Saturday, January 26, 2019
TRUYỆN NGẮN
Nguyễn Xuân Quang
Truyện này tác giả không đặt tên. Theo truyền thống xa xưa của người da đỏ Walapai (1), một người mới sinh ra không có tên, về sau do một sự đưa đẩy nào đó người đời sẽ đặt tên cho kẻ ấy một cái tên. Truyện này cũng cũng vậy, tác giả không đặt tên, để cho độc giả tự đặt tên.
Gặp nhau để khóc, Nemitiawak, Nemitiawak, tiếng của bộ lạc da đỏ Walapai, "Những Người Của Ngàn Thông Già", có nghĩa là Gặp Nhau Để Khóc. Nemitiawak là lễ đầu xuân, mọi người tụ họp lại, họ mời cả những bộ lạc bạn, những bộ lạc láng giềng đến để cùng nhau chung khóc. Mọi người ôm nhau cùng khóc. Họ khóc cho những đọa đầy của kiếp người. Họ khóc cho những khổ ải do thiên tai, nhân tai, do thần linh, ác quỷ tác họa lên con người. Họ khóc cho những thảm họa mà con người đã phải gánh chịu. Họ khóc cho những người vừa chết trong mùa đông đói lạnh vừa qua. Những kẻ đau yếu, giả cả, những trẻ em thường ra đi vào mùa đông ác quỷ. Sau đó mọi người nhảy múa, hát ca, tiệc tùng đón mừng những ngày xuân đầy hy vọng sắp tới.
Với ý nghĩa gặp nhau để khóc, bất cứ lúc nào trong đời cần gặp nhau để khóc, chàng vả nàng lại tìm đến nhau. Đến với nhau để cùng nhau chung khóc. Hai người chỉ cần gặp nhau để khóc. Để chia xẻ. Để sống với nhau một thời gian. Thế thôi. Sau đó chia tay, mỗi người lại tiếp tục sống cuộc đời riêng tư của mình. Đời ai người ấy sống.
Năm 1975, trong khi còn chờ tìm được người bảo trợ để ra khỏi trại tị nạn, chàng tình nguyện làm việc tại khu bệnh xá trại tị nạn Onofre của trung tâm định cư Pendleton, California. Một buổi sáng khi đến bệnh xá, chàng đã bị ngây ngất, choáng váng vì một mái tóc thề đen tuyền buông dài xuống hai bờ vai thon. Một mái tóc dài đông phương huyền hoặc, quyến rũ. Khi người con gái xoay lại chào chàng, một khuôn mặt Á Âu mang nhiều nét thánh nữ Tây Ban Nha. Lúc đó, nàng là một nữ y tá mới ra trường tình nguyện đến đây chăm sóc sức khỏe cho người tị nạn Viện Nam và Campuchia. Hôm đó nàng giới thiệu tên nàng là Lam Ngọc (Turquoise). Một tuần sau nàng đổi qua những bệnh xá trại khác. Lúc ấy chàng mới biết nàng có mang dòng máu da đỏ trong người.
Hôm từ giã nàng đã tặng chàng bộ sách Principles of Internal Medicine của Harrison. Bộ sách chàng đang cần phải có để tham khảo, để soạn thi lấy lại văn bằng bác sĩ tương đương của Hoa Kỳ. Lúc ấy chàng không có tiền mua sách và cũng không thể đi ra ngoài trại mua dù cho có tiền. Chàng cũng không hề mở lời xin nàng. Về sau chàng biết nàng đã nhờ người bạn trai sinh viên y khoa làm cố vấn mua bộ sách đó tặng chàng. Quyển sách đó đã giúp chàng làm lại cuộc đời. Và cái Gặp Nhau Để Khóc bắt đầu từ đó, bắt đầu từ ngày nàng chia xẻ với chàng những nỗi bi thảm của một con người phải bỏ nước ra đi. Những giọt nước mắt khóc chung cho nhau.
Hiện giờ nàng là một thanh tra y tế công cộng đặc trách về sức khỏe cộng đồng của người da đỏ sống trong những trung tâm định cư tại tiểu bang Arizona.
Lần Gặp Nhau Để Khóc năm nay hai người đã hẹn ngày "sóc", đi xuống viếng thăm những người da đỏ Havasupai sống ở một nơi dưới đáy Đại Vực Grand Canyon. Havasupai, những người của giòng nước xanh. Hal là nước, vasu màu xanh, pai là người. Havasupai, những người sống bên giòng sông xanh.
Trước khi đi xuống đáy Đại Vực, hai người đã dậy thật sớm ra ngồi trên đỉnh đá cao nhất ở mỏm Bright Angel chờ bình mình lên trên Đại Vực. Hai người ngồi như hai hòn cuội, im lặng, nhỏ bé. Grand Canyon hùng vĩ, oai nghiêm, kỳ bí... Gió cao nguyên Kaibab, "Nơi Cái Núi Ngã Người Nằm Xuống", lành mạnh, tươi mát nhưng khô. Thoang thoảng mùi nhựa thông, mùi cây Đan sâm (sage) và mùi hoa cỏ dại. Sương trắng đục thụng xuống lòng Đại Vực. Biển thông rì rào sóng lá. Một góc trời hừng đỏ... Grand Canyon do dòng sông Hackataia, dòng sông "Gầm Thét" (người da trắng gọi là dòng sông Colorado), đã khắc, đã tạc, đã đẽo vào lòng cao nguyên Kaibab, nơi có những Sa Mạc Màu (Painted Desert) tạo thành.
Mặt trời ló dạng ở chân trời. Grand Canyon hấp hồn. Grand Canyon đẹp đờ đẫn người. Grand Canyon đẹp điếng người. Ánh nắng, bóng rợp, sương khói, khoảng cách, cây cỏ, những kim loại, khoáng thạch trên vách vực đã tô nên những âm sắc, những cung bậc màu kỳ diệu. Màu sắc chuyển động, thay đổi theo tích tắc thời gian. Những khối, những thể, những hình, những dạng đất đá đã do tạo hoá điêu khắc triệu tỉ năm và vẫn còn tiếp tục không ngừng. Thiên hình vạn trạng. Nào vực, nào lũng, nào hang, nào động, nào cội, nào trụ, nào thành, nào quách, nào vách, nào tường, nào tháp, nào chòi, nào lâu đài, nào cung điện, nào đền miếu, nào cung, nào vòm, nào ống khói tiên, nào nấm ma, nào bí quỉ... Màu sắc, ánh sáng chuyển động, đổi thay mê hồn. Một thứ kính vạn hoa biến hoá thành những cũng bậc màu ngây ngất. Có hồng, có thắm, có son, có đỏ, có đồng, có cánh kiến, có tiết gà, có huyết dụ, có đào, có hây hây, có hồng ngọc, có hồng thổ... Có tím, có tía, có tím than, có tím hoa cà, có tím hoa sim, có tím tía tô, có cà tím, có tím mồng tơi, có tím hoa đồng thảo, có tím African violet, có mực tím học trò... Có vàng, có vàng kim, có kim nhũ, có vàng thau, có vàng chanh, có vàng nghệ, có vàng cam, có mỡ gà, có hoàng thổ, có hổ phách, có lưu huỳnh...
Sát mép bờ Đại Vực, ngay cả ở những mỏm đá cheo leo nhất, nhô hẳn ra ngoài lòng vực, những cây thông pinyon u nần, uốn éo trông như những cây kiểng lùn Bonsai trong tranh thủy mạc cổ Trung Hoa. Dáng cây ngã theo chiều gió tạt. Có nhiều cây buông thõng người xuống lòng vực, đong đưa, trêu cợt với rụng rơi, đùa giỡn với chơi vơi. Giông gió bão tố đã bẻ, đã tỉa những cành cây thừa thãi, yếu ớt. Tuyết giá đã uốn những cành trĩu cong xuống, la đà. Nắng lửa sa mạc đã thu lá nhỏ lại thành kim nhọn để bảo tồn nước cho cây. Đám rễ ngoằn ngoèo bò nỗi trên mặt đá, tìm những kẻ nứt, tách ra, chui xuống, neo chặt, bám cứng giữ cho cây đứng vững giữa trời trước giông bão, rễ chui sâu xuống kẻ đá tìm thức ăn nuôi cây. Thỉnh thoảng một vài thân cây bị sấm sét đánh tanh bành, toác hoác nhưng cây vẫn xanh tươi. Những phần thân cây, những cành chết, chưa bị gió mưa rứt lìa khỏi cây làm tăng thêm vẻ dạn dày, phong sương, phô bày ra cái sức sống mãnh liệt, kiêu hùng của phần cây còn sống. Đất càng cằn cỗi, cây càng u nần, gân guốc, cây càng rắn chắc, cây càng cổ thụ, phong sương. Đất đứng càng cheo leo, rễ càng cuồn cuộn, cây càng lẫm liệt, thi gan. Giông tố càng lớn, cây càng nương theo chiều gió tạt, cây càng đong đưa. Tuyết càng dầy, cây càng mềm mại, cây càng la đà. Nắng càng đốt, lạnh càng cắt, vỏ cây điều nhiệt càng dầy, vỏ cây càng nứt vân cẩm thạch, lửa luyện lá kim càng nhọn, càng sắc; lạnh làm lá càng xanh, càng tươi. Sâu bọ càng nhiều, nhựa thông càng đặc, càng sát trùng, càng thơm...
Không một loài cây nào khác, sống còn trên bờ vực đá. Thụt lùi vào trong xa là rừng thông ponderosa. Những cây thông ponderosa cổ thụ lưa thưa xen kẻ với những cây sồi gambel. Một bầy nai tai lừa đang gặm lá cây táo dại manzanita (2). Những cây táo dại lá nghiêng thẳng đứng, mép lá thẳng góc với mặt đất. Lá dấu mặt, trốn ánh nắng mặt trời để bảo tồn nước cho cây. Muôn thú ở đây đã đi kiếm ăn vào buổi sáng tinh mơ và vào lúc hoàng hôn để tránh nắng lửa giữa ngày của sa mạc.
Người con gái ngã đầu xuống vai chàng. Hai dòng nước mắt ứa ra. Chàng để yên cho nàng khóc. Chàng ôm nàng sát vào người chia xẻ. Có cái cầu vồng trong giọt nước mắt nàng. Rực rỡ, cái cầu vồng trong giọt nước mắt trên má nàng. Chàng lấy ngón tay hứng giọt nước mắt. Chiếc cầu vồng rung rinh muốn đổ nhưng rồi đứng yên trên ngón tay trỏ của chàng. Chàng ghé môi uống trọn cây cầu vồng. Người con gái với tay choàng cổ chàng, hôn chàng bằng cái hôn da đỏ. Hôn bằng cách cọ mũi nàng vào mũi chàng.
Hai người ngồi đó cho tới khi mặt trời lên cao.
- Chúng mình đi là vừa anh. Ở dưới đáy Đại Vực trời mau tối. Bây giờ anh lái xe lấy đường US66.
Hơn một giờ lái xe, hai người đến Hualpai Hilltop, cửa ngõ xuống Havasupai Canyon, nằm ở nhánh phía Tây Đại Vực.
- Để xe trên này, chúng mình sẽ dùng lừa đi xuống làng Suspai.
Hai người đến chỗ cho thuê lừa.
- Anh đã cưỡi lừa lần nào chưa?
- Chưa.
- Vậy để em dặn anh vài điều. Lừa khác ngựa ở chỗ lì lợm. Không thích là không làm. Ép quá nó sẽ hất anh hay đá hậu anh xuống vực. Nếu nó không chịu đi, mình phải nhảy xuống đi bộ. Nếu xuống đi bộ, anh phải đi trước con lừa.
- Sao vậy?
- Nếu không, nó dở chứng chạy một mạch xuống đáy vực lôi cái xác anh theo, hoặc may mắn anh buông được nó ra, nó bỏ anh lại một mình trên vách vực cho bỏ tức.
- Khó nhỉ!
- Để em phụ giúp anh leo lên lưng lừa.
- Ai lại làm ngược đời như vậy. Bọn đàn ông tụi anh phải giúp các bà các cô lên ngựa chứ.
- Anh có chắc là anh lên một mình được không?
Chàng chần chừ.
- Thôi để em lo cho anh cho chắc ăn.
Chàng đùa:
- bây giờ em giúp anh lên lưng lừa, khi khác đền lại anh sẽ giúp em leo lên ngựa.
Nàng lượm yêu:
- Anh lại hoodoo rồi, anh Hoodoo ơi!
Nàng gọi chàng là Hoodoo trong lần Gặp Nhau Để Khóc năm vừa rồi tại Bryce Canyon. Mỗi lần gặp nhau để khóc, khi chia tay, hai người lại đặt cho nhau một cái tên để gọi nhau lần tới. Theo truyền thống da đỏ ngày xưa, khi mới sinh ra con người không có tên, sau đó do những đưa đẩy của cuộc đời, người đời lúc đó sẽ đặt tên cho người đó một cái tên để gọi. Một cái tên đời. Hoodoo là những khối thể, những hình tượng đất, đá bị soi mòn thành những hình thù thiên hình vạn trạng. Tuyệt vời nhất là những Hoodoo ở Bryce Canyon mà người da đỏ Paiute gọi là "Unka-Timpe-Wa-Wince-Poch-Ich" (vực những tượng đá đỏ hình người đứng trong lũng vòng cung). Họ cho rằng những kẻ có tà tâm đã bị thần linh biến thành tượng đá hoodoo đày ở đó.
Chàng gọi nàng là Quất Hồng Bì, trái quất da đỏ, Red Skinned Kimquat. Nàng đỡ chàng lên lưng lừa và kiểm soát lại một lần chót.
- Anh cứ thoải mái mà chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Grand Canyon. Ở mỗi độ cao Grand Canyon có một vẻ đẹp khác nhau.
- Để em đi trước dẫn đường. Nhớ đừng có gượng lại hoặc nhoài người ra ngoài vực làm mất thăng bằng, con lừa sẽ quăng anh xuống vực để cứu mạng nó trước. Cẩn thận, xẩy chân, lỡ bước là mất mạng đấy.
Chàng nhìn xuống dưới, vực sâu thâm thẩm không thấy đáy. Chiều sâu thẳng đứng Đại Vực chừng một dặm Anh, hơn một cây số sáu. Bề ngang Đại Vực từ bờ bên này đến bờ bên kia khoảng hơn mười một dặm theo cánh chim bay.
Nghe mấy lời dặn dò của nàng chàng thấy lạnh cẳng.
- Nào lên đường. Chúng mình bắt đầu khởi hành từ cái mốc thời gian ngày hôm nay, sẽ đi ngược dòng thời gian, đi xuôi về quá khứ, sẽ đi về miền đất cả tỉ năm trước. Chúng mình sẽ đi qua cái hành lang thời gian.
Con vật bình thản bước những bước chân vững chải, tự tin trên lối mòn cheo leo, ngoằn ngoèo, uốn khúc ôm sát vách đá dựng đứng. Gió hú trong lòng vực. Vách Đại Vực phân thành nhiều tầng địa chất màu sắc khác nhau. Vách trông như những tầng bánh sinh nhật, trông như một tấm thảm Navajo sặc sỡ, trông như một tấm vải sơn cước, trông như một cái váy Thượng, một cái váy Mường, một cái váy sutam da đỏ. Vách Đại Vực là một tấm thảm thời gian mà mỗi sợi chỉ màu tạo hoá đã phải mất từ mấy trăm triệu năm tới trên ngàn triệu năm mới dệt xong.
Hai người dừng lại nghỉ xả hơi chỗ mõm đá nơi con đường được mở rộng ra một chút làm chỗ ngắm cảnh và để những con lừa đi chậm tránh chỗ cho những đoàn lừa đi sau qua mặt. Gió vực lồng lộng, tươi mát.
- Em chỉ cho anh xem cái này hay lắm.
Nàng dẫn chàng đến chỗ vách đá. Có hai con ốc địa khai đang yêu nhau. Triệu triệu năm trước nơi đây là biển. Khi biển rút đi, có lẽ lúc lìa đời hai con vật đã tìm đến nhau. Hàng triệu năm sau hai con ốc vẫn còn yêu nhau.
- Em muốn chúng mình như hai con ốc địa khai.
Chàng đưa bàn tay lên hất mái tóc gió đánh rối qua bên, lấy mũi mình cọ vào mũi nàng:
- Xin cầu thần linh cho được như nguyện.
Bên dưới, nhìn xuống vẫn chưa thấy đáy vực.
Mật trời vẫn còn khuất vách Đại Vực. Ngấn nắng mới chỉ vạch phần trên cao vách đá.
Càng đi sâu xuống chàng càng cảm thấy say "lừa". Chàng thấy choáng váng, xây xẩm mỗi lần con vật bẻ góc quẹo gắt ở chỗ những khúc quanh mỏm đá nhô ra ngoài lòng vực. Chàng ôm cứng con lừa. Con vật nhiều lần lắc đầu tỏ ý không bằng lòng. Cuối cùng con vật đứng ỳ lại không chịu đi nữa. Chàng thúc cẳng nhẹ vào sườn nó. Nó vẫn đổ lì không nhúc nhích. Nhớ lời dặn, chàng không dám thúc mạnh con vật. Chàng chịu thua, nhảy xuống đất. Chàng kéo con vật cũng không chịu đi. Nó ngồi bệt xuống đất ăn vạ. Người con gái đi một quãng xa mới khám phá ra chàng gặp trở ngại với con vật. Nàng nhảy xuống đất, cột lừa vào mỏm đá đi lộn ngược lại phía chàng.
