Tuesday, May 21, 2019

CẢM XÚC TRONG THƠ



Nguyễn Hưng Quốc



Một hiện tượng rất phổ biến trong thơ: hoa giả. Có hằng hà những bài thơ cứ ngồn ngộn chữ, cứ lấp lánh màu sắc và trầm trầm bổng bổng hơi nhạc nhưng lại rỗng tuếch, không nói lên được điều gì cả. Nó ném xuống ào ạt lá vàng nhưng không làm cho người ta thấy được mùa thu. Nó khua động ầm ĩ nhưng không làm thành âm vang của tiếng hát. Nó dựng lên ùn ùn những khói nhưng không tượng hình nổi một làn mây. Nó có dáng dấp của hoa nhưng lại thiếu hẳn một làn hương. Nó có tất cả, chỉ trừ một điều: cảm xúc.
Nhiều người cứ ngạc nhiên và băn khoăn không hiểu tại sao người khác cứ dửng dưng lúc đọc thơ mình. Có gì đâu! Chỉ lay động được trái tim những gì xuất phát từ chính trái tim. Chỉ có máu mới truyền được máu. Ngòi bút của anh chỉ chấm toàn nước lã mà anh đòi thiên hạ đọc xong phải rưng rưng nước mắt ư? Giỡn. Trong lãnh vực chính trị, loài người cứ vấp phải hết cái ngu này đến cái ngu khác, nhưng trong văn chương, họ tinh lắm anh à. Trong xã hội có ê hề những thiên tài... bịp, nhưng trong văn chương, chỉ còn lại những kẻ thực sự thành tâm với đời, với người.
   
Cái nền của thơ là cảm xúc. Luôn luôn là cảm xúc. Hình tượng, ngôn ngữ, tư tưởng sẽ không có nghĩa gì cả nếu chúng không tan hoà trong cảm xúc.
Hiệu quả của một bài thơ được đo lường ở khả năng truyền gợi cảm xúc. Làm thơ là một cách tỏ tình. Nói lớn hay nhỏ, dài hay ngắn, bỗng hay trầm nào có quan trọng gì. Quan trọng là ở chỗ người mình yêu có chớp mắt xúc động hay không. Làm thơ là thổi một luồng gió. Gió đo mình ở ngoài gió: ở mức độ lá reo.
Yếu tố quyết định giá trị một bài thơ cũng là cảm xúc. Bài thơ hay nào cũng đi đến chỗ tận cùng của một nỗi buồn một niềm vui một trạng thái bâng khuâng mơ hồ. Bài thơ hay nào cũng xoá nhoà hình ảnh nhà thơ, để trở thành một rung cảm của mọi người. Một buổi chiều nào, nhớ người yêu, bạn hãy đọc lại một bài thơ tình, bất kể của ai, miễn là hay, bạn sẽ thấy ngay đó là tâm sự của mình chứ không phải của bất cứ ai khác.
   
