anh nặng tình cảm với tôi lắm. Xúi người yêu mình đi lấy vợ có phải là độc ác lắm không? Tôi biết tôi vốn độc ác và ích kỷ. Tôi như mụ phù thủy, dấu rắn rít đằng sau tấm nhan sắc mỹ miều. Quảng im lặng như thế thật lâu. Sau đó chàng nhìn vào mắt tôi, nói giọng van nài:
- Nếu em yêu anh, xin em đừng bao giờ nói đến chuyện vợ con của anh. Em đồng ý chứ?
Tôi đau đớn gật đầu. Tuy có nghĩ đến hạnh phúc của chàng thật nhưng đàn bà luôn ích kỷ. Tôi mong cho Quảng đừng lấy người nào khác, ít nhất là cho đến ngày tôi ra đi. Tôi biết tôi sẽ điên lên vì ghen với người vợ của chàng. Quảng tuyệt vời quá, hẳn là người vợ tương lai của chàng sẽ sung sướng lắm. Có một người chồng biết yêu và biết tin vợ, điều đó là nỗi ao ước chung của mọi đàn bà. Đàn ông biết yêu nhưng ít người biết tin vợ hoặc người yêu của mình. Tôi rất sợ đàn ông ghen tuông bóng gió. Ghen tuông làm tổn thương tình yêu và tự ái của người đàn bà.
Ngày mai tôi đi. Suốt đêm đó không ai ngủ được. Quảng và tôi ngồi trong bóng đêm, để căn nhà thắp sáng bằng ánh trăng soi. Tôi khuyên Quảng ngủ một giấc ngắn nhưng anh bảo:
- Anh còn suốt cuộc đời để ngủ. Anh phải thức với em đêm nay, đêm cuối cùng của đôi ta.
Tôi tựa đầu vào vai chàng:
- Thế thì đôi ta cùng thức.
Quảng vuốt nhẹ tóc tôi:
- Không được, em phải ngủ để sáng mai lên phi cơ. Hơn nữa, chín giờ sáng Sở Quản Lý Nhà Đất đến tiếp thu nhà, em không thể tiếp người ta với đôi mắt quầng thâm thiếu ngủ được.
Tôi bướng bỉnh:
- Thì em trang điểm kỷ một chút có sao đâu. Thôi, mình cùng thức đêm nay. Em thích nghe anh kể chuyện.
Tôi nằm im chờ đợi. Bàn tay tôi vuốt nhẹ bàn tay chàng. Bàn tay thiếu ngón thân mật như chính bàn tay tôi. Quảng có đôi bàn tay của một người nghệ sĩ dương cầm, những ngón dài, đẹp thanh thoát. Bàn tay chàng mềm mại và ấm. Quảng hỏi lại tôi:
- Em thích nghe anh kể chuyện gì?
- Chuyện gì anh chưa từng kể em nghe, chưa từng kể cho ai nghe hết.
Quảng vào chuyện:
- Có. Anh có câu chuyện chưa từng kể cho ai nghe. Câu chuyện nầy anh định sống để bụng, chết mang theo, nhưng giờ em muốn biết, anh sẽ kể em nghe.
Tôi ngước mắt nhìn chàng chờ đợi. Trong bóng đêm, đôi mắt Quảng thấp thoáng hai vì sao. Chàng cúi hôn lên mắt tôi và dịu dàng bảo:
- Em nắm tay anh đi. Bàn tay có ngón bị cụt đó. Em nhớ gì không? Anh kể em nghe về bàn tay thiếu ngón rồi chứ? Ừ, anh kể rồi mà. Một trăm ngày đêm bị vây kín trên đồi Gió, An Lộc. Rồi những đợt B40 cướp đi bao đồng đội của anh. Anh may mắn sống sót, nhưng bị thương nặng. Những vết sẹo chạy dài trên thân thể anh và ngón tay cụt này là những vết tích chiến tranh mà mọi người nhìn vào đó có thể tìm thấy được sự căm phẩn, thù hằn. Nhưng mà em biết không, không phải chỉ có thế thôi đâu.
Chàng ôm tôi vào lòng. Tôi cơ hồ nghe như xương xóc mình rạn nứt. Những dồn nén, những uất ức, hằn học như trút hết trong vòng ôm đó. Tôi đau đớn trong cái gọng kềm đang siết chặc mình mà không dám kêu la. Tôi biết chàng còn đau đớn hơn tôi gấp vạn lần. Rồi vòng ôm bỗng trở nên nhẹ nhàng, tha thiết hơn. Chàng xoa nhẹ bờ vai tôi:
- Ba tháng trời nằm bệnh viện, anh nôn nao theo dõi những vết thương trên thân thể mình. Mỗi vết thương lành là một nỗi hân hoan. Vết thương dù nặng tới đâu rồi cũng liền da, bồi thịt. Duy có một vết thương không bao giờ chữa khỏi.