- Chuyện gì vậy anh?
- Nó đổ lì ra không chịu đi nữa.
Người con gái tiến tới vỗ về con vật. Nàng nựng nó. Con vật ngoan ngoãn đứng dậy để nàng dắt đi.
- Để em đổi con lừa của em cho anh. Con này nó giận anh rồi!
Chàng ngửng nhìn lên phía trên bờ Đại Vực. Chưa đi được một nửa chiều sâu.
- Còn lâu không em?
- Mới đi được chừng vài miles. Lối mòn này dài tổng cộng tám dậm Anh.
Chàng đổi lừa. Con vật cũ của chàng thuần thục, ngoan ngoãn với nàng. Một vài con sóc đuôi trắng, tai xù ngồi vắt vẻo trên cành cây đang ăn hạt.
Đi được vài dặm con lừa chàng đang cưỡi bắt chước con cũ, bất mãn, đứng ỳ lại. Chàng kêu cứu nàng.
- Anh lại làm mất lòng nó rồi.
Nàng dỗ dành, vỗ về, phủ dụ con vật. Nó vẫn từ chối không chịu đi.
- Mệt rồi! Điệu này chắc phải bó anh bằng poncho quẳng anh lên lưng nó, họa may nó mới chịu đi.
- Sao vậy?
- Gói anh lại như thế chúng sẽ coi anh như một món đồ.
Nàng nhìn chàng tủm tỉm cười, "Nó coi anh như một cái xác. Một cái xác thì coi như làm việc nghĩa, vì lý do nhân đạo nó sẽ không phản đối đâu, anh muốn thử không?"
Hoodoo phản đối.
- Thà anh đi bộ còn hơn.
Nàng chọc:
- Ừ. Để anh đi bộ cho biết giò cẳng anh ra sao! Hồi xưa mấy cô gái da đỏ sống ở đây thử chồng bằng cách bắt những anh chồng tương lai leo lên leo xuống Đại Vực để xem đầu gối có tốt hay không.
- Tại sao em và anh không cưỡi chung một con, còn một con để tải đồ?
- Có anh ngồi chung chúng không chịu đâu, chúng ghét anh rồi.
- Nhưng có em chắc chúng chịu.
- Hai người nặng quá chúng hất chúng mình xuống vực.
- Cứ thử xem.
- Với một điều kiện.
- Điều kiện gì cũng được.
- Anh không được gọi em là Red Skinned Kimquat nữa.
- Quất Hồng Bì là tên Việt chỉ một thứ quất vỏ đỏ, có gì đâu mà em không thích.
- Kimquat là một thứ quả chua phải không?
- Kimquat cùng họ với quít, chanh...
- Có nghĩa là hanapagea phải không?
- Quả chua không hẳn là không tốt, không hẳn là hanapagea. Người Việt có câu nói "của chua ai thấy cũng thèm", hoặc "chanh cốm" chỉ một người con gái đang độ, đang thì, hấp dẫn...
- Em có cảm tưởng anh hoodoo với em. Vả lại em không thích chữ Red Skin.
- Vậy khi Gặp Nhau Để Khóc lần tới anh sẽ gọi em tên khác.
Người con gái dắt con lừa của chàng vào sát vách đá, tháo đồ chuyển qua con vật nàng đang cưỡi.
- Anh phải ngồi yên, để em điều khiển.
Nàng cột con lừa chở đồ vào phía sau con vật hai người sẽ cưỡi. Người con gái dỗ dành con vật rồi leo lên trước, sau đó kéo chàng lên lưng lừa. Mấy bước đầu, nàng cẩn trọng lái con lừa đi ngang, đưa đít sát vào vách núi. Chàng nín thở, hồi hộp. May mắn con vật không phản đối. Ngấn nắng theo hai người đi dần xuống đáy vực và đi nhanh hơn.
Khi ngừng lại ở một chỗ ngoạn cảnh cho con vật dưỡng sức và hai người ăn trưa, chàng nhìn tầng địa chất hỏi người con gái.
- Chúng mình đã xuống tới thời đại nào rồi em?
- Chúng mình đã xuống tới lớp Vách Đỏ Đá Vôi (Red Wall Limestone), địa tầng Mississippi.
- Như thế có nghĩa là mấy trăm triệu năm rồi chúng mình chưa thương nhau!
- Ba đến năm trăm triệu năm.
Chàng chồm tay ôm người con gái vào người. Hai người cọ mũi vào nhau.
- Cái hôn này chúng mình lặp lại cái hôn năm trăm triệu năm trước chúng mình đã hôn nhau.
Khi lên lưng lừa tiếp tục đi người con gái dặn:
- Anh ôm em chặc vừa thôi, có nhiều lúc anh ôm em chặc quá đến ngộp thở.
Mặt trời đã thấy thấp thoáng ở mép bờ vực. Một vùng xanh tươi đã thấy ở dưới đáy vực. Ngồi ôm người con gái trên lưng lừa, Hoodoo thấy an tâm, không còn bị "say vực thẩm", "say lừa" nữa. Bây giờ chàng thấy ngây ngất say tình yêu. Mái tóc huyền đông phương phất phơ trước mặt, thoang thoảng thơm mùi gió núi hương rừng hoang dã. Con vật bây giờ bước những bước vững chải, thoăn thoắt. Màu sắc Đại Vực không lúc nào giống nhau. Những khối thể thay đổi hình dạng.
Đang đổ dốc ngon trớn nàng kéo dây cương dừng lừa lại.
- Chuyện gì vậy em?
Nàng không trả lời, nhảy xuống đất. Một tay giữ chặc thân cây, nàng nhoài người ra ngoài lòng vực nhặt một cái vỏ lon bia còn vướng ở một bụi cây. Nàng bóp bẹp cái lon bỏ vào túi đồ rồi leo lên lưng lừa tiếp tục đi.
- Phải mất vài triệu năm cái lon này mới tiêu tan đi được.
Chàng biết nàng không muốn con người làm ô nhiễm chỗ thiên nhiên tuyệt vời này.
Mặt trời đang ở trên đầu, trong khoảng hở giữa hai bờ Đại Vực. Nhiều chỗ hiểm trở, hai người phải xuống lừa đi bộ. Bóng nắng đã nhảy qua bên kia vách vực.
Khi ngấn nắng đi lên gần mép Đại Vực hai người xuống tới đáy vực. Tiếng nước chảy rì rào. Một giải nước xanh xanh. Một rừng cây xanh tươi bao quanh chòm nhà da đỏ nằm giữa những vách đá hồng ngọc. Người con gái cột lừa vào gốc cây bạch dương chỗ có lạch nước cạn. Hai con lừa uống nước ừng ực. Nàng nhìn chàng lắc đầu:
- Nhiều lúc anh làm em sợ muốn chết. Mấy lần anh níu cứng người em làm mất thăng bằng suýt rơi xuống vực.
- Tự mấy con lừa làm anh mất tự tin.
Người con gái bụm miệng cười, lắc đầu.
- Anh làm chúng nó mất tự tin thì có.
Nhìn thấy chàng khổ sở nàng tội nghiệp an ủi:
- Dù sao thì anh cũng còn khá hơn nhiều người. Có kẻ khi xuống tới đáy vực, người dán chặt vào lưng lừa không bóc ra được vì ôm lừa chặt quá. Nàng tiến tới cọ mũi mình vào mũi chàng.
- Chúng mình yêu nhau gần hai tỉ năm rồi nhỉ?
Mặt trời đã khuất bên kia bờ vực. Trên đầu chỉ có một giải trời xanh, trông như một giòng sông xanh. Một vài cụm mây trắng trông như những đám bọt trắng. Bóng nắng phản chiếu dưới lòng vực mềm dịu. Không khí mát và ẩm.
- Tối nay cô y tá ở đây cho ăn cơm. Bây giờ mình tới nhà trọ.
Nghỉ ngơi xong hai người lên đường đi đến xóm nhà trọ. Căn nhà cho du khách thuê là một căn nhà vách đá, mái ngói lợp theo kiểu "sơ khai" da đỏ. Ngói được đặt theo một nghệ thuật "lung tung", không theo đường lối nào cả. Căn nhà trọ có đủ tiện nghi căn bản, không phải là những cái lều cây hình vòm wickiups của người da đỏ như chàng trông đợi.
Trong khi nàng đem lừa tới chỗ chuồng lừa, bến của cùng chủ lừa ở trên bờ vực để trả lừa cho họ chăm sóc. Hoodoo đi tắm rửa rồi lăn ra nằm nghỉ cho dãn gân dãn cốt. Ở đáy Đại Vực, trời chiều lúc nào cũng như hoàng hôn.
Khi người con gái trở về trời đã tối. Nàng về cùng với một người đàn bà da đỏ nhỏ người, thấp, tóc để dài chấm vai, mắt đen láy, rất sáng, mặc áo cổ rùa, quần tây.
- Anh, đây là chị Mây Hồng, y tá trưởng trạm y tế ở đây. Tụi này gọi chị là Chipiya, vì chị nhanh nhẹn, vui tươi như con chim chuyền.
- Chào bác sĩ.
- Chào cô.
- Tối nay mời bác sĩ lại nhà em ăn bữa cơm da đỏ.
- Chúng mình đi là vừa anh. Anh lấy giày moccasin đi cho êm chân.
Ba người leo lên con đường mòn men theo vách đá.
- Đi tắt lối này cho gần.
- Bọn này đã thảo luận chương trình ngày mai rồi. Sáng mai anh ghé lại bệnh xá thăm một chút rồi chúng mình ra nghĩa trang của "Những Người Xưa" dọn dẹp, trùng tu lại. Những người da đỏ sống vì mồ mã tổ tiên rất nhiều nên em bảo họ tổ chức tảo mộ và chúng mình sẽ đóng góp vào đó.
- Nên lắm.
- Tối nay, chị "Chim Con" có mời lão shaman lại ăn cơm với chúng mình.
- Shaman là ai?
- Shaman là người thầy thuốc da đỏ, người Mỹ gọi là medicine man.
- Tốt. Tôi muốn được xem ông ta chữa bệnh một lần cho biết.
Đổ hết con dốc ba người đến một chòm nhà đá xây trên đồi đất cao.
- Mời bác sĩ vào lối này. Nhà em đây.
Chàng bước qua ngưỡng cửa. Bên trong màu sắc da đỏ rực rỡ, ấm cúng. Tiếng cười nói vang rộn, khác hẳn cảnh trời tối âm u, giá lạnh bên ngoài nơi đáy Đại Vực. Một người đàn ông mập và lùn, tóc dài, cột đuôi heo sau gáy, đón chàng.
- Giới thiệu bác sĩ đây ông xã em.
Hắn đưa tay mời chàng vào nhà trong. Bên trong lố nhố những người. Bàn ăn ngay sát bếp lửa. Người đàn ông giới thiệu chàng với vài chức sắc ở đây, chàng nhận thấy chưa có lão thầy thuốc shaman, người mà chàng muốn gặp đêm nay.
- Bác sĩ dùng trà, đây là trà của người da đỏ nấu bằng cây rừng như cây từ bi, cây đan sâm...
- Cám ơn cô.
Chén trà thơm mùi tinh dầu làm gợi ký ức chàng nhớ lại mùi nước xông hơi cỏ thơm.
- Này, quá giờ rồi mà thầy shaman chưa đến, chúng ta khởi sự trước đi...
- Chờ ông ta thêm tí nữa. Chắc ông ta kẹt chữa bệnh cho bà Ba Béo. Mụ ta bỏ tây y đến nhờ lão chữa chạy. Chắc đêm nay đang nằm nghe lão hát bài "Tiễn Đưa".
- Bác sĩ dùng hạt thông rang. Đây là hạt thông pinyon.
Những hạt thông nóng hổi rang trên chảo đá đẻo vừa đổ ra cái đĩa đồ gốm da đỏ. Những hạt thông thơm, ròn, bùi, ngậy, béo, phảng phất mùi tinh dầu thông ăn vào thấy ấm người và thơm hơi thở.
- Những hạt thông này là món ăn chính về mùa đông của những "người sống trên đồi thông già Walapai".
Mọi người nhẩn nha ăn hết mẻ hạt thông rang mà lão shaman chưa thấy đến.
- Thôi mời tất cả khởi sự dùng bữa, chắc thầy Bob mắc kẹt rồi.
- Hy vọng bác sĩ dùng được, đồ ăn của chúng tôi ở dưới khe vực này chỉ có rau đậu, bắp, bầu bí, chim thú săn và thịt rừng.
Hoodoo nhận diện ra một món ăn nhà quê Việt Nam.
- Tôi nghĩ món này người Việt chúng tôi cũng có.
- Món này là món "cháo đặc" nấu bằng bột bắp.
- Chúng tôi gọi là bánh đúc ngô.
- Bắp được cà ra thành bột rồi đem ngâm nước tro của cây tùng cho hết mùi nồng và làm cho bột bắp ngọt rồi mới đem nấu.
- Chúng tôi dùng nước vôi. Tôi nghĩ vôi với tro cùng một họ hàng với nhau, cùng là chất kiềm cả.
- Hay nhỉ!
- Chúng mình cùng một tổ tiên.
Món thỏ rừng nấu đậu và những hạt cây rừng, rễ cây rừng mường tượng như món tiềm thuốc bắc. Món cà, bí nướng than hồng nóng hổi. Món dồi bao tử cừu tương tự như món dồi lòng heo của Việt Nam. Bao tử được nhồi thịt bạc nhạc bằm, đậu, huyết, rau thơm, những hạt cây rừng... rồi đem luộc.
Một người đàn bà ngồi làm "bánh tráng bắp" bên lò lửa. Bà ta gắp ra một trong những hòn đá đã mài nhẵn đang được nung nóng trong than hồng. Mặt đá được lau sạch và thoa một lớp nhựa thông pinyon bóng loáng trông như mặt đá cẩm thạch đen đánh bóng. Bà ta dùng cái muỗng làm bằng sừng dê núi đổ nước bột đặc lên hòn đá nung, rồi dùng mấy ngón tay xoa đều bột trên hòn đá. Bột nướng chín phồng trên mặt đá nóng bỏng. Người đàn bà bóc từng cái bánh tráng ngô nướng cho những thực khách dùng. Nhựa thông vừa sạch vừa làm cho bột không dính vào mặt đá. Bà ta làm thoăn thoắt, điệu nghệ, đủ cũng ứng cho đám thực khách. Bánh thơm dòn, nóng, có mùi nướng lửa, bùi, ngọt và có mùi nhựa thông. Ăn vào gợi nhớ đến bánh mì "nan" của người Ấn Độ, người Ba Tư và tortilla của người Mễ.
- Bác sĩ có thể dùng "giấy bắp" đó để gói thức ăn hoặc ăn như ăn bánh mì theo kiểu người Hico.
Người đàn ông cười hề hề:
- Chúng tôi gọi người da trắng là Hico.
Món Hoodoo thích nhất là món ớt cay rán dòn. Vị cay đã rán chín có thêm vị cháy, nóng, bỏng. Món xương rồng "lê gai" (prickly pear cactus) xào lăn với thịt cắc kè chuckwalla ăn vẫn còn ngại miệng.
- Bác sĩ không uống rượu à?
- Không.
Người da đò uống rượu như hủ chìm. Trên bàn ăn có đủ mặt các loại rượu quí tây phương và các loại "đế" da đỏ.
- Ông phải dùng một chút rượu sa mạc cho biết.
- Rượu sa mạc chắc "khô và cháy".
- Rượu này làm từ lõi cây agave thường gọi là rượu mescal.
- Cho tôi xin một chút uống cho biết.
Chàng nhấp thử một ngụm. Mùi vị phảng phất cây quả dại lên men. Phảng phất vị chua chua ngọt ngọt của rượu cần Tây nguyên. Càng về cuối, bữa tiệc càng giống như một bữa nhậu nhẹt ở một vùng quê, một vùng rừng núi ở Việt Nam mà ngày trước chàng đã từng tham dự.
Hoodoo mệt mỏi muốn về ngã lưng nghỉ ngơi.
- Bác sĩ dùng kẹo xương rồng tráng miệng.
Chàng cáo từ về sớm.
- Tối nay em ở lại đây, anh về ngủ ngon nghe, sáng mai chúng mình đi sớm. Em nhờ chú Dưa Hấu Somaja đưa anh về chỗ nhà trọ.
- Tối nay chân tay cong vòng vì ôm lừa và ôm em, chắc phải có cái gì ôm mới ngủ được.
- Cho anh mượn một cái totem làm gối ôm nghe?
- Totem người đẹp cũng được.