Tầm vóc của một nhà thơ, trước hết, chủ yếu tuỳ thuộc vào kích thước tâm hồn họ. Từ Nguyễn Trãi đến Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Phan Bội Châu, Tản Đà... tất cả đều là những tâm hồn lớn có khả năng thu nhận và rung cảm trước những làn sóng vỗ từ xa, từ xa, ngoài bản thân họ. Họ là những mặt hồ nước biếc, ở đó, long lanh soi chiếu cả bầu trời bao la với núi non và mây khói bềnh bồng trên cao: "Long lanh đáy nước in trời. Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng" (Nguyễn Du). Họ vui niềm vui của mọi người, đau nỗi đau của mọi người. Họ là thế hệ của họ, thời đại của họ. Họ là những "cái đĩa âm thanh" ghi nhận tất cả mọi nhịp thở xôn xao âm thầm của trời đất (Cung Trầm Tưởng).  
Nhà thơ lớn là những hạt muối. Hạt muối nhỏ nhưng chất chứa dồn nén trong mình tất cả những vị mặn chát của đại dương.
Nhà thơ lớn là những chiếc lá ngô đồng. Chiếc lá nhỏ hanh hao, bay bay trong gió thoi thóp biết mấy nhưng lại mang trong mình tất cả tín hiệu của một mùa trời đất đang đi.
Không phải tôi không biết có những nhà thơ đòi khai tử cảm xúc và nguyền rủa tình yêu. Thanh Tâm Tuyền chẳng hạn, ông tuyên bố: "Trong thơ tôi không có tình yêu nữa..." "... Mỗi tiếng mỗi lời viết ra tôi đều thấy nó chứa đựng những hằn thù, khinh bỉ, dày vò, đau đớn, tuyệt vọng... nghĩa là tất cả những thứ mà tình yêu loại trừ". Nghe mà ghê. Nhưng đừng tin nhà thơ ấy nói. Là nhà thơ, ông ta chỉ sử dụng một biện pháp thông thường trong thơ: ngoa ngữ. Nói quá đi một chút. Hơi hơi cực đoan một chút. Để làm bật nổi cái ý của mình là phân biệt hai mùa lá già và lá non trong tình yêu, lả phân biệt những tiếng đàn quen và những tiếng đàn lạ trong cảm xúc. Vả lại, liệu những "hằn thù, khinh bỉ, dày vò... " có phải là "những thứ mà tình yêu loại trừ" chăng? Không. Đó chỉ là mặt trái của tình yêu. Nguyễn Đình Chiểu từng viết "bởi chưng hay ghét cũng là hay yêu" đó mà. Đọc lại thơ Thanh Tâm Tuyền mà xem. Cảm xúc, tình yêu vẫn dạt dào lắm chứ. Này đây là nỗi xúc động trước "hương hoàng lan lẫn mái tóc người yêu". Này đây là sự xót xa trước "những người khóc lẻ loi không nguôi một phút". Này đây là sự đau đớn trước cảnh "tổ quốc ngàn đời nín thở vì trời thì xanh mà khổ đau nói sao cho hết". Còn, còn nữa. Ngay cả những sự thương tâm xảy ra ở Hung Gia Lợi, xa xôi biết ngần nào, vẫn dội vào lòng nhà thơ những cơn nhói buốt "Hãy cho anh khóc bằng mắt em". Thế đó.
"Thơ ngụ tình", ngày xưa người ta đã biết thế.
   
Có điều, không phải cảm xúc nào cũng được ngân lên thành thơ. Trước hết, cảm xúc phải thành thật. Thơ không kỵ gì cả. Có thể nói năng nhỏ nhẹ ngọt ngào trong thơ. Có thể chửi bới chát chúa phẩn nộ trong thơ. Miễn là thành thật. Có thể reo vui hân hoan như tiếng hát của trẻ thơ. Cũng có thể ngậm ngùi than thở quằn quại như tiếng khóc nghẹn vào trong của một người đã lớn. Có thể. Nhưng phải thành thật. Có thể sử dụng tất cả các phương thức biểu hiện ngôn ngữ, từ ẩn dụ đến hoán dụ, từ tả thực chân phương đến cường điệu bốc lên. Không sao cả. Miễn là thành thật.
Thời 30-45, có lắm người giẫy giụa gào thét trong thơ nhưng chỉ có một tiếng gào thét còn lại dư âm: Hàn Mặc Tử. Những người khác, còn chăng, chỉ là những tiếng thở dài. Hàn Mặc Tử tài hoa hơn? Chưa chắc. Chỉ tại ông đau đớn thật.
 
Thưa, tôi không dám say mê
Một mai tôi chết bên khe ngọc tuyền
Bây giờ tôi dại tôi điên
Chắp tay tôi lạy cả miền không gian.