Tôi đưa tay ve vuốt khắp người chàng. Nghĩ đến những người con gái bỏ người yêu tật nguyền đi lấy chồng, tay tôi dừng lại thật lâu ở phía trái tim chàng. Tôi nghĩ là nơi đó có một vết thương không bao giờ lành lặn. Tôi muốn nghe cho hết những đoạn trường mà chàng đã trãi qua. Chàng gở nhẹ tay tôi ra, đặt tôi nằm trên nền gạch bông mát lạnh. Trong bóng tối, hai vì sao trong mắt chàng vụt sáng. Giọng chàng như có pha nước mắt:
- Em tưởng anh là thần thánh ư? Em tưởng anh có thể yêu em bằng sự tinh khiết của trái tim thôi ư? Em tưởng anh cố tình muốn giữ gìn sự trong sạch cho em ư? Không, em lầm rồi. Anh không cao thượng như em nghĩ đâu. Trước ngày anh xuất viện, thằng bạn, người bác sĩ quân y đã giải phẩu cho anh, đau đớn cho anh biết rằng anh đã mất đi khả năng tình dục. Nghe qua, anh tuyệt vọng ghê gớm. Anh chỉ muốn giết chết thằng bạn đã cầm dao mổ giải phẩu cho mình, dù là để cứu một sinh mạng. Giờ đây anh thấy điều đó không đáng để đau khổ nữa. Cái mất đi của anh, đổi lại sự tinh khiết còn giữ được cho em, đó chẳng phải là một sự đổi chác đáng giá hay sao? Nếu mà anh là một người đàn ông như bao nhiêu đàn ông trên cõi đời này, có lẽ anh đã chiếm đoạt em lâu rồi.
Nước mắt tôi tuôn tràn theo mỗi lời chàng thốt ra. Lòng tôi tê tái. Người ta nói nhiều về nỗi đau đớn của những người đàn bà tuyệt đường sinh sản. Nhưng có ai nói về nỗi tuyệt vọng của một người đàn ông mất hẳn khả năng tình dục khi cuộc đời còn quá dài để chịu đựng? Trời ơi, chàng phải kéo dài đời sống mình mãi mãi như thế hay sao? Tôi thấy mình bất lực trước nỗi mất mát quá to tát của chàng. Quả thật không có gì có thể đền bù. Làm sao tôi chia xẻ được với chàng đây? Tôi úp mặt lên ngực chàng khóc ngất. Bây giờ ai đồn đãi về tôi và chàng như thế nào cũng mặc, tôi vui lòng chấp nhận hết mà không một lời đính chánh. Tôi mãn nguyện khi họ nhìn chàng như một người đàn ông bình thường. Tôi nằm mãi trên ngực chàng như thế cho đến sáng. Tôi lắng nghe từng nhịp tim đập nồng nàn của người đàn ông bốn mươi ba tuổi đang kể hết những bất hạnh của mình. Đoạn đường còn lại đầy ắp bóng tối của chàng, tiếc thay tôi không được đi cùng. Thì ra chàng có lý chớ nào phải gàn dở chi đâu. Khi yêu đừng nên nói yêu. Ngôn ngữ nghèo nàn lắm, làm sao diễn tả hết nỗi lòng mình.
Một tiếng đồng hồ trước khi người ta đến nhận nhà, tôi đi rửa mặt, thay đồ để ra phi trường. Trong tấm kính duy nhất còn lại trong phòng tắm, tôi thấy đôi mắt mình hoe đỏ, sưng mọng. Nhưng tôi cần chi phải trang điểm để che dấu sự thể hiện cái tình cảm chân thật của mình? Tôi từ giã chàng để lên phi cơ như một người bị lưu đài biệt xứ. Đi đoàn tụ với chồng mà sao trong lòng tôi không một chút vui mừng, không một nỗi nôn nao. Lòng tôi còn đầy ắp hình ảnh của một người đàn ông mà trong suốt ba năm qua tôi cho là gàn dở. Khi tôi đã thực sự nhìn thấy chàng thì lại phải chia tay. Dù ra đi, không cần quay lưng lại tôi vẫn biết Quảng sẽ đứng đó nhìn theo mỗi bước tôi đi trong suốt cuộc đời còn lại.
Tôi ngồi im như pho tượng trong lòng chiếc phi cơ nội hoá cộc cạch đang mang tôi xa xứ. Người chung quanh nói gì tôi cũng chẳng nghe. Túi trái cây người tiếp viên trao cho, tôi để nằm im dưới chân. Ngồi im lìm như thế một lúc lâu, tôi thẩn thờ nhìn ra ngoài vuông cửa kính mới hay rằng phi cơ đang bay vào những đám mây mùa Thu để vào không phận đất Thái.
Hoàng Du Thụy
----------
Nguồn: VĂN, số 99, tháng 9/1990.
Subscribe to:
Posts (Atom)