- Anh liệu hồn đó. Đây là đất của em. Cô nào, bà nào lộn xộn, theo luật của người da đỏ, em cho người đem bỏ sa mạc cho chết khát. Còn anh mà léng phéng là bị lột da đầu đấy. Anh biết rõ hơn ai hết con dao mổ scalpel (3) của các anh là hậu thân của con dao lột da đầu của người da đỏ.
- Đem dao mổ ra dọa Bác sĩ thì bác sĩ phải sợ rồi. Nhưng tối nay ai kể chuyện dỗ ngủ cho anh? Ai sẽ là storyteller cho anh? Ai sẽ là narro-gwe-nap cho anh?
Ra ngoài nàng vỗ về:
- Anh chịu khó đi. Tối mai em kể chuyện bù lại. Về đây em phải sống với họ một chút.
Hoodoo hiểu nàng muốn nói gì.
- Ngủ ngon, sáng mai em đến đó sớm.
Chàng vẫy tay từ giã.
Gió rít từng luồng lạnh giá. Trời sáng trăng nhưng không thấy mặt trăng đâu. Trên đỉnh đầu một giải trời như dòng sông bạc lấp lánh ánh sao. Những ngôi sao nhìn từ đáy vực sáng lung linh như những hạt kim cương. Người thanh niên da đỏ tóc cắt theo kiểu "nhà lầu" hai ba tầng, mặc quần áo da nai.
- Đi ngả này ông.
- Tại sao người ta gọi cậu là Dưa Hấu?
- Ồ, tên tôi là Sam. Dưa Hấu là tên gọi ở nhà. Mẹ tôi đẻ rơi tôi ngoài vườn dưa hấu cho nên mọi người gọi tôi là Somaja tiếng da đỏ là dưa hấu. Thân mật mọi người ở nhà gọi tôi là Som. Khi đi học thầy giáo nhiều chữ nghĩa quá nên viết sai thành tên Mỹ là Sam.
Cây cỏ đẫm ướt sương lóng lánh ánh trăng như có ánh kim loại. Những bụi cây bên giòng nước phủ một lớp phù sa khoáng thạch trông như cây làm bằng thiếc, bằng bạc. Trông thật lạnh. Tiếng nước chảy rì rào. Tiếng côn trùng rả rích.
- Ông là bác sĩ hả?
- Ừ.
- Hồi trước tôi cũng muốn làm thầy chữa bệnh nhưng tôi không có mạng, không có cốt làm thầy thuốc nên không thể làm được.
- Cậu không được nhận vào trường y khoa à?
- Trường gì? Tôi muốn làm shaman.
- Không có mạng là sao?
- Muốn làm shaman phải qua một cuộc thử thách với thần linh, phải có khả năng thấy những điềm mộng. Khi một shaman sắp chết hoặc đã mất khả năng chữa bệnh, họ sẽ truyền lại cho con hay bất cứ người nào có phần mệnh được làm shaman. Không phải ai cũng làm shaman được.
- Thử thách như thế nào?
- Trước hết mình phải uống những linh dược để liên lạc với thần linh. Hồi đó ông ta cho tôi uống Jimson Weed, tôi bị giật gần chết. Ông biết Jimson weed chứ?
- Biết. Đó là cây cà độc dược chúng tôi gọi là Datura stramonium. Ngày trước người ta dùng lá làm thuốc lá chữa bệnh suyển và dùng hạt làm thuốc chữa đau bụng... nhưng dùng quá liều sẽ gây ra ảo giác, có thể bị ngộ độc chết người.
- Lúc đó tôi ngất ngư gần chết nên óc tôi không tạo ra được những mộng mơ hầu có thể ứng khẩu ra được những lời tiên tri. Tôi cũng bất lực không liên lạc được với thần linh để chẩn bệnh...
- Cậu còn phải trãi qua những thử thách nào khác nữa không?
- Tôi bị loại ra ngay sau khi uống nước Jimson weed đó nên không rõ những thử thách khác.
- Tôi muốn được xem shaman chữa bệnh một lần.
- Phải xin phép ông ta trước. Shaman không muốn có sự hiện diện của người lạ trong khi chữa bệnh.
- Tôi biết. Nhưng nếu cần một chút tiền cho shaman dùng vào việc chữa trị bệnh nhân tôi sẵn sàng giúp.
- Để tôi nói lại với ông ta.
Một con vật nhảy qua lối đi làm Hoodoo giật mình đứng lại thủ thế.
- Con thỏ rừng đấy ông.
Hoodoo đã nhận ra căn nhà trọ gần khu trường học.
- Ông đã ăn khô xương rồng chưa?
- Chưa. Tôi đã ăn khô cá, khô mực, khô nai, khô bò nhưng chưa ăn khô xương rồng.
- Vào sa mạc ông phải ăn khô xương rồng.
- Ở đâu bán thứ đó.
- Nếu ông muốn tôi mua hộ cho ông. Hai mươi đô la một gói.
- Xương rồng gì mà đắt vậy?
- Loại xương rồng này chỉ mọc nhiều ở vùng phía Bắc sông Rio Grande, Texas. Ông cưỡi lừa xuống đây đêm nay thịt xương rã rời, thứ xương rồng này sẽ làm cho ông dãn gân dãn cốt, ngủ ngon.
Hoodoo im lặng, chàng không muốn bị những kẻ lạ lôi cuốn, dụ khị vào những việc mua bán phiêu lưu, những kẻ này chàng thường gặp mỗi khi du lịch. Khi bước lên thềm căn nhà trọ, người thanh niên móc trong túi ra một cái bao nhỏ.
- Đây, khô xương rồng của ông.
Hoodoo nhìn người thanh niên nhận thấy hắn có ý ép buộc chàng phải mua món hàng. Nếu không mua, không biết chuyện gì sẽ xẩy ra.
- Tôi không có đem tiền theo, mai cậu trở lại.
- Tôi chờ ở ngoài này cũng được. Tôi sẽ nói chuyện với shaman Bob về đề nghị của ông.
Hoodoo mở cửa lách mình vào trong, cài cửa lại. Nghe hắn nhắc tới người shaman, chàng móc ví lấy tiền rồi hé cửa đưa hắn. Người thanh niên trao cho chàng gói khô xương rồng.
- Chúc ông ngủ ngon, nhiều mộng đẹp.
Hắn biến mất trong nháy mắt. Mệt mỏi chàng thay nhanh quần áo ngủ rồi leo lên giường ngã lưng.
Hoodoo trằn trọc mãi không ngủ được. Đêm dưới đáy vực lạnh và đầy âm khí. Có lúc chàng có cảm tưởng đang nằm ở dưới một đáy huyệt khổng lồ. Ánh trăng bên ngoài thật nhợt nhạt, thật lạnh, thật liêu trai, thật ma quái. Thịt xương sau một ngày cưỡi lừa đi xuống vực bây giờ mới co rút. Chân tay, lưng, cổ đông cứng, người như bị bó bột cứng đơ. Khắp người đau nhức nhừ tử. Suốt một ngày ôm cứng con lừa bây giờ người cong vòng chàng thấy thiếu một cái gì để ôm. Nhìn gói khô xương rồng để ở cái bàn đầu giường trong tầm tay với, nhiều lần chàng nhớ lại lời người thanh niên muốn nhai một miếng khô xương rồng xem có dỗ được giấc ngủ hay không? Cuối cùng chàng lấy cái áo choàng của Quất Hồng Bì cuộn lại làm gối ôm.
Chàng ngủ vùi cho tới khi có tiếng gõ cửa. Hình như người thanh niên trở lại cùng với một người da đỏ to lớn. Có lẽ hắn là lão shaman. Lão gõ cửa ầm ầm, hối thúc, giận dữ...
Chàng nhảy xuống giường. Trời bên ngoài sáng trăng. Tiếng gõ cửa dồn dập, bồn chồn. Chàng nhận ra Quất Hồng Bì đang gõ cửa.
- Em không ở lại nhà cô y tá ngủ à?
- Anh còn mơ ngủ hay sao? Sáng rồi.
- Anh cứ tưởng hãy còn đêm.
- Hãy còn trăng nhưng thật ra ở trên kia là sáng rồi. Dưới này gần trưa mới thấy mặt trời.
Hoodoo cố nhớ lại xem có phải lão shaman đêm qua đã đến đây hay không. Chắc chàng đã nằm mơ.
- Đêm qua anh ngủ muộn à?
- Ngủ không được, thiếu cái ôm.
- Sáng nay phải đi sớm. Anh làm vệ sinh cá nhân đi. Em có đem đồ ăn sáng cho anh đây.
Nàng thấy cái áo choàng của mình cuộn tròn nhàu nát trên giường, cảm động:
- Tội nghiệp anh chưa!
- Em nói gì?
- Anh ôm áo của em ngủ đấy à?
- Ừ. Nhờ hơi cái áo của em mới ngủ được đấy.
Nàng tiến tới ôm chàng, cọ mũi hôn chàng.
- Tội nghiệp chưa!
Chàng đi vào nhà tắm.
- Anh có muốn uống trà Mormon không?
- Pha cho anh đi.
Trà Mormon hái từ những cây cỏ thuộc họ cây Ma Hoàng. Trà có chất Ma Hoàng Ephedrine uống tiêu đàm, thông mũi. Người con gái dọn ăn sáng ngoài sân sau. Xong xuôi nàng đi thay đồ.
- Il-la!
- Ý da cái gì em?
- Anh lấy cái gói này ở đâu vậy?
Hoodoo nói dối.
- Anh thấy trong học bàn.
- Anh có nhai mấy cái nụ hoa xương rồng này không đó?
- Chưa. Bộ anh là con nít sao, bạ gì nhai đó. Biết nó là cái gì mà nhai.
- Đây là "rễ quỉ, raiz diabólica" phơi khô. Nhai vào là động dại lên rừng đó.
Hoodoo đi ra, vừa đi vừa cạo râu.
- Tên nó là gì vậy.
- Peyote. Người Aztec gọi nó là peyote có nghĩa là con sâu róm. Những cái nụ hoa xương rồng này có chùm lông trên đầu trông giống như con sâu róm.
Chàng ngồi vào bàn ăn.
- Peyote thì anh có nghe nói tới.
- Nó là một thứ xương rồng ma tuý nhai vào sẽ thấy những ảo giác ánh sáng, ảo giác màu sắc, ảo giác âm thanh và thấy mộng ảo. Người da đỏ gọi là "cái độc nhiệm mẩu"!
Mặt trăng hãy còn xê xế trên bờ miệng vực. Sương khói tỏa mờ, chỗ dầy, chỗ mỏng, chỗ lãng đãng, chỗ la đà. Nhìn lên cao, Đại Vực trông như một bức tranh thủy mạc Đông Phương.
- Em, ăn sáng với anh luôn. Chưa bao giờ anh ăn sáng dưới trăng.
- Phải nói là ăn sáng dưới trăng ở đáy Grand Canyon.
- Trứng này là trứng gì vậy em?
- Trứng Gila monster đó.
- Thật không?
- Tin em đi!
Hoodoo để quả trứng xuống.
- Tin em chứ. Tin em nên anh không ăn đâu.
Du khách thăm viếng vùng đất Canyon, Sa mạc Màu (Painted desert, Desertio Pintado), Rừng Cây Hoá Đá (Forest of Petrified Trees) tại Arizona thỉnh thoảng thấy ở những trạm xăng, những tiệm bán kỷ vật dọc đường có để những cái bảng có đề mấy chữ "Live Gila monster", hoặc nhiều khi chủ tiệm cho người đứng là hét thật lớn "Quái vật Gila sống!" để lôi kéo khách hàng. Gila monster là một giống kỳ đà màu cam và đen rất độc sống ở vùng sông Gila, Arizona.
Nàng cười:
- Đùa với anh đó, trứng đa đa.
- Hôm nay trông em da đỏ hơn bao giờ hết. Trông em giống như Cô Công Chúa Da Đỏ Nhỏ Bé, Little Indian Princess trong truyện Peter Pan.
- Hôm nay đi tảo mộ nên em muốn sống với tổ tiên, làng xóm.
Nàng hôm nay quấn băng đô vẽ những hình kỷ hà da đỏ ngang đầu, mặc áo da nai thêu cườm, cổ đeo bùa hộ mạng và xâu chuổi nhiều vòng. Mỗi lần Gặp Nhau Để Khóc, để kỷ niệm, nàng lại móc thêm vào một "vòng kết tình, kết nghĩa". Xâu chuổi có cả trăm những ngẫu vật, bái vật da đỏ, đủ màu, bằng ngọc lam, ngọc thạch, ngọc huyền, mã não, mắt cọp... nào chim, nào gấu, nào sói, nào rắn, nào rùa... tay đeo vòng bạc dát lam ngọc, đeo bùa cườm ngũ sắc, mặc quần tua, đi giày moccasin.
- Khi về thành phố em phải phấn đấu để sống hoà mình với văn hoá tây phương, lúc về với những người đồng chủng em cũng phải phấn đấu để sống hoà điệu với họ. Nhiều khi phải oà lên khóc ở cả hai cuộc sống.
- Chúng mình là những cây thông pinyon mà em.
- Anh, sửa soạn đi là vừa.
Nàng dọn dẹp vội vàng.
Ngấn nắng hãy còn nằm trên mép Đại Vực. Khi đến bệnh xá người y tá đã chờ sẵn ở đó.
- Đêm qua bác sĩ ngủ ngon chứ?
- Tôi mệt nên ngủ lăn, ngủ lóc như khúc gỗ.
- Thế mà có người cứ lo cho bác sĩ...
- Cô "hót" vừa vừa chứ, Chim Con.
Chàng theo hai người đi một vòng thăm bệnh xá.
Bệnh xá làm gợi nhớ đến một cái bệnh xá nào đó ở trên cao nguyên miền Trung Việt Nam. Ở đây nếu có khác chỉ khác ở chỗ bệnh xá trang bị tối tân hơn, có đủ cả điện thoại, máy copy, máy fax, y cụ, thuốc men thừa thãi... Bệnh xá lèo tèo vài con bệnh. Bùa và ngẫu tượng da đỏ thấy khắp nơi. Con bệnh ở đây cũng ghét nằm bệnh xá, cũng thích chết ở nhà. Họ thích chết trong tay shaman. Lúc lìa đời họ muốn nghe tiếng hát chữa bệnh, tiếng hát cầu hồn, tiếng hát cầu siêu. Họ muốn nghe tiếng trống rung, tiếng lục lạc. Họ muốn nhìn những điệu nhẩy múa... Phần lớn những con bệnh nằm ở đây bị lao phổi, chai gan, nghiện rượu, phong thấp nặng...
Hoodoo ghi chép lại những điều chàng thấy cần góp ý cho Quất Hồng Bì để nàng đề nghị hoặc thực hiện những tu sửa, kể cả về phương diện y học, hành chánh, văn hoá xã hội.
Khi rời bệnh xá Hoodoo hỏi "Chim Con":
- Ở dưới này, có ông thầy thuốc Tầu hay ông lang Việt Nam nào hành nghề đông y không, Chipiya?
- Không có, bác sĩ!
- Tôi thấy mấy con bệnh có những vết cắt ở bụng, ở trán. Trong Đông Y có môn lể, cắt, giác, cứu ngải nhiều khi để lại những vết sẹo trên người bệnh nhân.
Mọi người hôm nay đều trở về sống với tổ tiên, với những người xưa. Màu sắc da đỏ thiên nhiên, sặc sỡ, vui tươi. Những người nhảy múa mặt mũi, thân người vẽ phẩm màu... mặc quần áo, đội mũ lông thú, lông chim... Mọi người nhảy vũ điệu Ghost Dance. Chiêu Hồn Vũ này đã có từ lâu nhưng đã được làm sống dậy từ thời người da đỏ bị người da trắng hico tàn sát. Những dũng sĩ da đỏ đã gục ngã thảm bại trước những "gậy lửa" (súng) của người Hico. Vì thế những pháp sư da đỏ đã làm sống dậy Chiêu Hồn Vũ để giữ vững tinh thần chiến đấu của người da đỏ và cầu xin, trông cậy vào những vong linh người xưa, mong hồn họ trở về phù hộ chiến thắng lại người da trắng. Nhưng rút cục gậy lửa, tên lửa vẫn thắng và người da đỏ nhảy múa vũ điệu Chiêu Hồn này càng ngày càng cuồng nhiệt hơn vì ma da đỏ ngày càng nhiều. Những câu hát cầu hồn lập đi, lập lại, lê thê, não nề. Tiếng trống trận. Tiếng trống thúc quân. Tiếng trống gọi hồn... Mọi người nhảy múa quay cuồng, điên dại. La hét. Kêu gào. Nắm đầu. Giật tóc. Đấm ngực. Xùi bọt mép. Té xỉu, dẫy đành đạch như lên kinh phong... Quất Hồng Bì cũng nhảy loạn cuồng.