Đó không phải là những câu thơ hay. Hơi sáo, trong hình tượng. Hơi cường điệu, trong ý. Nhưng chúng vẫn khiến người đọc từ mấy chục năm nay xao xuyến mãi. Chủ yếu vì cảm xúc ấy là cảm xúc thật. "Mỗi lời thơ đều dính não cân ta" (Hàn Mặc Tử).
Câu thơ thường được truyền tụng của Nguyễn Khuyến:

Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua.

 đúng  như Hoài Thanh có lần nhận xét trong Thi nhân Việt Nam cũng không phải là câu thơ hay. Nguyễn Khuyến bịa. Nhưng tình lại là tình thực, nhất là khi nó được dẫn trong cả mạch thơ rất mực chân thành:

Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác
Tôi bị đau trước bác mấy ngày
Làm sao bác vội về ngay
Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời.
Ai chẳng biết chán đời là phải
Vội vàng chi đã mãi lên tiên
Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua.
 
Cảm xúc không những cần thành thật mà còn cần tinh tế. Tinh tế để khám phá ra những nét riêng, khác, mới trong bộn bề những cảm xúc thoạt nhìn có hình dạng cứ hao hao giống nhau: hỉ nộ ái ố... Nhà thơ khóc nỗi đau của mình và qua đó, khóc dùm luôn nỗi đau của nhân loại, nhưng tiếng khóc của hắn phải có cái gì riêng để có thể dội mãi vào lòng người và không bị khỏa lấp trong muôn ngàn những tiếng khóc ông ống lồng lộng khác. Nhà thơ phải thấy được những gì người khác không thấy, nghe được những gì người khác không nghe. Mắt nhìn hờ hững chỉ thấy hoa. Hoa gì thì cũng là hoa. Nhà thơ là kẻ nhận biết "một hoa là một sắc hương" (Nguyễn Công Trứ). Tai nghe lơ đễnh chỉ dừng lại ở những tiếng động chói, gắt. Chỉ có nhà thơ là nghe được tiếng lá rơi: "Lá rơi thềm đá lạnh. Ngân nhẹ tiếng vàng khô" (Quách Tấn). Nghe ra tiếng ngân vàng khô ấy đã giỏi. Song có người còn tinh hơn: "Ngoài thềm rơi chiếc lá đa. Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng". Lại có người nghe được tiếng hoa "hát": "Vừa thoáng nghe em hát. Lời ca em thiên thâu" (Quách Thoại). Rồi lại có người nghe cả những tiếng nói thầm của vũ trụ:

Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới nước đáy hồ reo
Để nghe tơ liễu run trong gió
Và để nghe trời giảng nghĩa yêu.
(Hàn Mặc Tử)

Không những nghe, thấy, nhà thơ còn gửi gấm lòng mình vào với mọi cảnh vật của thiên nhiên, nội-tâm-hoá ngoại cảnh khiến ánh nắng chiều vàng vọt kia thành ra tâm sự nhớ nhung của mình "Ôi nắng vàng sao mà nhớ những" (Huy Cận); thành ra tâm sự bâng khuâng của mình: "Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì" (Xuân Diệu); thành ra niềm vui của mình: "Nắng đọng lời chim ca" (Quách Tấn); thành ra rưng rưng nỗi cô đơn quạnh quẻ của mình: "Nghe nắng tàn run rẩy bóng cây khô" (Nguyễn Đức Sơn). Rồi còn mưa nữa. Mưa cũng cưu mang biết mấy tâm sự của người. Có thứ mưa đau đớn buông xuống trần gian như những chấm dấu than (!) thảng thốt: "Trời da thi thể mưa ngùi chấm than. Hiên ga nhỏ giọt cường toan. Xuống tim quằn quại hàng hàng ưu tư" (Tô Thuỳ Yên). Có thứ mưa tê buốt một nỗi chán chường: "Gió mưa ẩm đục xô đầy trong tim" (Cung Trầm Tưởng). Có thứ mưa bồi hồi: "Giọt mưa thu, dạ khách đầy vơi" (Tản Đà). Có thứ mưa mang mang gợi nhớ quãng đời cô đơn buồn tênh của mình: "Nghe trời nằng nặng nghe ta buồn buồn. Nghe đi rời rạc trong hồn. Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi" (Huy Cận).