Sau lễ tế khởi sự dọn dẹp mồ mã. Hoodoo sắn tay áo lên phụ với mọi người. Khởi đầu khi người da trắng chưa tới đây, người da đỏ thường hỏa táng người chết hoặc chôn. Khi chôn thường chôn theo những tài vật của người chết. Nhà cửa người chết cũng hỏa thiêu luôn. Ngay cả những súc vật như lừa ngựa cũng cho đi theo người chết. Thân nhân người chết cột vào cổ lừa ngựa một miếng da nai tươi thật sát. Con vật được cột vào một cái cọc đóng bên mồ. Miếng da nai khi khô, teo nhỏ lại, xiết dần cổ con vật. Cuối cùng con vật chết vì ngộp thở. Chàng để ý thấy những người chết được chôn đầu quay về phía Tây Bắc. Đầu quay về nguồn cội, quay về Mông Cổ, nơi tổ tiên họ đã rời bỏ mấy ngàn năm về trước. Ở đây cũng có những ngôi mộ của những quân nhân người da đỏ đã bỏ mình vì nước Mỹ trong những trận thế chiến. Hoodoo cắm một đóa hoa dại lên mộ của một người chiến sĩ da đỏ đã bỏ mình trong cuộc chiến Việt Nam. Chàng chắp tay xá ba xá.
Quất Hồng Bì giới thiệu Bob, người shaman với chàng. Hắn bện tóc con rít thả hai bên. Mặt vuông, cằm bạnh. Mặt đỏ dừ. Hắn đeo đồ trang sức đầy người. Chàng bắt tay hắn. Bàn tay hắn cứng và lạnh như thép, ướt dính mồ hôi.
- Hôm qua tôi bận chữa bệnh nên không đến được.
- Tôi hiểu.
Mắt hắn điên dại như mắt một kẻ ghiền rượu, ghiền độc dược, ma tuý. Hai con mắt có thêm ánh vàng của mật gan.
- Ông ở đây lâu không?
- Một hai cái mặt trời (4). Hy vọng được xem ông chữa bệnh một lần.
- Để làm gì?
- Chắc có nhiều điều tôi có thể học hỏi được ở nơi ông.
- Cách chữa bệnh của ông và của tôi khác nhau.
- Nhưng tựu trung có một điểm giống nhau là cứu mạng người. Những mạng người da đỏ ít oi, dân số Havasupai chưa tới năm trăm người, không mạng người shaman quí giá hiếm hoi như ông.
Shaman cười ngạo mạn.
- Ông nói tôi có bệnh sao?
- Theo tôi, ông nên đi khám túi mật xem sao?
- Mật tôi làm sao?
- Tìm xem có sạn hay không.
- Hanaga! Hanaga! Tốt! Tốt! Vậy mong được gặp ông.
Hắn bỏ đi.
- Giờ này các shaman vẫn còn được phép hành nghề?
Chàng hỏi nhỏ Quất Hồng Bì.
- Trong những trung tâm định cư người da đỏ, người ta vẫn làm ngơ cho các shaman hành nghề. Bây giờ cũng không còn bao nhiêu.
- Bác sĩ nghỉ tay uống cốc nước cây rừng.
Người nữ y tá mời.
Chàng nhìn ly nước rồi đưa mắt nhìn Quất Hồng Bì.
- Nước trái cây mesquite nghiền rất bổ dưỡng, anh có muốn uống thử một chút cho biết thì uống.
- Có phải mesquite là loại cây thường dùng làm củi nướng thịt không?
- Đúng vậy. Người ta barbecue thịt trên củi mesquite để mùi thơm của gỗ ướp vào thịt.
Chipiya mời tiếp:
- Bác sĩ nhai "kẹo cao su da đỏ" không?
Chàng đã thấy những người da đỏ vừa làm miệng vừa nhai bỏm bẻm như nhai trầu, nhai thuốc. Họ nhai rồi nhổ như những bà già trầu.
- Đúng hơn phải nói là nhai "khô sa mạc".
- Khô sa mạc?
- Khô mescal. Lõi cây Agave được đem hầm than hồng dưới đất giống như người Hawaii hầm theo kiểu luau, sau đó đập dập ra đem phơi thành khô mescal.
- Tối qua mấy ông cho tôi uống rượu mescal.
- Phải. Cây Agave thuộc họ cây Trăm Năm, cây Thế Kỷ (5) lõi cũng dùng làm rượu mescal. Bác sĩ nhai thử một miếng cho biết.
Chipiya đi lấy đưa cho chàng một miếng khô mescal. Nhai trong miệng chàng có cảm tưởng như nhai một miếng sắn dây. Bùi ngọt vị bột như khoai lang mật. Nhai hết bột còn lại bã như sơ sắn dây như bã trầu. Càng nhai bã càng nở lớn.
- Nhai như nhai kẹo cao su rồi bác sĩ nhả bã quăng đi.
- Nhai nhiều chắc say.
- Anh chưa quen có thể bị động dại lên rừng đó.
Quất Hồng Bì dọa.
Khi dọn dẹp mồ mã xong, Chipiya mời Hoodoo và Quất Hồng Bì ra rẫy nhà nàng ăn trưa. Thịt nai ướp cỏ thơm nướng trên củi mesquite. Bắp bẻ trên cây thoa mỡ hành nướng ngay tại chỗ.
- Bác sĩ biết không? bắp phải ăn ngay dưới gốc cây mới ngọt.
- Mẹ tôi thường bảo bắp mà chở qua sông sẽ mất ngọt.
- Người ta nghiên cứu thấy rằng chín mươi phần trăm chất đường trong bắp biến thành bột trong vòng một tiếng đồng hồ sau khi bắp bẻ khỏi thân cây.
Quất Hồng Bì nhìn ngấn nắng trên vách Đại Vực.
- Chim Con à, chắc tụi này phải lên đường ngay. Tôi muốn dẫn bác sĩ đi vài chỗ rồi sau đó đến thác "Mẹ Của Nước" trước khi trời tối.
- Vậy chị gói thêm thức ăn để đem theo ăn dọc đường.
Quất Hồng Bì không từ chối.
- Chị có cần em lấy thêm nước uống nữa không?
- Đầy đủ rồi.
Hai người đi đến khu chuồng ngựa để lấy lừa.
Hai con lừa mới. Hai người đi qua xóm da đỏ. Làng da đỏ xây trên đồi đất cao để tránh cuồng lưu, nước lũ, ngập lụt. Không còn thấy những cái lều da đỏ hình vòm bằng tranh wickiups hay những lều cây trét đất hogans trông như những gò mối cao nữa. Hai người đi dọc theo dòng sông xanh nước chảy xiết, trong veo. Cỏ cây xanh um trông cách biệt hẳn những phần đất nâu đỏ trơ trụi còn lại. Dòng sông Havasu đổ vào con sông Hackataia, dòng sông Gầm Thét, dòng sông Colorado. Ở đây dòng sông Colorado đục ngầu phù sa, trông như một giải vải nâu uốn khúc trong lòng Đại Vực.
- Hồi nẫy tại sao anh khuyên lão shaman đi khám sạn mật?
- Em không thấy lão nhìn anh đến ứa mật, ứa gan à. Mắt lão ứa mật vàng khè... Em không nhớ người da đỏ có tỉ số bị sạn mật rất cao so với các sắc dân khác hay sao?
- Anh thấy cần phải làm gì cho những người đồng chủng của em?
- Phải chữa trị nhiều thứ, chữa đầu óc bộ lạc, hận thù, chia rẽ, lạc hậu, bảo thủ, mất gốc, ghiền nghiện, nghèo đói, bệnh tật...
Chàng có cảm tưởng như chàng vừa nói cho đồng bào, cho đất nước của chính mình. Hoodoo nhìn giòng nước chảy siết thở dài.
"Bằng mọi giá phải làm sao đừng để những tộc da đỏ như những người của dòng sông xanh này bị tuyệt chủng".
- Đó là điều em lo sợ.
Con sông nhiều chỗ cuồn cuộn chảy như ghềnh như thác khi rì rào, róc rách, lúc cuồng nộ, gầm thét. Thiên nhiên hoang dã cả tỉ năm ở đây có chỗ hãy còn trinh nguyên.
- Anh đã thấy tóc gió chưa? Để em dẫn anh đi xem. Gió Canyon nhiều chỗ đã để lại dấu chân trên sandstone tạo thành những mái tóc tiên. Em thích gọi chúng là tóc gió.
Tóc gió "tung bay" trên đồi đá cát, sa thạch. Ngàn triệu năm gió luồng thổi qua đã khắc, đã chạm trên mặt sa thạch những đường gợn sóng đều đặn óng chuốt rất mượt. Mái tóc gió buông xoả bềnh bồng từ trên đỉnh đồi sa thạch.
- Trông như mái tóc em. Mái tóc bùa mê lần đầu anh đã thấy trong trại tị nạn San Onofre.
- Em chưa có thả bùa, chuốc ngải cho anh đâu!
- Anh muốn đi xem những hang động ở đây.
- Ngày mai có đủ giờ chúng mình hãy đi.
Trời chiều như hoàng hôn.
Cảnh sông nước cuồn cuộn chảy, rừng cây xanh ngát, vách núi đá đang đổi cung bậc màu theo ánh sáng phản chiếu trên mặt đất. Cung bậc màu bây giờ ngã màu tắt dần, tàn lụi. Hoàng hôn ở đây tím hơn bất cứ hoàng hôn tím nào chàng đã thấy.
- Bây giờ chúng mình đến thác rồi tìm chỗ cắm trại qua đêm, kẻo không trời tối quá. Thác này người da trắng gọi là thác Mooney. Họ gọi như thế để tưởng nhớ một người đi tìm mỏ là ông James Mooney. Ông ta đã rơi xuống thác chết khi leo thang dây xuống thác tìm kho tàng. Người da đỏ vẫn gọi là thác Mẹ Của Nước (Mother of Waters)
Những cánh dơi đã rời hang động bay ra.
Tiếng thác thét gầm điếc tai. Cả một dòng sông nước từ trên cao đổ xuống. Một khối pha lê lỏng tung người rơi xuống vỡ tan thành bọt trắng tung toét, biến thành sương khói tỏa mờ trên mặt hồ nước.
- Thác này còn cao hơn thác Niagara.
Hai bên thác một rừng cây liễu, bạch dương, aspen... Trên mặt đất phủ kín dầy đặc, chằng chịt dương xỉ, bụi rậm, cây leo. Rêu mốc, địa tiền phủ mặt đá ẩm ướt. Khoáng chất đọng lại ở những vách đá dựng đứng trông như một thứ mộc nhỉ khổng lồ mọc nhô ra từ mặt vách.
- Chúng mình đi dựng trại trước đã, đêm nay sẽ ra thác tắm và ngắm trăng.
Hoodoo dựng lều trong khi nàng đem lừa đến khu chuồng ngựa.
Hột trăng, Quất Hồng Bì thường gọi trăng là hột trăng, vằng vặc trên mép Đại Vực. Hoang lạnh. Giá băng.
Thác nước như một dòng sông bạc, một dòng sông thủy ngân đổ từ trên cao xuống, gầm thét như sấm rền trong đêm vắng.
Hai người tắm xong leo lên trên tảng đá bằng bên bờ thác nằm cuộn tròn như hai con sâu kèn trong chiếc mền da thỏ.
Đại Vực mơ màng trong sương khói tỏa mờ trông như đất thần tiên, trông như bồng lai tiên cảnh.
- Đêm trăng Đại Vực huyền diệu. Anh không muốn ngủ đêm nay, phí quá.
- Triệu triệu năm sau, chỗ chúng mình nằm đây, trên tảng đá bên thác nước này sẽ biến thành nóc của một cái ống khói tiên.
- Em kể chuyện cho anh nghe đi, em làm một storyteller, làm một narro-gwe-nap đi. Đêm nay kể chuyện gì cho anh tỉnh ngủ.
- Em kể chuyện, anh phải đọc thơ của anh cho em nghe.
- Mới làm được mấy câu, có sao đọc vậy, em chịu không? Thơ này là hứng thơ chưa giủa gọt.
- Em thích vậy, vì bây giờ thơ đó là của em, mai mốt anh đẻo gọt lại nó sẽ là thơ của người khác.
- Vậy để anh đọc.
Nemitiawak, gặp nhau để khóc.
Chia nhau cái mặn, cái nồng,
Ngậm ngải tìm đời châu ngọc,
Vì vu xanh ngát hồn thông.
Cái Grand Canyon,
Cái Vách Son, cái Vách Hồng (6)
Cái cò, cái vạc, cái nông,
Cái khô sa mạc,
Cái khô xương rồng,
Cái anh, cái em, cái bùa yêu tình nồng.
Cái cầu vồng,
thổn thức.
Trong,
giọt nước mắt em, trong.
Trên vách vực,
Triệu, tỉ cái tuyết (4) mùa đông,
Ngủ cái cầu vồng.
Cái hột trăng,
Giá băng,
Đơn lạnh,
Trên bờ Đại Vực, lăn.
Cái em, cái anh cô quạnh,
Giữa cái đời ma, quỉ, sa tăng.
Trên đỉnh ống khói tiên,
Cái trăng Canyon u huyền,
Cái nước, cái non, (7) cái rừng, cái thác,
Cái tình rên như con mèo hen...
Em kể chuyện đi, rồi anh đọc thơ tiếp.
Hoodoo ôm người con gái.
- Truyện hôm nay dài lắm.
- Dài hết đêm trăng này càng tốt.
Người con gái vuốt má, cọ mũi hôn chàng, rồi bắt đầu kể.
Ngày sảu ngày sau, trên tảng đá này, bấy giờ đã trở thành nóc của một cái ống khói tiên, có một cặp tình nhân ngồi kể chuyện thần thoại. Người con gái kể: ngày trước ở nơi Đại Vực, trên cái nấm đá thần này, có một người con gái kể chuyện cổ tích cho người yêu. Nàng kể chuyện như vầy: ngày xưa, trên nóc cái demoiselle (8) này, có một người con gái kể chuyện thần tiên cho người tình. Nàng kể như thế này: ngày xửa ngày xưa, lâu thật là lâu lắm rồi, không biết bao nhiêu ông mặt trời, không biết bao nhiêu con trăng, không biết bao nhiêu cái tuyết (4), nhiều đếm không xuể, lâu đến độ không một hòn đá nào còn nhớ, không một cái cây nào còn nhớ, không một người da đỏ nào còn nhớ... trên tảng đá này, có người con gái da đỏ tóc dài kể chuyện cho người yêu... Nàng kể rằng...
Nguyễn Xuân Quang
(1) Walapai là tiếng của người da trắng phiên âm từ chữ Hwalpal. Hwal là cây thông cao, pal là người. Walapai là người dân của những đồi, những núi, những cao nguyên thông già sống trên bờ vực Grand Canyon.
(2) Manzana tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là trái táo, manzanita, táo nhỏ.
(3) Chữ dao mổ scalpel gốc thứ chữ scalp, da đầu.
(4) Một mặt trời là một ngày, một con trăng là một tháng, một tuyết là một năm... lịch người da đỏ dựa vào mặt trăng, âm lịch.
(5) Agave một loại cây giống như cây dứa dại thuộc họ cây trăm năm, cây thế kỷ (century plant)
(6) Vermillon wall, Pink Wall, Grand Canyon là bậc thang cuối cùng, thấp nhất của cái Cầu Thang Đá Vĩ Đại (Great Rock Stairway). Bậc thang cao nhất có Vách Hồng, Pink Wall, (nơi có Bryce Canyon) rồi tới bậc Vách Xám, bậc Vách Trắng (có Zion Canyon), bậc Vách Son (Vermillon Wall) và cuối cùng bậc Kaibab (có nghĩa là "Chỗ Cái Núi Ngã Người Nằm Xuống") nơi có Đại Vực.
(7) Cái nước, cái non, tiếng lóng của một sắc tộc người Thượng ở Tây Nguyên, Trung Việt có nghĩa là làm tình.
(8) Tiếng Mỹ gốc Pháp có nghĩa là ống khói tiên
------
Nguồn: VĂN, giai phẩm xuân Tân Mùi
Số 102 & 103, tháng 01-1991
Tuesday, January 8, 2019
TÂM NGỤC
Tam Thanh
Sáng thứ hai sau Thanksgiving, Nguyễn dậy trễ. Cũng do đã quá chén nơi mấy nhà bạn bè, nhân ngày lễ Tạ Ơn Hoa Kỳ. Và thức khuya nói chuyện đời xa gần. Nhất là phải chiêu chút rượu mạnh cho trôi mấy miếng gà tây, món mà Nguyễn, tuy một năm ăn có một lần, vẫn thấy chưa ưa. Ấy là Nguyễn chỉ xin chút đầu cánh gặm chơi, gọi là có ăn cho vừa lòng chủ nhà, chứ nhìn con gà tây tròn mập với nước da bỏ lò vàng tươi, trông thì đẹp mà Nguyễn chẳng thấy hấp dẫn chút nào. Nguyễn cũng dửng dưng trước đồ nhồi, sà lách...
Từ ngày qua tỵ nạn ở Hoa Kỳ, mười mấy năm nay, ngày thường cũng như cuối tuần, Nguyễn có thói quen thức giấc gần như một cái máy, không cần để chuông báo thức, vào khoảng sáu giờ rưởi sáng, đủ thời gian vệ sinh ban mai trước khi đi làm. Nguyễn không có cái thú ngủ nướng, nếu đêm trước thức khuya, trừ trường hợp uống một viên thuốc ngủ. Cũng uổng.
Vèo một cái qua luôn bốn ngày nghỉ, thứ năm ngày lễ bắt cầu thứ sáu qua cuối tuần. Nguyễn không được nghỉ một lèo bốn ngày liền vì thứ bảy phải đi trực tư ở ngoài, kiếm chác thêm chút đỉnh bù vào tiền lương công chức tiểu bang cho đủ chi phí gia đình một vợ ba con. Ngoài chỉ số hàng năm lạm phát, giá cả mỗi thứ hàng đều tăng giá, con lớn tốn kém thêm cũng như nhiều nhu cầu không tên linh tinh khác... Kể ra thì không bao nhiêu cho vừa. Tuy nhiên, thêm "chút cháo" cũng hơn. Cái nghiệp sẵn có, tiền vào nhà Nguyễn như gió vào nhà trống.
Thấy bị trễ, Nguyễn phóng xe ào ào trên xa lộ Mopac đưa tới nhà thương tiểu bang ở Austin. Nguyễn sốt ruột khi những xe ở phía trước như chạy tà tà. Nguyễn đổi đường lách qua lách lại.
Vừa lúc đó Nguyễn nghe tiếng còi xe cảnh sát rú. Nhìn kính chiếu hậu thấy đèn xanh đèn đỏ chớp. Tài thật, Nguyễn vừa nhìn trước nhìn sau không thấy xe police nào mà. Thôi rồi. Lãnh phạt chạy quá 55 dặm một giờ. Lại trễ buổi họp quan trọng sáng nay!
Nguyễn tạt xe vào lề đường, lòng bực bội, khó chịu, bồn chồn. Vừa mất thì giờ, vừa mất tiền. Người cảnh sát với tóc và râu màu hung đỏ râu ngô tiến lại chào Nguyễn rồi đòi coi bằng lái và giấy bảo hiểm xe.
- Ông có biết là ông phóng quá tốc độ không?
- Tôi có việc gấp nên không nhìn đồng hồ.
Theo kinh nghiệm bản thân cũng như của bạn bè truyền lại, gặp anh cảnh sát râu ngô thì coi như lúa đời, phạt đúng, phạt nặng, không bao giờ tha, năn nỉ vô ích. Thà lì cho tiện và nhanh việc.
Người cảnh sát nói tiếp:
- Đường cho chạy có 55 mà ông chạy 70.
- Tôi cần tới nhà thương lẹ.
- Ông có chuyện gì gấp vậy?
- Cần coi một người bệnh.
- Ông là bác sĩ?
- Phải.
- Cho coi giấy nhận diện.
Coi xong, người cảnh sát trao lại giấy tờ cho Nguyễn.
- Ông chạy nhanh rất nguy hiểm. Ông không muốn ông là một trường hợp cấp cứu chứ? Thôi ông đi đi. Lái cẩn thận nhé!
Bây giờ Nguyễn mới dịu nét mặt đăm đăm, cau có xuống, ngạc nhiên khi người cảnh sát thông cảm tha phạt.
- Xin cám ơn ông.
Nguyễn lẩm bẩm: đã tưởng ra ngõ gặp gái!
Rồi Nguyễn nghĩ tới tính tin dị đoan lẩm cẩm của mình. Cũng thần hồn nhát thần tính. Lời các cụ nói có mấy khi sai. Có kiêng có lành. Nguyễn liên tưởng tới hồi đi thi bằng hành nghề liên bang năm nào ở Indianapolis bên Indiana với mấy người bạn: một sáng, Nguyễn cùng nhóm bạn ở lầu khách sạn xuống thang đi thi thì gặp một người đàn bà mặc áo đen đi lên, Nguyễn tự động quay lộn lại, tránh cảnh sớm mai ra ngõ gặp gái sẽ xui. Mấy người bạn cười ầm lên khi vỡ lẽ dị đoan trên. Kỳ đó, trong cả nhóm bốn năm người, Nguyễn là người duy nhất thi đậu.
Bác sĩ Nguyễn là người chót vào phòng hội, suýt soát giờ định. Quanh chiếc bàn dài phủ khăn trắng lố nhố người ngồi. Nguyễn kéo ghế ngồi ở đầu bàn, đảo mắt nhìn mọi người.
- Xin tổng chào quý vị.
Thấy đầy đủ, Nguyễn tiếp:
- Hôm nay là buổi họp đầu tiên giữa gia đình bệnh nhân Đinh Mạnh Hùng và toán điều trị của nhà thương tâm trí tiểu bang ở Austin để đả thông một số vấn đề quan trọng. Bệnh nhân sẽ được mời dự vào lúc chót, sau khi đạt vài quyết định chung. Trước khi bàn thảo, tôi đề nghị theo lượt, mỗi người tự giới thiệu tên và liên hệ với bệnh nhân để dễ liên lạc và xưng hô, tuy một số chúng ta đã biết nhau từ trước. Tôi xin đề nghị bỏ tiếng bệnh nhân và gọi anh Hùng cho tiện và thân mật hơn. Tôi lưu ý quý vị phải giữ hoàn toàn bí mật những gì nói ra buổi hôm nay.
Khởi sự từ tôi trước, tôi là bác sĩ Nguyễn, trưởng khu y khoa.
Và theo thứ tự:
- Bác sĩ Van Dussey, y sĩ tổng quát điều trị trại.
- Bác sĩ George, thần kinh tâm lý.
- Jane, y tá trưởng.
- Bob, nhân viên phòng xã hội.
- Victor, y công.
- Đại Đức Pháp Trí.
- Tôi là Lâm, còn đây là nhà tôi và hai cháu Lan, Cường đều là em của Hùng.
- Tâm, bạn học của Hùng.
- Cháu là Ngọc, hôn thê của Hùng, từ Paris qua.
Nguyễn cất lời:
Phần giới thiệu xong. Trước khi đi vào cuộc thảo luận liên quan tới những đòi hỏi hay nguyện vọng của Hùng, tôi chân thành xin quý vị một phút tĩnh tâm và xử sự tự nhiên, thoải mái, dựa trên tình thương và lẽ phải cứu xét hoàn cảnh. Nếu ai có thắc mắc gì xin thẳng thắn nêu lên để mọi người cùng góp ý kiến đưa tới một lời giải ổn thỏa, trong không khí gia đình. Chắc sẽ có một vài động chạm tự ái nho nhỏ ngoài ý muốn, xin thông cảm và bỏ qua. Chúng ta họp nhau ở đây để tìm một giải pháp giúp đỡ đẹp đẻ chứ không phải để chỉ trích, chê trách, lên án; và tìm một đường hướng xây dựng, dung hoà. Biết rằng ai cũng có yếu điểm và chẳng người nào hoàn toàn cả, nên lấy ý kiến đa số làm quyết định chung cuối cùng.
Tôi đề nghị bác sĩ George chia xẻ sự giám định thần kinh tâm lý trước, rồi tới Bob trình bày các khía cạnh xã hội của vấn đề, trước khi bàn luận.
Bác sĩ George giở tập hồ sơ ra, hắng giọng:
- Tôi tóm tắt sơ lược lý do nhập viện cũng như tình trạng tinh thần . Anh Đinh Mạnh Hùng, hai mươi tám tuổi, người Mỹ gốc Việt, bị cưỡng bách nhập viện ngày 31 tháng tám năm 89, do lệnh của chánh án quận Travis với chứng xáo trộn thần kinh và mưu toan tự vẫn.
Ông Lâm ngắt ngang:
- Khổ chưa! Cả họ tôi có ai bị điên bao giờ!
Bà Lâm níu lấy tay chồng, mắt long lanh lệ: Mình!
Nguyễn can thiệp:
- Xin ông bình tĩnh cho.
Bác sĩ George tiếp tục:
- Cùng ngày trên, cảnh sát và phân toán phụ trách sức khỏe thần kinh tâm lý tìm thấy anh Hùng ở Zilker Park, lúc chiều tối, khoảng 6 giờ, nằm thơ thẩn bên bụi rậm, mình mang có chiếc quần cụt, có chút máu dây ở đũng. Hùng như người mất hồn, nói chán đời và muốn tự vẫn để tránh mọi khó khăn rắc rối về đời sống cũng như tiền bạc.
Nghe tới đây ông Lâm lắc đầu, nét chán nản hiện rõ trên mặt. Bà Lâm lấy tay che miệng, cúi đầu như dồn nén một nghẹn ngào. Ngọc ngắm mảng trời xám mùa Thu qua cửa sổ, như xa vắng, thẩn thờ. Cường, từ lúc ông Lâm xuất lời than đau đớn, nhìn cha chầm chập như đang tìm hiểu hoặc phân tách một vấn đề quan trọng.
Giọng bác sĩ George đều đều:
- Khi được phỏng vấn, Hùng ở trạng thái tiều tụy, yếu đuối, mệt mỏi, tuy tinh thần còn minh mẫn và nói năng mạch lạc, thỉnh thoảng quên một vài chuyện quá khứ gần đây. Ngoài ra có anh Tâm, người bạn của Hùng, giúp thêm một số chi tiết cần thiết trong việc lập hồ sơ bệnh lý. Và sau cùng, ông bà Lâm liên lạc qua điện thoại, kể những nét chính cuộc đời của Hùng.
Gia đình ông bà Lâm, với Hùng là con trai cả và hai người em Loan và Cường qua Mỹ tị nạn năm 1981 ở Chicago, Illinois, do cơ quan International Rescue Committee bảo trợ. Lúc đó Hùng hai mươi tuổi. Hùng rất có khiếu về vĩ cầm, nên hơn một năm sau xa gia đình xuống Austin, Texas, vì được cấp học bỗng về nhạc ở đại học, ngoài ý muốn của thân phụ, ông Lâm, muốn con học kỹ sư theo nghề ông. Sự liên lạc giữa Hùng và cha đổ vỡ, vô phương hàn gắn, vả hai người hết nhìn nhau từ năm 1983. Hùng vừa đi học vừa kiếm việc đủ loại để làm, trong đó có dạy nhạc, rửa chén nhà hàng, làm ở chợ, tuỳ phái... để sống tự lập, tự do, không có sự giúp đỡ của gia đình.
Bà Lâm giơ tay xin nói, sau khi nhìn chồng đang bậm môi:
- Cho tôi nói lại cho đúng: nhà tôi giận cháu ngỗ nghịch không nghe lời nên cấm cả nhà không ai được đề cập tới Hùng trước mặt ông. Tôi có lén nhà tôi giúp cháu Hùng ít tài chánh vì học bỗng không đủ sống, nhưng cháu tự ái nhiều lần không nhận.
Ông Lâm trợn trừng nhìn vợ như muốn trách móc, giận hờn. Bà Lâm nói xong cúi mặt, tránh mắt chồng. Không khí phòng hội yên lặng, lâu lâu vẳng từ ngoài tiếng la hét, tru tréo của một bệnh nhân lên cơn điên. Loan lắng tai nghe, mặt có phần sợ hãi.
Bác sĩ George tiếp:
- Hùng, vốn là một thanh niên thông minh, có tài, lại rất xuất sắc về môn vĩ cầm, nên được nhiều phần thưởng cũng như giấy tưởng lục, và đậu bằng cử nhân về nhạc với lời khen danh dự của ban giám khảo. Và Hùng được ban giám đốc khuyến khích học tiếp bằng tiến sĩ, nếu qua một kỳ thi tuyển đặc biệt. Hùng tự ái không chịu thi, viện cớ với tài của anh, anh dư sức học được, gây mâu thuẩn với nhà trường. Từ đó tính tình Hùng thay đổi, biếng làm, nhác ăn, và như anh Tâm kể lại, mỗi lần tới thăm đều thấy Hùng nằm dài, hút thuốc lá nhìn lên trần. Bạn bè ai mang lại cho gì thì ăn đó, chứ không tự nấu nướng hay ra ngoài ăn như khi trước. Tới khi Hùng bị kiệt sức, bạn bè tới mang đi coi bác sĩ, và qua các thử nghiệm mới hay Hùng bị tụ chứng giảm đề kháng (bệnh "ếch")...
Bà Lâm nhìn Ngọc xót xa.
Ngọc nhẹ nhàng đứng lên xin phép ra ngoài.
Bác sĩ Nguyễn gật đầu rồi yêu cầu bác sĩ George tiếp.
Lúc đầu Hùng khăn khăn từ chối, không chấp nhận và không tin vào thử nghiệm, tuy đã làm lại mấy lần. Hùng bắt đầu đọc các tài liệu y khoa về "ếch", rồi theo cách ăn uống đặc biệt do anh tìm kiếm ra, gồm đa số các loại rau và ngũ cốc. Sức khỏe cũng không khả quan hơn. Hùng qua Paris gặp Ngọc, cô bạn gái láng giềng quen từ Việt Nam và tỵ nạn ở Pháp gần thời gian Hùng cùng gia đình qua Mỹ. Cả thảy ba lần, mỗi lần mấy tháng kiếm phương cách điều trị với các thuốc lá, rễ cây, nhưng chẳng mang lại kết quả mong muốn.
Khi trở lại Austin, Hùng mới thực thụ nhận có đồng tính luyến ái, và gia tăng cường độ sinh lý ngoài sức tưởng tượng, nhất là lúc bất mãn với nhà trường, cùng dứt khoát liên lạc sinh lý với người bạn chỉ dẫn nhạc. Tuy vậy, Hùng cũng chưa chịu chữa, nại cớ còn một vài tháng, anh sẽ được hưởng an sinh xã hội, lúc đó dùng thuốc cũng chưa muộn. Hùng ở trong tình trạng sức khỏe cũng như tiền bạc bết bát, nợ đìa. Anh nói chỉ còn hai đường, một là quay về với gia đình, chuyện mà anh dứt khoát không muốn trong hoàn cảnh bệ rạc hiện tại, nhất là không muốn đối đầu với cha, tuy mẹ và các em khuyến khích, năn nỉ. Hai là chấm dứt cuộc sống, tránh cảnh nợ nần đói rách bệnh tật...
Ông Lâm thở hắt ra: "thà vậy!"
Loan bật khóc rồi bụm miệng lại ngay. Ông Lâm mắt long lên nhìn con gái, bờ vai đang rung động. Cường choàng tay qua ôm chị, mắt chiếu thẳng mắt bố, bà Lâm cầm tay con gái vỗ vỗ.
Nguyễn cất giọng ôn tồn:
Chúng tôi thông hiểu những cảm xúc riêng tư. Vấn đề rất tế nhị nên mới thỉnh quí vị lại để có quyết định hợp tình, hợp lý.
Bác sĩ George tiếp lời.
Tuy nhiên Hùng cũng chưa có ý rõ ràng nào về cách tự hủy diệt cả, còn đương do dự hoặc tự thiêu ở phòng trọ sau khi uống thuốc ngủ, hay dùng quá liều thuốc thần kinh, hoặc nhảy lầu hay trôi sông... còn trong tình trạng hoang mang đó thì Hùng được nhập viện. Từ ba tháng nay, cả thuốc thần kinh lẫn những buổi điều trị tâm lý giúp Hùng tỉnh trí lại, dứt khoát vấn đề mưu toan tự vẫn. Nhưng tình trạng sức khỏe tổng quát không khả quan là bao nhiêu. Bác sĩ Dussey có thẩm quyền hơn tôi về vấn đề này.
Bác sĩ Van Dussey gật đầu.
Đúng như lời bác sĩ George nói, Hùng không mạnh nhiều nhưng có phần khá hơn, so với ngày mới nhập viện chỉ còn đã bọc xương, hậu môn lở loét sau khi bị kẻ lạ mặt cưỡng bức ở vườn Zilker Park. Ngoài việc nuôi qua ống, lâu lâu Hùng ăn được đồ lỏng, nếu nhân viên điều dưỡng kiên nhẫn, dịu dàng và chịu khó năn nỉ. Hùng phải có người xốc nách mới đi được. Ngồi ghế phải cột, không thì té. Ngoài việc nằm nệm nước và chuyển thế luôn luôn, chúng tôi ép ngồi và đi để cho máu lưu thông, và tránh lở lói ở lưng và vùng dưới. Thuốc AZT đã được khởi sự, ngăn phần nào tiến triển của bệnh "ết".
Ông Lâm hất hàm hỏi:
- Theo kinh nghiệm và giám định, bác sĩ thấy Hùng còn sống được bao lâu?
- Thật khó trả lời câu hỏi của ông, còn tuỳ phản ứng cơ thể của Hùng với thuốc, tuy tâm thần, lý trí quyết muốn sống và chống lại bệnh, với sự khuyến khích cùng trợ giúp tình cảm của gia đình cũng như nhân viên điều dưỡng. Tuy nhiên, ông đã hỏi, tôi cũng xin trả lời thành thật, với hiện trạng của Hùng so với tài liệu thống kê, với mọi dè đặt có trường hợp ngoại lệ, thời gian còn sống rộng ra khoảng sáu, bảy tháng, nếu không có thuốc mới hữu hiệu hơn từ đây tới đó... Xin ông và gia đình hiểu cho đó là một vỏ đoán mà thôi.