Không có mưa, không có nắng? Thì nhà thơ sẽ tạo ra một thứ thời tiết riêng:

Trời không nắng cũng không mưa
Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung.
(Hồ Dzếnh)

Có ai, trong đời, lại không một lần nhớ nhung? Nhưng chỉ dưới ngòi bút những nhà thơ tài hoa, người ta mới thấy nỗi nhớ nhung hiện ra với biết bao sắc thái, cung bậc và âm điệu khác nhau góp phần làm cho tâm hồn nhân loại giàu có thêm lên gấp bội.
Ở Nguyễn Công Trứ, nỗi nhớ thấp thoáng một chút tinh nghịch:

Trăng soi trước mặt ngờ chân bước
Gió thoảng bên tai ngỡ miệng chào.

Ở Tú Xương thì có sự khắc khoải:

Nước biếc non xanh coi vắng vẻ
Kẻ đi người lại dáng bơ vơ.

Ở Tản Đà thì có sự bực dọc, tự mình hời mình:

Quái lạ! Làm sao cứ nhớ nhau.

Ở Xuân Diệu thì có sự quay quắt xốn xang:

Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em. Anh nhớ lắm, em ơi.

Ở Quang Dũng thì bâng khuâng một cách nhẹ nhàng:

Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai.

Nguyễn Bính đằm thắm hơn song nỗi nhớ cồn cào dai dẳng biết bao nhiêu:

Trời còn có bữa sao quên mọc
Anh chẳng đêm nào không nhớ em.

Không có nỗi nhớ nào tê tái đến não nuột như nỗi nhớ của Phạm Thái lúc xa Quỳnh Như:

Buồn đốt lò vàng hương nhạt khói
Sầu nâng chén ngọc rượu không hơi.

Người ta hay nhắc đến nỗi nhớ đến ngẩn ngơ của Tự Đức (hay Nguyễn Gia Thiều?) lúc Thị Bằng chết:
 
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi.

Câu thơ hơi hơi có chút "khẩu khí" song vẫn đẹp và dễ làm xúc động lòng người. Thủ khoa Nghĩa có câu thơ khóc vợ tha thiết hơn và cũng chân thành hơn:

Có linh chín suối đừng xao lãng
Thỉnh thoảng về thăm lúc nửa đêm.

Nhà thơ là người, đi tìm trong những cảm xúc chung vốn có ở mọi người, một nét riêng của mình. Nguyễn Đức Sơn nói, làm thơ là tìm kiếm "những gì phức biệt có riêng tôi". Nhà thơ phải dựng lên, cùng với thơ, một cá tính. Ngoài đời có thể có những vườn hoa mênh mông chỉ một loài hoa. Trong thơ thì không. Ở đó, "một hoa" phải là "một sắc hương". 
Tuy nhiên, trong thơ lại có một qui luật khác: Cảm xúc trong thơ vừa rất đặc thù giữa muôn vàn những bài thơ khác nhưng không được xa lạ với cảm xúc chung của nhân loại. Nhà thơ đi sâu hun hút tận cùng bản ngã của mình không phải chỉ để gặp chính mình mà còn để gặp cái chung nhất trong nỗi niềm của con người.
Hãy đọc lại những câu thơ viết về nỗi nhớ vừa trích ở trên. Chúng khác nhau biết là ngần nào. Như hoa hồng và hoa mai. Như hơi khói và làn mây. Nhưng chúng lại gần gủi với tâm trạng của chúng ta biết là ngần nào. Mỗi người, trong hoàn cảnh nào đó, với mức độ nhớ nhung nào đó, có thể tìm thấy trong đó một tiếng nói sâu lắng của chính mình.
Làm thơ là đi vào tận cùng cõi riêng. Nhưng đọc thơ là để tìm đến một niềm chung. Để được đồng cảm với nhau.
Quách Thoại quả có lý khi nói "Ôi con người thế kỷ ở trong tôi". Xuân Diệu, thời tiền chiến, cũng có một quan niệm không khác mấy: "Nghìn trái tim trong một trái tim". Và hình như, trước đó, Victor Hugo cũng từng nói: "Lầm lẫn thay, nếu anh tưởng tôi không phải là anh".
Cho nên, có khía cạnh thứ hai của sự tinh tế: nhà thơ phải phát hiện được tâm sự chung của thế hệ, của thời đại mình. Thơ của những nhà thơ lớn không chỉ phản ảnh một nỗi niềm riêng mà còn, qua đó, long lanh sáng chân-dung-cảm-xúc của cả một lớp người. Không phải sao? Chỉ một hai câu thơ của thiền sư Không Lộ ngày nào:

Hữu thời trực thượng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư

(Có khi đỉnh núi trèo lên thẳng
Một tiếng kêu vang lạnh cả trời).

đủ nói lên cả hùng khí một thời đại vừa giành được độc lập, đang phơi phới niềm tin.
Ngược lại hai câu thơ của Đặng Dung lại nói lên tâm sự của cả một giai đoạn lịch sử tuy lửa vẫn rực đỏ giữa lòng người nhưng lịch sử chừng như chưa sáng tỏ một đường đi.

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma 
  (Thù trả chưa xong đầu đã bạc
Dưới trăng bao độ tuốt gươm mài).

Cái mới trong cảm xúc của chúng ta ở thế kỷ này là gì? Là sự bâng khuâng. Là cái sầu vô căn cứ. Người xưa có lẽ điềm đạm mực thước và duy lý lắm. Với họ, buồn là buồn; vui làm vui. Vui hay buồn đều có lý do cả. Không vì thế sự thì cũng vì sự long đong của bản thân. Tản Đà là người đầu tiên, trong thế kỷ này, sáng tác ra một "người tình nhân không quen biết", một nỗi nhớ không cụ thể một chỗ bám vào; một nỗi buồn không rõ ngọn ngành nơi khêu. Tản Đà là người đầu tiên cứ đứng ngẩn ngơ giữa đường mà nhớ bâng quơ, mà buồn bâng quơ:

Con đường vô hạn, khách đông tây
Ta nhớ ai mà mãi đứng đây.

Sau này, trong cùng chiều hướng Tản Đà vạch, Xuân Diệu còn đi xa hơn:

Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn.

Cái buồn "không hiểu vì sao tôi buồn" ấy là đặc trưng nổi bật nhất của dòng thơ tiền chiến thời 30-45. Cũng là đặc trưng cơ bản nhất trong tâm sự những người thời ấy. Lúc đầu nỗi buồn còn man mác nhẹ nhàng với Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận. Về sau, càng ngày nỗi buồn càng sâu, càng đậm, trở thành chán chường với Vũ Hoàng Chương, cay đắng với Nguyễn Vỹ, khinh bạc với Thâm Tâm.
Có điều này khá lạ lùng ít ai để ý đến: chưa ai chối cãi Vũ Hoàng Chương nhiều tài hoa hơn Nguyễn Vỹ và Thâm Tâm. Tuy nhiên dòng cảm xúc buồn bã pha lẫn chán chường của Vũ Hoàng Chương rõ ràng là không có người thừa tự. Khiến ông sau này cũng trở thành lẻ loi. Trong khi đó, cái buồn tức tối chua chát quằn quại trong "Gửi Trương Tửu" của Nguyễn Vỹ và cái buồn được thăng hoa lên thành một sự khinh bạc, ngạo nghễ, bất cần trong "Tống Biệt Hành " của Thâm Tâm lại trở thành mạch cảm xúc chính của mấy thế hệ về sau: Thơ 54-75 ở miền Nam phần lớn chới với giữa hai dạng buồn, hoặc cùng quẫn khinh bạc. Điều oái ăm là cả Nguyễn Vỹ lẫn Thâm Tâm, mỗi người đều chỉ có một bài thơ hay.

Cảm xúc cần thành thật và tinh tế. Thêm một điều kiện thứ ba nữa: phải biết cách thể hiện cảm xúc ấy ra thơ. Có nhiều nguyên tắc. Ở đây, tôi chỉ dừng lại phân tích hai nguyên tắc tôi cho là quan trọng có nhiều ảnh hưởng đến giá trị của thơ nhất.
Một là, thơ là một sự giải bày chứ không phải là một sự tuyên bố. Không phải tự dưng gào lên "Tôi buồn. Tôi buồn" là có thể thành thơ. Mà phải mô tả nỗi buồn ấy, làm nỗi buồn ấy hiện hình mồn một trong thơ. Đừng nói tôi khóc. Hãy làm cho người đọc thấy những giọt nước mắt lăn dài, ướt đẫm trong từng câu thơ. Đừng nói hoa hồng đẹp. Hãy làm cho người đọc thấy đang nở ngát giữa những dòng thơ anh một đóa hồng khoe sắc và tỏa hương.
Bùi Giáng nức nở khen bài thơ này của Ngân Giang:

Đêm mưa

Gió mưa ướt áo đủ rồi
Sao còn ngấm lạnh lòng tôi thế này
Ốm đau đã mấy tuần nay
Nụ cười đã với tháng ngày trôi xa
Giờ không gạn chút vui thừa
Tựa sông, quạnh vắng nhìn mưa rơi buồn
Nhờ ai chấp hộ mảnh hồn
Đã vì đau giận rũ tan khắp trời
Mưa rơi từng giọt mưa rơi
Lòng ai có lạnh như tôi thế này.

Thật tình, tôi đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần bài thơ này. Vẫn không thấy có gì xuất sắc. Ngân Giang tự hỏi: "Lòng ai có lạnh như tôi thế này" song qua bài thơ, tôi không cảm được cái lạnh lẽo ấy. Ngân Giang cho mưa rơi đang "ngấm lạnh" vào lòng bà song tôi ngờ cái lạnh ấy chưa đủ ngấm vào trong thơ. Huy Cận thì khác. Cũng một tựa đề "Đêm mưa"; cũng một cảm giác: cái lạnh, nhưng Huy Cận lại làm cho người đọc thấy và cảm nhận được cái lạnh ấy:

Đêm mưa làm nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nằng nặng nghe ta buồn buồn
Nghe đi rời rạc trong hồn
Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi
Rơi rơi... dìu dịu rơi rơi...
Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ...

Rất ít thanh trắc. Rất nhiều thanh bằng. Hơi thơ thật nhẹ: mưa rơi âm thầm. Hơi thơ ngân dài thật dài: mưa rơi lê thê suốt đêm.
Người ta có thể gặp một ví dụ tương tự khi so sánh bài "Buổi sớm" của Trụ Vũ:

Buổi sớm dang tay ôm vũ trụ
Tức thời tôi hoá cánh hoa mai
Màn che cửa sổ không còn nữa
Tôi nhập hồn hoa ý mãn khai.

và bài "Thược Dược" của Quách Thoại:

Đứng im bên hàng giậu
Em mỉm nụ nhiệm mầu
Lặng nhìn em kinh ngạc
Vừa thoáng nghe em hát
Lời em ca thiên thâu
Ta sụp lạy cúi đầu. 