Mặt ông Lâm đanh lại, như khó chịu thấy cảm xúc của vợ con ủy mị, yếu hèn bộc lộ trước công chúng. Bà Lâm không buồn chùi để nước mắt chảy xuống lòng. Ngọc trở lại chỗ ngồi và nghe được câu chót của bác sĩ Van Dussey lại ôm mặt chạy ra ngoài.
Bác sĩ Nguyễn không muốn kéo dài buổi hội và tự thâm tâm, tuy ác cảm nhưng lại có ý nể phần nào sự cứng rắn, đôi khi tới nhẫn tâm của ông Lâm, người mà Nguyễn nghĩ sống với nguyên tắc nhất định và có khuynh hướng cương nghị, độc tài. Nguyễn thấy ông Lâm rõ ràng tự cô lập, một mình đối với cả phe vợ con, chẳng muốn nhìn lại người con đầu lòng không nghe lời ông mà đi lầm đường lạc hướng, và không tha thứ sự bất phục tòng. Nguyễn lắc đầu như muốn tỉnh lại, ngạc nhiên trước phản ứng cá nhân với ông Lâm thay vì phải giữ vô tư. Chẳng qua Nguyễn muốn đặt mình vào trường hợp ông Lâm, vớ những sự kiện đã biết, để xem phản ứng ra sao trước hoàn cảnh thương tâm khó khăn này. Chắc chẳng một người Việt tị nạn nào ở xứ Mỹ này muốn ở trường hợp ông Lâm. Nuôi con vất vả cực nhọc, dạy dỗ công phu kỹ lưỡng, rồi phiêu lưu nguy hiểm, liều lĩnh để đến bến bờ tự do, những mong con thành người nơi xứ lạ, ai ngờ con dại dột bỏ nhà ra sống riêng để được tự do, thoải mái sống theo bản tính, đưa tới hoàn cảnh bệ rạc nhớp nhơ, hiện tại gần kề cái chết... tan vỡ cả kỳ vọng bao lâu ấp ủ nơi người cha tin tưởng vào tương lai rực rỡ của người con đầu lòng vốn sẵn thông minh, học giỏi.
Vừa lúc đó có tiếng loa gọi bác sĩ Nguyễn. Y tá Jane đưa mắt bảo y công Victor ra trả lời dùm, Nguyễn dặn với:
- Nếu khẩn cấp để tôi trả lời, bằng không lấy số điện thoại, tôi sẽ gọi lại.
- Được.
Lát sau Victor trở lại đưa cho Nguyễn mẫu giấy nhỏ ghi tên người gọi và số điện thoại, đồng thời ghé tai nói:
- Bác sĩ, tôi thấy cô Ngọc thầm thì chuyện trò với Hùng.
Nguyễn gật đầu:
- Cám ơn Victor, Bob, tới lượt ông trình bày.
Vâng. Anh Hùng những lúc tỉnh táo, và có người chứng, đưa ra hai nguyện vọng, một là xin làm đám cưới với cô Ngọc...
Gia đình bên Hùng nhỏ to xầm xì. Bà Lâm ngơ ngác gần như hoảng hốt. Loan con mắt còn đỏ hoe ngẫng lên ngỡ ngàng. Cường nhíu mày. Miệng ông Lâm thoáng một nụ cười khó hiểu, mép xệ xuống, mắt nhắm nghiền trong giây lát.
Đại Đức Pháp Trí lên tiếng:
Cho tôi xin đỡ lời ông Bob. Bác sĩ Nguyễn có mời tôi tham khảo ý kiến vì anh Hùng là Phật tử, ở tuổi trưởng thành, theo pháp lý có quyền lấy vợ, nếu người hôn phối đồng ý. Tôi có hầu chuyện với anh Hùng và tiếp xúc qua điện thoại với cô Ngọc.
Nguyễn ghé tai Jane nhờ mời Ngọc trở lại phòng họp.
Khi Ngọc ngồi yên vị, Đại Đức Pháp Trí hướng về phía người con gái.
- Chúng tôi đang nói chuyện cô và anh Hùng ngõ ý muốn làm đám cưới theo phương thức Phật giáo trước và luật pháp sau.
- Bạch thầy vâng.
- Cô vẫn còn giữ ý định đó?
- Anh Hùng và con quyết thực hiện lời thề trước khi chúng con chia tay rời xứ đi tỵ nạn, dưới bất cứ hình thức nào, dù là ràng buộc tâm linh, thần giao, tình ái...
Ông Lâm lắc đầu ngán ngẫm trước quyết định phi nhân, phi lý của Ngọc và người con trai ông.
- Hết chỗ nói!
Ngọc nén cảm xúc, thở dồn dập.
- Trời, Phật... thương anh Hùng... để anh sống, thì chúng con đạt được ước mơ bấy lâu ấp ủ, nhưng... nếu chẳng may anh vắn số, chúng con cũng chẳng ân hận là đã không giữ lời thề sắt son.
Đại Đức Pháp Trí gật đầu.
- Bổn hạ có thỉnh ý bề trên và được chỉ thị làm phép cưới nếu anh Hùng còn minh mẫn và hiểu những diễn tiến linh thiêng của buổi lễ. Bằng ngược lại, nếu anh Hùng ở trạng thái hôn mê hoặc bối rối, không mạch lạc thì phải hoãn lễ cho tới khi khả quan hơn.
- Cám ơn bạch thầy.
Ông Lâm xua tay:
- Tôi không đồng ý nhẫn tâm để một người con gái trẻ đẹp, khỏe mạnh như cháu Ngọc đây làm lễ cưới với một người con trai bệnh tật đang hấp hối! Để làm gì? Muốn trở thành một goá phụ chỉ vì một lời thề non hẹn biển viễn vông.
Bob dẫn giải:
- Xin ông bình tĩnh. Luật xứ này cho phép, khi người đàn ông và người đàn bà ở tuổi trưởng thành thuận nhau, được lấy nhau. Không ai có quyền ngăn cấm, cản trở.
- Mặc dù biết là thằng Hùng bị bệnh?
- Nếu cô Ngọc biết rõ và chấp nhận.
- Tại sao con làm chuyện rồ dại vậy Ngọc? Tự do kỳ quặc. Khỏi phải hỏi tôi vô ích, tôi không đồng ý.
Ngọc lặng thinh cúi đầu. Ông Lâm ngữa mặt lên, hai tay dang ra bất lực. Bà Lâm cắn chặc môi dưới. Loan hai tay ôm má suy tư. Cường nhìn bố đăm chiêu.
Ông Lâm lắc đầu.
- Cái điên của tuổi trẻ phóng túng!
Y tá Mary vào nói nhỏ với bác sĩ Van Dussey có bệnh nặng. Bác sĩ đứng lên quày quả đi ngay, nói với lại:
- Bác sĩ Nguyễn, tôi trở lại liền.
- Vâng.
Bob trình bày tiếp:
- Và nguyện vọng thứ hai của Hùng là khi trở nặng, xin để tự nhiên đi, không muốn được cứu cấp, đặt máy thở hoặc dùng các phương tiện máy móc tối tân khác. Sau khi chết xin được hỏa thiêu và tro rắc xuống biển.
Bà Lâm lấy hai tay bịt tai, nước mắt trào ra dàn dụa.
Cả phòng im lặng. Có tiếng nấc hít mũi của Loan.
Y tá Jane nhìn bà Lâm như muốn chia xẻ nỗi thống khổ của người mẹ, đau đớn thầm lặng nghe người ta bàn cãi về cái chết dần mòn của người con mình. Mắt Jane long lanh ướt.
Ông Lâm nhìn mặt bàn, mắt không chớp, như bị thôi miên hay huyền hoặc bởi màu trắng của tấm vải phủ.
Bác sĩ Van Dussey trở lại chỗ ngồi.
Nguyễn lên tiếng, giọng trầm trầm:
- Kính thưa quý vị, vấn đề của Hùng đã được trình bày rõ ràng; Hùng xin được cưới cô Ngọc, và được chết bình thản. Chúng tôi xin được biết ý kiến của thân nhân, sau khi Hùng được mời vào phòng hội, trước mặt gia đình và ban điều dưỡng, để nói lên nguyện ước chân chính của mình.
Jane hất đầu và Victor đứng lên ra ngoài.
Mọi người, từ nhân viên điều dưỡng tới gia đình thân nhân của Hùng đều giữ im lặng, trong xao xuyến, lo âu, u buồn.
Victor đẩy xe lăn tay trên có Hùng, kèm theo cái cột treo lủng lẳng túi đồ ăn lỏng osmolite chảy qua ống thông mũi vào bao tử. Hùng dựa lưng vào ghế, mặt mày tuy gầy ốm nhưng sáng sủa, tươi tắn hẳn hơn mọi ngày, tóc chải gọn gàng. Người Hùng lép dưới bộ quần áo rộng, sau khuôn vải chặn trước ngực cho khỏi té.
Hùng nhìn mẹ trìu mến, tràn ngập yêu thương. Cường ra đẩy xe lăn tay của anh lại gần mẹ. Hùng giơ tay nắm lấy tay mẹ. Bà Lâm gục mặt vào tay con, hai vai rung lên nghẹn ngào. Loan đứng lên ôm đỡ mẹ, nước mắt chảy ròng ròng. Ngọc kéo ghế ngồi sát Hùng.
Ông Lâm đứng gần cửa sổ lúc nào không ai hay, mắt nhìn khoảng trời xám đục, hai tay khoanh trước ngực.
Không khí căn phòng hội trở nên nặng nề, ngột ngạt như khó thở, căng thẳng trước lựa chọn giữa sống và chết, tình thương và giận thù, yêu đương và hy sinh, thông cảm và chống cản, tự ái và bất cần, bao bọc và lạnh lùng...
Hùng thoáng nhìn bố, mặt bỗng sa sầm, toan quay xe đi, nhưng ngưng kịp khi thấy mẹ và các em đang quây quần thân mật, yêu đương, ấm cúng.
Bác sĩ Nguyễn để phút hồi hộp mừng tủi ban đầu của Hùng và gia đình giảm dịu rồi mới nói:
- Anh Hùng, buổi họp mặt giữa gia đình anh và ban điều dưỡng được tổ chức như chúng tôi đã hứa với anh. Chúng tôi đã trao đổi tin tức cũng như quan điểm liên quan tới những nguyện ước của anh. Đây là dịp để anh bày tỏ những ý muốn của anh cho mọi người biết, hầu theo khả năng và thiện chí của mọi người cố gắng giúp đỡ anh trong tình thương, hiểu biết và thông cảm.
Giọng Hùng run run yếu ớt vừa xúc động vừa hồi hộp. Cường ngồi gần anh nhắc to lại cho mọi người nghe.
Tôi xin chân thành cám ơn Đại Đức Pháp Trí, quí vị bác sĩ và ban điều dưỡng đã giúp đỡ cho buổi gia đình hội ngộ quý báu này trong lúc tôi còn sống và minh mẫn. Ngoài cả sự mong muốn của tôi. Quí vị hãy nhận nơi đây lòng tri ân thiết tha về tình người cao đẹp vô vàn của quí vị...
Sau khi nói một hơi dài, Hùng nghỉ mệt đôi chút rồi hướng về gia đình.
Mẹ, con không biết nói gì hơn là cám ơn mẹ, lúc nào cũng lo lắng và chăm sóc cho con, dù con ở gần hay xa. Con chắc đã làm mẹ buồn khổ nhiều... Lòng mẹ bao la, con xin mẹ đã thương con thì thương cho trót, và chấp nhận những gì con đã làm như một cái nghiệp, chẳng lỗi tại ai. Kiếp này con không trả hiếu được, kiếp tới, nếu con còn phước được đầu thai làm người, con nguyện sẽ đền đáp công dưỡng dục quí báu của mẹ...
Bà Lâm rũ người thảm não:
Con ơi! Hùng ơi!
Trong lúc Hùng ngõ lời gần như trối trăn với mẹ, hai em và người yêu Ngọc, bác sĩ Nguyễn quan sát ông Lâm, đang đứng bên cửa sổ, quay lưng lại bàn hội, nhìn ra ngoài trời, lâu lâu hít không khí đầy ngực, như đang trong trạng thái rối rắm tinh thần và cố tự chủ. Nguyễn thấy ông cũng lắng nghe những lời Hùng nói qua Cường nhắc lại. Hai tay ông khoanh trước ngực, thỉnh thoảng lại nhón chân lên.
Hùng thấy ông, và theo như Nguyễn biết thì ông chưa muốn nhìn người con trai đầu lòng đã từng không theo ý ông học ngành khoa học mà lại đi học nhạc, một nghề mà ông coi là "xướng ca vô loại", như Nguyễn đã từng nghe ông nói hơn một lần qua tiếp xúc điện thoại, hoặc đúng hơn không phải một nghề kiếm sống, người con đã làm ông thất vọng cay đắng... Sự hiện diện của ông Lâm trong buổi hội ngày hôm nay là một bước tiến khá xa trong sự hàn gắn tình phụ tử với nhiều cố gắng thuyết phục và giải bày tâm tình, giữa sự đồng ý hoàn toàn của bà Lâm và bác sĩ Nguyễn. Nhưng công đầu chắc phải kể bà Lâm và hai người con. Ông Lâm đã nhượng bộ nhưng cũng còn cố gắng không nhìn mặt Hùng. Tình cha con chưa lấn át được sự căm giận người con, chẳng những đã không học nghề kỹ sư như ông định muốn và đòi hỏi, mà còn đi vào con đường đồng tính luyến ái đưa tới thảm trạng hiện tại.
Đối với ông, Hùng đã gây cho gia đình nhục nhã vậy chưa đủ, còn đòi cưới Ngọc trong tình trạng dở sống dở chết này, vì một lý do không tưởng nữa. Vì ông đã kỳ vọng rất nhiều ở Hùng, một người con vừa ngoan, thông minh, xuất sắc trong việc học hành, cho tới ngày ông và gia đình đặt chân lên nước Mỹ. Và chỉ thời gian ngắn ở phong thổ lạ này, với nền giáo dục tự do, dân chủ dựa trên quyền lợi cá nhân tối đa, Hùng đã giải phóng và vượt tầm kiểm soát của ông. Ông bất lực và căm phẫn. Hùng là giá quá mắc ông phải trả cho tự do. Rồi ông cũng lần ý thức được định nghĩa tối hậu của tự do, điều mà ông chưa nhập tâm được khi còn ở bên xứ, với hệ thống giáo dục thoát thân từ Khổng, Mạnh, trong một xã hội với những tiêu chuẩn luân lý gia đình ngàn năm không thay đổi, và gần đây mới chậm chạp chuyển mình theo đà văn minh vật chất.
Bà Lâm có nói với bác sĩ Nguyễn là cả chồng lẫn con trai cùng có tính lì lợm, đã làm việc gì là quyết tâm thực hiện bằng được. Sự xung khắc giữa hai cha con tiềm tàng từ lâu và bùng xuất phát ở môi trường thuận tiện nơi xứ Mỹ này. Ông Lâm trưởng thành ở một xã hội, gia đình có trật tự ổn định với thói quen dồn nén những đòi hỏi cá nhân bên lề; nhưng Hùng ở một thế hệ khác, cởi mở hơn, thành thật hơn với khuynh hướng phát triển nhu cầu tìm hiểu nội tại chân chính và thực hiện nảy nở những cần thiết tâm linh cũng như vật chất cá nhân. Cả cha lẫn con, người nào cũng có lý của người đó, nhưng chưa dung hoà, hội nhập được quan điểm, thế xử sự nên đi tới tan vỡ ý thức gia đình. Chấp thức cá nhân hiện tại là căn bản phát triển năng lực con người đối với Hùng, nhưng lại là một sa đọa tinh thần cũng như thực tế, dựa trên sự phá sản xã hội mà nền tảng là gia đình, và ích kỷ, tập trung mọi quyền lợi vào cá nhân, không lý gì tới gia đình với đời sống chung lành mạnh, xây dựng đối với ông Lâm.
Và ông Lâm quyết định không có người con, Hùng, trong đời sống nữa. Cả gia đình cùng đau khổ về thảm trạng nghiệt ngã này.
Tiếng Cường bỗng lên giọng, nhắc lại lời Hùng, kéo bác sĩ Nguyễn ra khỏi những suy tư và quan sát ông Lâm.
Thưa bố, con thành thật xin lỗi bố, lời chót của con trước khi lìa đời, vì con tự biết không còn sống được bao lâu. Con cám ơn bố về sự hiện diện ngày hôm nay cho con được thấy bố trước khi nhắm mắt vĩnh viễn, người mà con luôn kính trọng và thương yêu. Con xin lỗi bố không phải về những gì con đã làm không phù hợp với ý muốn của bố. Con là Hùng, đã trưởng thành và chịu trách nhiệm hoàn toàn cho đời con, nên hay không nên là vấn đề may rủi khác, vì con ý thức những hành vì và thái độ của con theo như ý con muốn. Ý nhạc và khuynh hướng đồng tính luyến ái là sở thích tiềm tàng nơi con và đáp ứng nhu cầu cá nhân của con, không liên quan tới ai ngoài con. Con mong bố hiểu con và nhận lời xin lỗi trang trọng của con, không phải vì chuyện con đã đích thân gây nên, mà vì con không thực hiện được, ngoài ý muốn, những ước vọng bố đặt nơi con.
Nói xong, Hùng cúi mặt xuống thở dốc, mệt mỏi khi tập trung can đảm, hy sinh, nhẫn nhục và lòng thương, phát biểu những khúc mắc tâm tình bao lâu mòn mỏi chia cách cha con.
Bà Lâm lại níu tay chồng thầm thì:
- Mình! Nghĩa tử là nghĩa tận.
Cả gia đình cũng như nhân viên nhà thương nhìn dồn về ông Lâm, chờ ông tỏ thái độ. Im lặng. Thời gian như dài kinh khủng.
Ông Lâm bỗng quay lại, mắt ngấn lệ, nhìn Hùng cúi đầu thiểu não. Bà Lâm kéo chồng lại gần xe lăn tay. Ông Lâm đặt tay lên vai Hùng, nghẹn ngào.
Hùng con!
Bác sĩ Nguyễn đưa mắt nhìn các đồng nghiệp cũng như nhân viên điều dưỡng âm thầm rút khỏi phòng hội, để cho gia đình ông Lâm hàn huyên đoàn tụ.
Y công Victor, trước khi rời phòng, bấm nút máy hát theo như lời yêu cầu từ trước của Hùng. Nhạc bản Biệt Ly vang lên với tiếng vĩ cầm rên rỉ, thiết tha, réo rắt, ray rứt, sầu thảm bao la, thu hút hồn người nghe, bài nhạc mà Hùng đã trút hồn dồn hết tâm tư và tài nghệ tuyệt hảo để tặng Ngọc, người yêu muôn đời.
Tam Thanh
----------
Nguồn: VĂN, số 93, tháng 3/1990
Wednesday, January 2, 2019
HẸN MÙA LÚA CHÍN
Huyền Châu
Tôi đọc xong tờ báo, lòng vui phơi phới kêu Sử:
-Sử ơi! Em có rảnh không? Làm ơn đưa chị vô Chợ Lớn được không?
Sử, cậu học sinh ăn cơm tháng nhà tôi từ một năm nay, đang đọc sách nghe tôi kêu, hỏi:
- Đi Chợ Lớn mua gì vậy chị Hai?
- Chị đâu có mua thứ gì đâu cưng, chị đi xin việc làm. Thấy họ đăng báo cần hai mươi cô tiếp rượu cho vũ trường "Đại Thế Giới", sẵn lúc này kẹt quá, hơn nữa làm về đêm rất tiện, chị định vô đó hỏi, nếu điều kiện dễ dàng chị xin làm kiếm tiền trả tiền nhà.
Chiếc xe đạp quá cũ lại bị dây sên lỏng, chạy một chút là tuột phải dừng lại sửa. Sài Gòn Chợ Lớn chỉ có sáu cây số, mà bị sợi dây sên ác ôn, mãi đến hơn hai tiếng đồng hồ mới đến.
Vừa tới bước vào căn phòng ngồi chờ ông cai đến. Căn phòng trang hoàng sang trọng, một bộ salon đắt tiền, một bàn bureau và một cái tủ lớn có nhiều ngăn, mấy cô lại đó để cái sắc tay, họ phục sức sang trọng, nụ cười trên môi tươi như hoa, đeo kim cương óng ánh, son phấn nước hoa phảng phất thơm ngào ngạt.
Ông cai vừa đến, người bồi nói cho tôi:
- Kìa "tài ban" đến kìa.
Tôi cũng chẳng biết hỏi sao thì ông hỏi tôi:
- Cô bao nhiêu tuổi?
- Thưa hai mươi ba.
- Cô biết nói được tiếng Anh, Pháp, Tàu không?
- Dạ thưa ba thứ tiếng đó tôi nói được chớ không hay lắm.
- Được, tốt lắm.
Ông nhìn tôi hồi lâu rồi bảo:
- Đêm mai thứ bảy cô mặc áo cho đẹp nhé, và trang điểm cho đậm, tóc chải giống như mấy cô kia nghe.
- Thưa ông lương mỗi tháng cho bao nhiêu?
Ông gấp đi nhưng cũng rán trả lời nhanh:
- Không có lương tháng, chỉ chia sáu tư thôi.
Tôi bước ra khỏi căn phòng, nhìn đám người bước vào cửa, mặt nào cũng vui cười, những chiếc xe hơi bóng loáng, họ đi từng cặp, khi bước xuống xe có người mở cửa. Rồi nhìn mình quá quê mùa với chiếc áo bà ba màu lam, quần đen bạc màu.
Sử đứng chờ tôi bên cạnh cây bông sứ gần đó, kêu tôi:
- Chị Hai lại đây em chờ chị ở đây, người ta có nhận cho chị làm không hở chị?
Tôi cười mừng vui:
- Họ nhận chị làm bắt đầu đêm mai. Nhưng họ không có trả lương tháng mà chia 6-4 là sao không biết nữa.
Sử mừng, lẹ làng giải thích:
- Vậy dễ hơn chớ chị. Chắc là tiền buộc boa nhiều, mình ráng bưng rượu chạy lẹ, khách vui lòng thì tiền chia nhiều, mình được sáu, còn chạy chậm thì lấy phần tư.
- Chị hơi thắc mắc, tiếp rượu chạy bàn sao ông cai kêu chị mặc áo dài, phấn son, chải tóc cho đẹp giống như các chị vũ nữ trong đó.
- Ừa! Thì có sao, nơi sang trọng phải diện cho đúng, các chị kia sao mình vậy.
- Chị đồng ý em điểm đó, ngặt chị có ba cái áo dài đã cũ, có cái lại phải màu, nếu họ bắt mặc thay đổi mỗi đêm lấy áo đâu mà mặc.
Sử làm tàng đề nghị rằng:
- Dễ mà chị, chị mặc hết ba cái áo đó, rồi hôm sau chị mua thuốc nhuộm, nhuộm hết ba cái ba màu, thành được nhiều áo, chừng lãnh tiền chia, có khá, chị mua hàng may thêm mấy cái nữa.
- Còn nỗi đi làm về khuya, xe đâu về? Đã có tiền đâu mà thuê xe xích lô tháng? Xa sáu cây số, mắc tiền lắm chớ ít sao em.
- Lo gì chị Hai! Chị Hai cho em tiền em mua sợi sên mới, em ráp vô chở chị chạy ngon lành, đưa vô rước về mỗi đêm, chờ có tiền tính sau.
Tôi cảm động lòng tốt chơn thành của Sử. Sử họ Nguyễn, tên Sử, người tỉnh Tân Hương, ở cùng người chị, lên ở nhà tôi ăn cơm tháng. Mấy tháng nay Sử đã xin được việc làm, hãng cao su trên đường Mạc Má Hồng. Ba của tôi thương Sử như con, vì tánh tình hiền, rất hiếu thảo.
Vũ trường Đại Thế Giới, từ đại lộ Đồng Khánh thẳng vào, chiếm một khoảng đất to mấy ngàn thước vuông, chung quanh xây tường, bên trong rộng lớn với ban nhạc Santos, "Phi Luật Tân". Mười người thường trực mặc áo đỏ quần đen. Khách sành điệu đủ các giới các hạng đến chơi rất thích ban nhạc này. Không có ban nhạc nào sánh kịp.
Lại thêm sàn nhảy rộng, như lò so, khi nhảy nhún lên nhún xuống nhẹ nhàng, ván được chùi bóng loáng. Phụ thêm bên mé ngoài có một sàn nhảy ngoài trời, chung quanh cây lá treo đủ đèn màu chớp tắt mờ ảo. Nhứt là những đêm có trăng gió mát, đèn chớp khi mờ khi tỏ, làm cho khách sành điệu họ cặp nhau lả lướt trên sàn nhảy bản sì lô mùi tận mạng.
Hàng ghế dài mé bên trong gần hai mươi ghế. Tài bán đưa tôi lại ngồi gần mấy chị. Nhìn mấy chị mặc áo sang trọng, mặt mày phấn son văn minh quá. Nhìn lại tôi quá quê mùa, ăn mặc nghèo nàn, quần trắng đã phai màu mặc cao lòi mắt cá, đôi giày cũ mèm đầu chải chẳng giống ai.
Khi các chị cặp nhau ra sàn nhảy biểu diễn lả lướt dịu dàng, tôi nhìn họ thấy mà mê. Rồi lần lượt tài bán đưa các chị lại ngồi bàn với khách.
Tôi bắt đầu hồi hộp, tim đập mạnh, nói một mình: "Chết mồ, cái điệu này là làm vũ nữ, chớ tiếp rượu gì đâu mà chẳng thấy kêu bưng rượu".
Một chập lâu tài bán đưa tôi lại bàn có bốn ông khách Việt, ba ông chừng lối trên ba mươi tuổi, một ông trẻ hơn. Tôi lại ngồi bên cạnh ông trẻ. Tôi ngồi xuống ghế miễn cưỡng lo sợ lung tung. Bồi hỏi:
- Cô uống gì?
Tôi lắc đầu, thấy trên bàn mấy chị mỗi người một chai. Tôi sợ uống rủi mắc quá tiền đâu trả.
Thanh niên trẻ kêu:
- Bồi, đem cho cô một chai nước ngọt.
Chiếc đèn tròn to đủ màu được treo trên cao, ngay sàn nhảy, quay đủ màu mờ ảo làm cho tôi không quen muốn chóng mặt.
Người thanh niên trẻ có gương mặt phúc hậu, vừng trán vuông cao và rộng, mặt trái soan, tướng người cao ráo, nói năng vui vẻ dịu dàng. Người gợi chuyện:
- Cô tên chi? Mới vô làm hôm nay?
- Dạ tôi tên Sương, mới bắt đầu bữa nay.
- Lúc trước cô có đi làm ở vũ trường nào không?
- Dạ từ trước tới giờ tôi chưa hề đi làm ở vũ trường nào hết.
Ông nhìn tôi cười:
- Như vậy chắc là cô chỉ đi nhảy chơi với bè bạn, chứ chưa từng làm vũ nữ chớ gì?
- Dạ đâu có đi chơi với bạn bè nào đâu, mà cũng đâu có biết nhảy nhót gì ráo.
Ông ngạc nhiên:
- Ủa, không biết nhảy sao cô lại xin vô đây làm vũ nữ? Khi nãy tôi nhìn thấy cô biết cô là đào mới. Tài bán cũng giới thiệu cô cho tôi. Ở đây họ lựa đào kỹ lắm, ở đây từ rượu uống cho đến tích kê cũng cao giá hơn mọi nơi. Vì vũ nữ ở đây phải đẹp, phải biết nhiều thứ tiếng, biết xã giao với khách hàng vui vẻ lễ độ, phải nhảy giỏi. Mà sao lúc tài bán nhận cô làm không nói cho cô biết?
Tôi nói tỉnh queo:
- Dạ tôi đâu có biết. Tôi đọc nhựt trình thấy ở đây cần hai mươi cô tiếp rượu, biết được ba thứ tiếng Anh, Pháp, Tàu. Tôi tưởng là vô đây chỉ bưng rượu cho khách hay làm bồi, nếu biết làm vũ nữ tôi đâu có dám vô. Khi vào xin việc, ông ta nhìn tôi, rồi kêu mai cô vô làm mặc đồ cho đẹp, chỉ có vậy thôi.
Ông khách sợ tôi thẹn, ông thân mật nói thêm:
- À có lẽ hồi đó cô chỉ đi nhảy với người nhà ở mấy cái hội hè sinh nhựt vậy thôi. Tôi nghĩ như vậy. Tôi nhìn cô, thấy cô văn minh tân thời lắm mà.
- Dạ thưa ông có, cách đây bốn năm, khi mười chín tuổi, tôi theo chồng tôi ra Hải Phòng mấy tháng, thỉnh thoảng ảnh có đưa tôi đi vũ trường dạy tôi nhảy đủ bản hết chớ, từ đó tới nay bỏ lâu quên ráo trọi.
- À! Vậy là cô cũng từng ra sàn nhảy rồi. Bỏ lâu bây giờ dượt lại mấy hồi. Lát nữa tôi đưa cô nhảy, nếu cô quên tôi sẽ chỉ thêm cho cô, cô hai mươi ba tuổi, còn trẻ mau hiểu lắm.
- Ủa sao ông biết tôi hai mươi ba tuổi?
- Thì cô nói năm mười chín tuổi cô biết nhảy, cách bốn năm cô bỏ lâu quên ráo, cộng chung là hai mươi ba tuổi.
- Ừa hén, ông để ý nhớ hay, còn ông bao nhiêu tuổi?
- Đâu cô nhắm đoán coi tôi bao nhiêu tuổi.
Nhìn ngắm ông ta hồi lâu:
- Tuổi ông chừng ba mươi.
- Tuổi tôi bằng tuổi cô đó, đừng xưng hô bằng ông nghe già lắm, kêu anh được rồi.
- Chèn ơi! Anh bằng tuổi tôi? Sao mà trông anh già khú hè, mà sao anh khôn quá vậy? Nghe lời lẽ anh nói, tôi biết anh thông minh, biết thương người nghèo lắm, lại thông cảm cho người quê mùa như tôi. Anh vui quá, nói chuyện có duyên quá chừng chừng.
Anh ta cười hắc hắc.
- Cô chất phác lắm, cô nói chuyện quá thật thà.
Nhạc bắt đầu bản sì lô sau khi dứt bản valse, đèn màu mờ mờ chiếu, trên sàn nhảy nhiều cặp ghì nhau đi chậm bước. Lần đầu tiên tôi ở trong vòng tay người đàn ông xa lạ, tim tôi không nhảy mạnh, tinh thần tôi bay tận đâu đâu. Ai đời bản mùi đi chậm mà tôi kéo anh ta chạy có cờ, chơn đụng lụp cụp. Anh ấy ghì tôi lại, anh cười gần muốn tắt thở luôn, tôi đứng lại.
- Cô chờ kép đưa, cô từ từ theo, cô là đào mà cô kéo kép chạy như bay, chạy theo cô hết thở, thân hình cô lại cong như mặt trăng lưỡi liềm...
Tôi thở hổn hển, mồ hôi tháo ra như tắm.
- Xin lỗi anh, mới lần đầu tôi quýnh quá! Anh lại ôm sát, tôi nhột quá, ngộp thở. Bây giờ tôi tỉnh rồi, bắt đầu nhảy lại, anh đừng giận tôi tội nghiệp.
Sau bản sì lô, tiếp theo các điệu khác trong chương trình theo tua, nhờ anh ta nhảy giỏi đưa hay, tôi rán theo được, anh ta khen:
- Hay lắm rồi, cô rán trong vòng hai tuần là cô nhảy giỏi, người cho nhẹ, cần điểm đó.
Tài bán lại khều tôi nói nhỏ:
- Có người khách Nhựt cần một cô biết tiếng Anh.
Anh ta kêu tài bán:
- Không sang bàn nào cả. Tôi bao tích kê cho cô ta trọn buổi này.
Tài bán dạ dạ rồi đi.
Tôi hỏi:
- Sao anh lại bao tích kê chi vậy.
- Cô chưa hiểu, nơi đây chúng tôi là khách đến chơi hằng đêm, biết cách xài đẹp. Theo đúng luật là phải để cho các cô sang bàn, mới có nhiều tích kê. Theo giá là mỗi giờ một tích kê, nhưng đâu có ai ngồi đúng một giờ. Các cô mánh lới lắm, ngồi nhảy chừng hai bận là nở nụ cười xã giao, "xin cho em sang bàn, một chút xíu em trở lại". Làm như vậy một đêm sang mấy bàn, tuỳ theo cô nào có quen khách nhiều, có khi gặp khách tử tế biết điệu, nhảy vài bản cũng trả hai ba ticket. Riêng cô mới đến làm còn chập chững, lại vui tánh, tôi muốn lưu cô lại ngồi lâu, tôi bao trả nhiều tỉch kê cho tài bán, hắn mừng lắm.
Khi mãn giờ trước khi ra về, tài bán đưa cho tôi sáu ticket, chưa biết tôi hỏi:
- Thưa ông bao nhiêu tiền đây?
- Thì họ bao bàn trả luôn sáu cái, là chín mươi bạc, cô sáu chủ bốn.
Trên đường về tôi khoe với em Sử:
- Em ơi! Hôm nay mới biết rõ là làm vũ nữ, cũng vui mà cũng buồn cười. May mà mấy năm trước khi đi theo anh Hai ra Hải Phòng mấy tháng, anh đưa chị đi vũ trường dạy chị mấy điệu, sau này bỏ lâu quên. Mà cũng may gặp ông khách tuy còn trẻ, ông ta ra đời sau, ông ta kinh nghiệm xã giao vui tính, đã chẳng chê lại còn dạy thêm và khuyến khích.
Sử tỏ vẻ vui mừng:
- May mắn cho chị nhờ ông tổ thương, đêm khai trương mà may mắn là vui quá cở, chị rán làm tạm một thời gian, khi anh Hai về lại, anh đâu có cho chị đi làm nữa đâu.