 Trụ Vũ nói "Tôi nhập hồn hoa", "Tôi hoá cánh hoa mai" nhưng trong bài thơ, ông là ông và hoa vẫn cứ là hoa. Những câu nói ấy chỉ là những ý nghĩ chứ không được chứng hiện một cách cụ thể. Chúng trở thành khoa trương. Ở bài "Thược Dược" thì ngược lại. Có hai nhân vật: người và hoa, nhưng suốt 5 câu đầu, chủ từ chỉ người ("ta" hay "tôi") bị giấu đi. Ngỡ chỉ có hoa. Và hoa cũng không thuần tuý là hoa. Hoa là "em", nghĩa là một con người. Nhà thơ nhập hồn vào giữa lòng hoa để nghe hoa "hát": tiếng hát của thiên nhiên, của trời đất và của muôn đời.
Một bài thơ khác của Trụ Vũ cũng khá tiêu biểu cho một kiểu thất bại trong thơ: bài "Ý nghĩa cao xanh":

Nơi cõi cuối cùng của đời sống
dẫu là hư ảo - thế nhưng anh
vẫn yêu em với tình trường cửu
và đó là ý nghĩa cao xanh.

Có đủ hết các yếu tố bên ngoài của một bài thơ: âm, vần, niêm, nhịp... song đó vẫn chưa phải là một bài thơ. Nó là một thứ văn xuôi trá hình. Khuyết điểm này cũng dễ thấy ở vô số các nhà thơ khác. Họ làm thơ bằng một ý nghĩ chứ không bằng một cảm xúc. Họ dừng lại ở nửa vời trong quá trình làm thơ: không đợi ý nghĩ dâng trào lên thành những rung cảm xôn xao trong lòng mình. Có thể ví bài thơ như một thứ trái cây. Có hình dạng. Có "thịt". Có hương vị. Hình dạng trái cây là hình tượng trong bài thơ. "Thịt" trái cây là tư tưởng. Hương vị là cảm xúc. Có người vội vả chỉ hái trái còn xanh, chỉ có "thịt" - một ít tư tưởng sống chát - chứ chưa có hương vị ngọt ngào của cảm xúc. Buồn thay hiện tượng "quả xanh" ấy luôn luôn có quá nhiều trong thơ. Của ta. Của người. Ngày xưa. Bây giờ.

Nguyên tắc thứ hai trong vấn đề biểu hiện cảm xúc: phải nén cảm xúc lại, thật chặt trong thơ, để nổ bùng ra thành những dư âm day dứt không nguôi trong lòng người đọc. Cảm xúc không nên là một con nước tràn bờ, lấp lênh, tung toé mà nên là một thứ "chất nổ".
Người xưa có khá nhiều kinh nghiệm trong vấn đề này, chỉ nói đến một kinh nghiệm phổ biến mà ngày nay chúng ta hay quên nhất: cách kết thúc một bài thơ. Chính những câu kết quyết định bài thơ tắt ngay hay cứ ngân nga mãi. Có lẽ nên so sánh hai bài thơ cùng tựa "Qua đèo Ngang" của Lê Thánh Tông và của Bà huyện Thanh Quan để dễ thấy.

Lê Thánh Tông:

Bãi thẳm ngàn xa cảnh vắng teo
Đèo Ngang lợi bể nước trong veo
Thà là cúi xuống cây đòi sụt
Xô xát trông lên sóng muốn trèo
Lảnh chảnh đầu mầm chim vững tổ
Lanh chanh cuối vụng cá ngong triều
Cuộc cờ kim cổ chừng bao nả
Nước non trông qua vẫn bấy nhiêu.  

Bà huyện Thanh Quan:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông rợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.