- Em nhớ đừng nói với ba má chị đi làm vũ nữ, nói chị làm bồi! Ông bà xưa còn phong kiến. Em chưa thấy các chị, chị nào chị nấy sửa soạn đẹp lắm. Tuổi từ ba mươi sấp lên, sang trọng, kim cương vòng vàng đeo chớp chớp sáng ngời, chị nhìn cũng phải mê nói chi khách đàn ông thường đêm đêm đến nghe nhạc. Họ nói rành các thứ tiếng, họ có học thức, có gia đình mà vẫn đi làm, đó là vì nghề nghiệp.
Một tháng nay tôi nhờ các chị lớn thương mình, dạy tôi lối xã giao nghề nghiệp, dạy tôi nhảy, dạy tôi cách trang sức, nhờ vậy mà tôi bớt quê. Đêm nào ông khách trẻ cũng đến chung với ba ông lớn tuổi, ông hỏi tôi "cô đi làm bằng xe gì". Tôi thật thà:
- Dạ mỗi bữa nhờ cậu em ở lối xóm đưa rước bằng xe đạp.
Ông khách cười hiền thân mật:
- Tôi đề nghị với cô nên mướn xe xích lô tháng, không mắc lắm đâu, họ đến rước, và lúc về họ đưa về, tiện hơn đi xe đạp, gặp lúc trời mưa gió thì làm sao? Tôi sẽ giới thiệu cho cô anh xe xích lô này quen, tử tế lắm, nếu cô đồng ý.
Đến tháng tôi hỏi chú xích lô bao nhiêu tiền mà từ ngày bắt đầu đi đến nay, tôi hỏi nhiều lần mà ông ta không nói. Chú cho tôi biết là bao nhiêu? Đã đúng tháng rồi.
Chú xích lô cười:
- Tiền cậu Hai trả từ lâu.
Tôi ngạc nhiên với cử chỉ im lặng của ông khách trẻ tôi quen từ hai tháng nay. Tôi hỏi:
- Chú ơi! Ông đó tử tế quá làm tôi ái ngại, ông ta quê ở đâu? làm việc gì? mà đêm nào cũng có mặt trong vũ trường.
Chú xích lô ngần ngại rồi nói nhỏ:
- Cậu Hai tên là P.V.C. quê tỉnh Vĩnh Long, đạo Hoà Hảo, có mẹ già và hai em trai. Làm việc gì tôi không biết, mà hiện nay bà cụ má của cậu nhà ở gần nhà thờ Chợ Quán, vợ tôi nấu bếp cho bà. Nghe nói cậu Hai đi làm luôn, ít khi có ở nhà, nghề gì không biết mà nghe nói khá lắm.
Một buổi trưa rằm ba má tôi đi chùa Bửu Đà trên Hoà Hưng. Tôi kể Sử nghe tâm sự giữa ông khách trẻ và tôi từ bốn tháng nay, luôn tiện Sử có ý kiến gì hay nói mình nghe thêm.
Sử ngẫm nghĩ.
- Em tuy nhỏ hơn chị một tuổi, em chưa được va chạm với tình cảm. Nhưng nếu em là ông đó đã yêu chị từ ngày đầu. Với cử chỉ mộc mạc của chị làm cho ông ta càng ngày càng mến sâu xa, chưa hề mở lời bộc lộ tình ông đã yêu chị, em phục ông ta quá! Nếu em là chị, dầu cho em có khó khăn dè dặt cách mấy, cũng sẽ có ngày... Nhưng vì hoàn cảnh ai muốn mà được đâu. Tiếc là ít ngày nữa em về Tân Hương chưa biết bao giờ lên, em sẽ chờ coi kết quả giữa chị với ông ta đi đến đâu.
Sáu tháng làm ở vũ trường, người thanh niên mà chú xích lô kêu là cậu Hai đã giúp cho tôi nhiều lắm. Từ sự nâng đỡ lo lắng chơn thành cho gia đình tôi, hằng đêm đưa tôi về, tình cảm đó đã gieo vào lòng tôi. Tôi đã phản bội với chồng tôi lúc xa nhà, tôi đã giao tình cảm trọn vẹn trong vòng tay anh ấy.
Một buổi chiều buồn khi sắp sửa đi làm thì người bị sốt, chóng mặt, linh tính báo cho tôi biết có điềm gì sẽ xảy ra. Tiếng gõ cửa nhẹ tưởng là anh ấy lại rước đi. Khi cửa vừa mở hé, tôi run người, mừng mừng tủi tủi không ngờ, đứng trước mặt tôi là anh L.B.L. chồng tôi mới về.
Chúng tôi mừng rỡ. Anh ôm tôi vào lòng anh, cười âu yếm bảo rằng:
- Thôi từ nay em không còn vất vả nữa. Anh về đã hai tuần nay, anh phải chờ làm giấy tờ xong và đòi lại nhà cửa. Có một căn phố lầu ba từng trên đường La Grandière Nhựt trả lại, anh dành cho em và ba má, mé dưới làm nhà hàng nấu cơm tháng, trên từng ba thì mình ở. Anh sẽ đưa hai đứa nhỏ ra ở với em, cho tụi nó đi học trường Tabert cho gần.
Tôi cúi xuống không dám nhìn chồng khi anh đã về quá đột ngột. Tôi rất thẹn, xấu hổ, nhưng hoàn cảnh đã xảy ra làm sao... Có tiếng chân người đứng ngoài cửa sổ nhìn vô trong lúc vợ chồng tôi vui mừng khi gặp lại.
Vừa dọn nhà về phố mới có ba hôm tôi ngã bịnh nặng. Cả nhà đem tôi vô bệnh viện Đồn Đất. Tôi mê man, khi tỉnh lại, mở mắt thấy chồng đang ngồi cạnh tôi. Anh hỏi:
- Em khỏe chưa?
- Em đã đỡ nhiều rồi. Bác sĩ nói em bị bệnh gì? Chừng nào em về nhà được?
Anh vuốt tóc tôi âu yếm, cười hiền:
- Ngày mai em về nhà được, bác sĩ nói bịnh em không quan trọng, em bị sảy thai.
Trời ơi! Người tôi run lên như phát rét, xấu hổ nhục nhã không dám ngước lên nhìn mặt chồng, chỉ biết ngồi hai tay ôm mặt khóc.
Anh hiểu ý tôi, an ủi:
- Em đừng khóc nữa, đừng thắc mắc gì, anh không buồn không trách em đâu, vì lỗi ở nơi anh. Anh không tròn bổn phận lo cho em, ra đi bỏ em lại một mình, hai tay trắng nuôi cha mẹ già trong lúc thời kỳ bom đạn... lại thêm gia đình vợ anh đối với em vô nhân đạo, phải để cho em vất vả đi làm... Thôi chuyện qua cứ để nó qua đi, anh hứa không bao giờ nhắc đến chuyện này.
Sáng nay Liên thức sớm, xách nước ra trước sân nhà tưới bông, cây bông giấy hôm nay bông héo lá vàng úa, cành khô. Liên vừa tỉa lá vàng, miệng lảm nhảm nói một mình:
- Chèn ơi! Cây bông giấy này trồng mấy năm nay bông đầy, lá xanh xum xuê, màu hoa tím hồng leo bò chằng chịt, rẽ ra có tán rộng như mái nhà, ai đi ngang qua đây đều khen, mới có tháng nay giải phóng vô, không biết sao nó héo khô như củi mục vậy hè...
Tôi ngồi trong xó cửa cách xa Liên chừng hai thước, đôi tay đang cầm hai cây que đan áo, nói đùa vừa cười:
- Người như mình đây còn tàn úa, sắp gục ngã, đừng nói chi là cây.
Tiếng máy xe Honda thắng ngừng lại trước đường cho một người đàn ông đứng tuổi bước xuống. Người khách lạ bước thẳng đến trước mặt Liên, đứng bên ngoài cửa ngỏ song sắt hỏi:
- Thưa bà cho tôi hỏi thăm ở dãy phố này có vợ chồng ông Cò Mi Linh còn ở đây không?
Liên ngẫm nghĩ trả lời:
- Thưa ông tôi ở đây lâu lắm, mà sao tên ông đó tôi chưa từng nghe nói tới.
Người khách lạ nói thêm giọng quả quyết:
- Ông Cò Mi đó có bà vợ còn trẻ, lúc thời kỳ Nhựt bà ta đi làm vũ nữ trong Đại Thế Giới, bà ta cùng quê với vợ tôi ở Vĩnh Long.
Liên ngạc nhiên nhướng đôi mày suy nghĩ:
- À vậy chắc là dãy phố đàng kia rồi, chứ không phải ở dãy phố này.
Người khách hơi thất vọng:
- Không tôi nhớ rõ lắm, dãy này đây vì gần ba mươi năm qua khi tôi ra đi thì dãy phố này cất vừa xong, còn dãy kia chỉ là xóm nhà lá lụp xụp với đám cây cối um tùm. Mỗi khi tôi đưa bà ta về, bà chỉ ngay vào căn phố bìa này nói là nhà của cô bạn đồng hương.
Liên quay vô trong cửa đưa mắt nhìn tôi. Tôi cúi xuống, Liên vui vẻ quay sang qua chuyện khác.
- Thưa ông là cán bộ đi tập kết mới về? Rất tiếc tôi không biết ở đâu để chỉ giùm ông.
Ông buồn buồn chào Liên quay lưng đi. Liên cũng xách thùng nước ra sau nhà. Hắn nhìn tôi cười cười. Tôi giựt mình quay đầu nhìn ra sau lưng ông khách, với tướng cao ráo dáng đi gầy gầy đúng là người... Vô tình ông ta quay lưng lại, bắt gặp lúc tôi đang nhìn lén ông.
Ông bước nhanh trở lại cửa ngõ, đưa tay vô song sắt ngoắt tôi:
- Bà ơi! Có lẽ bà biết chỉ giùm cho tôi, nhìn bà tôi thấy quen lắm.
Tôi hoảng hồn lắc đầu lia lịa, ông càng kêu to, Liên từ nhà sau chạy ra hỏi:
- Chuyện gì nữa đó ông?
Ông ta chỉ tôi nói với Liên ra vẻ mừng:
- Nè bà nói dùm với bà ngồi đan áo, tôi nhìn bà quen quen, sao hỏi bà lắc đầu lia lịa vậy.
Liên nhìn tôi hiểu ý.
- Ông ơi chị ấy nhức răng.
Người khách thật thà hỏi thêm:
- Nhức răng nặng lắm sao, đến nỗi mở miệng không được hả bà?
Liên nhận thấy sự yên lặng của tôi tự nãy giờ, nàng bịa thêm:
- Xin lỗi ông, chị ấy đang ngậm thuốc, bác sĩ kêu ngậm đừng có hả miệng.
Tôi muốn bật cười mà cố rán làm thinh, cúi đầu không nhìn lên.
Ông ta trước khi sắp quay lưng bảo rằng:
- Xin lỗi tôi đã làm rộn bà. Bà nói lại với bà đó dùm, miễn biết được bà ấy chỉ nhức răng thôi là tôi mừng. Hơn tháng nay về lại tôi đi tìm mãi, sợ bà ấy thời gian xa cách có mạng hệ nào... Nhưng hôm nay, tuy là tôi thất vọng mà vẫn vui, vì không hoài công đi tìm nữa.
Sáng hôm sau hai mẹ con tôi chào gia đình Liên để cảm ơn đặng dọn nhà ở nơi khác. Đã một tháng nay tôi ăn nhờ ở đậu, thân đau yếu. Liên rất tử tế với mẹ con tôi, ngoài tình đồng hương còn là bạn học chơi với nhau từ thuở bé. Tôi không quên dặn Liên kỹ lưỡng:
- Lúc nào em có thấy ông đó lại hỏi, em nói dùm chị đã đi ra nước ngoài rồi.
Liên thắc mắc và khuyên tôi:
- Trong lúc hoàn cảnh bị đát của chị, thêm đau yếu, sao chị không nhận để cho anh ấy giúp đỡ chị phần nào, dù sao cũng tình xưa nghĩa cũ, chị phủ nhận, giả vờ như kẻ xa lạ. Đã ba mươi năm, anh trở về còn sức khỏe vậy, chắc cũng có tên tuổi lắm, về là đi tìm chị liền.
- Liên ơi! Mình không thể giải thích vì sao cho bạn nghe, chuyện qua cứ xem như không có gì, chỉ là cơn gió thoảng, hai con đường hai lối đi.
Hai năm sau trong hãng máy bay Air France trên đường Tự Do tôi bước ra, một buổi chiều trời đẹp, lòng tôi vui như mở hội, nay được có chuyến bay, hai hôm nữa phải ra đi... Buồn nhớ quê hương nhưng mừng là sẽ không vất vả thiếu hụt mọi phương diện.
Có tiếng sau lưng kêu nhỏ:
- Bà ơi chờ tôi với!
Tôi quay lưng lại, đứng chờ. Người đàn ông kêu tôi bước tới trước mặt tôi cười hiền:
- Em lấy vé máy bay sang Pháp hay nước nào?
Tôi làm thinh, lắc đầu.
Ông ta níu tay tôi siết mạnh:
- Lại lắc đầu nữa. Hai năm qua nói nhức răng ngậm thuốc, không há miệng, bác sĩ dặn vậy. Rồi hôm nay giờ phút ngắn ngủi này lại cũng lắc đầu, trả lời đi em, nói vài lời thôi.
Tôi xúc động thương anh, anh đâu có lỗi gì với tôi đâu, tôi cười:
- Anh ơi! Gần ba mươi năm tụi mình không nghe nói, giờ này có gì đâu nữa mà nói, khi tôi đã ra đi.
Anh ấy càng siết mạnh tay tôi, buồn buồn hỏi:
- Ông xã em đâu?
- Ảnh qua đời rồi.
- Em đi nước ngoài với ai?
- Đi với em gái.
- Nếu "đứa bé" kia còn chắc em không đi.
- Đứa bé kia còn, bé ấy chắc du học nước ngoài từ lâu.
- Chừng nào em đi?
- Hai hôm nữa.
- Chắc anh không tiễn em ra phi trường được.
- Cám ơn anh. Tôi cũng mong như vậy.
- Em đi viết thơ về cho anh. Anh sẽ nhờ địa chỉ một người bạn.
- Đừng anh. Tôi sẽ nhớ anh mãi trong tâm tôi đủ rồi. Còn mang tên anh theo, chưa phải lúc này.
- Chừng nào mới gặp lại em?
- Chưa hẹn được, trái đất vẫn xoay tròn.
- Em năm nay bao nhiêu tuổi?
- Anh quên rồi sao? Anh thử đếm tuổi anh thì ra tuổi tôi.
- À quên, tụi mình cùng một tuổi. "Thật tôi không ngờ, thời gian đã dạy cho con người thay đổi quá nhiều, lúc xưa là một thiếu phụ trẻ đẹp, quê mùa dịu hiền chất phác, gặp một thằng con trai mới ra trường, trong vũ trường rồi biết yêu... Sau ba mươi năm gặp lại, trước mặt tôi là một quả phụ phong trần kiêu hãnh, hững hờ, đủ can đảm đối thoại với tôi những câu ngắn ngủi nhẹ nhàng mà chua xót sâu xa..." Em không sợ tôi sẽ làm trở ngại chuyến đi của em sao?
Tôi sực nhớ lại điều đó, cũng dám có thể lắm, nhưng bình tĩnh gượng cười:
- Làm gì có chuyện đó. Tôi tin rằng không bao giờ anh thèm giở trò trẻ con đối với tôi đâu, có ích lợi gì cho anh? Chỉ gây thêm ác cảm cho nhau thôi, tình của tụi mình dầu có ngăn cách, vẫn tốt đẹp trong tâm tư của tôi mãi mãi như ngày nào. Chúng ta có lỗi gì đâu, chỉ hoàn cảnh hai con đường hai lối đi, hai chí hướng, mong rằng vẫn sống mãi trong lòng anh, rồi biết đâu một ngày còn gặp lại...
Anh ấy cười gằn buồn:
- Em trả lời nhẹ nhàng êm ả mà ý nghĩa vô cùng mỉa mai. Thôi anh vĩnh biệt em từ đây, chúc em lên đường bình an.
- Sao anh lại chào buồn vậy? Nên nói là tạm biệt nghe anh. Riêng tôi mong rằng về tuổi đời tóc bạc răng long, còn sức khỏe, thì thời gian cũng sẽ đến có một ngày gặp lại nhau trên quê hương thân yêu. Không có gì tồn tại lâu dài, chỉ có tình người, tình quê cha đất tổ, nơi đã chào đời, dưới mái nhà xưa, những cánh đồng bát ngát xanh tươi, ruộng lúa phì nhiêu cò bay thẳng cánh, quê hương đó làm sao quên được. Tôi sẽ có dịp về thăm lại người thân. Lúc ấy tôi sẽ đi tìm anh, như anh đã về tìm tôi vậy...
Tôi băng qua đường quẹo về phía chợ, nhìn lại sau lưng anh vẫn còn đứng thẫn thờ.
Một chiều đầu hạ nắng ấm trên quê hương vẫn sống mãi những kỷ niệm trong lòng tôi.
Huyền Châu
------
Nguồn: VĂN, Số 75, tháng 9-1988
Subscribe to:
Posts (Atom)