Lê Thánh Tông quan sát tài tình hơn Bà huyện Thanh Quan. Bốn câu giữa trong bài thơ của Lê Thánh Tông là những câu thơ hay, có hình tượng đẹp, dù ngôn ngữ khá cổ. Tuy nhiên hai câu kết lại quá tệ. "Non nước trông qua vẫn bấy nhiêu" hoàn toàn không hợp với cái nhìn trìu mến trước thiên nhiên ở mấy câu trên. Nó như một cái thở ra chán nản. Nó làm hỏng cảm xúc được gợi lên trong cả bài. Bà huyện Thanh Quan thì ngược lại. Bốn câu đầu chỉ là cảnh. Lại là cảnh khá mờ nhạt. Câu 6-7 mới le lói lên một chút cảm xúc ngậm ngùi, nhưng còn rất chung và hơi sáo. Cảm xúc nén lại ở hai câu cuối:
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Tự dưng chúng ta thương cho cái cô đơn của nhà thơ: tất cả thiên nhiên đều gắn bó hoà hợp với nhau, "chen" vào nhau, tạo thành một khung cảnh ấm cúng để đẩy nhà thơ vào cực cùng của sự lẻ loi. "Tình riêng" của Bà huyện Thanh Quan là tình gì? Chúng ta không biết. Chỉ có hơi thơ nhè nhẹ như tiếng thở dài của câu cuối cứ âm vang mãi trong hồn ta thành một niềm bâng khuâng không dứt.
Nói chung thơ Bà huyện Thanh Quan thường hay ở câu cuối. Bà không phải là người có tài quan sát. Khung cảnh thiên nhiên trong thơ bà thường mờ nhạt. Nhưng bà biết cách gói cảm xúc mình lại, chỉ mở ra một lần, vào lúc kết và mở ra vừa phải, để người đọc cứ tiếp tục băn khoăn và bâng khuâng. Thời tiền chiến. Xuân Diệu rất ý thức trong việc sử dụng lại kinh nghiệm này. Nhiều bài thơ của ông lúc ấy kết thúc bằng những hình ảnh rất gợi âm vang:

... Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
   Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.
                   (Đây mùa thu tới)

... Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều
   Lòng không sao cả, hiu hiu khẽ buồn...
                  (Chiều)

... Ngẩng đầu ngắm mãi chưa xong nhớ
    Hoa bưởi thơm rồi: đêm đã khuya.
                   (Buồn trăng)

Huy Cận lúc ấy cũng vậy. Câu kết vừa hé ra một nỗi niềm liền bị chấm dứt ngay. Nhà thơ hơi hơi bất nhẫn, bắt người đọc cứ thao thức hoài với nỗi niềm lửng lơ kia.

... Gió về lồng lộng không che
    Hơi may hiu hắt bốn bề tâm tư...
                     (Buổi đêm mưa )

... Chân đang bước bỗng e dè, đứng lại
     Ở giữa đường làng, mùi rơm, hoa dại...
                      (Đi giữa đường thơm)

... Lòng quê dờn đợi vời con nước
    Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
                      (Trường Giang)

... Chiếu chăn không ấm người nằm một
    Thương bạn chiều hôm sầu gối tay.
                       ( Vạn Lý Tình)

Thơ cũng như tình yêu. Sự sống thực sự của nó được tính trên chiều dài thời gian đọng lại trong hồn người. Nhiều người cạn nghĩ cứ thích đo giá trị thơ ở số câu, ở tầm vóc của vấn đề. Đâu phải. Có khi chỉ là một cái móng tay cũng làm thành sự trường cửu:

Sao em móng phượng để dài
Khiến ta đi khuất còn sai mộng về.
                        (Thi Vũ)



Nguyễn Hưng Quốc





*******

TÌM HIỂU NGHỆ THUẬT THƠ VIỆT NAM

Khảo luận của Nguyễn Hưng Quốc
Quê Mẹ ấn hành. Paris 1988

























Tuesday, May 14, 2019

CẤU TRÚC CỦA MỘT BÀI THƠ



Nguyễn Hưng Quốc


Thơ, trước hết là ý, Lê Hữu Trác viết: "Thơ cốt ở ý, ý có sâu xa, thơ mới hay". Ý dựng lên cột xương sống cho thơ, khiến bài thơ dù dài bao nhiêu vẫn là một chính thể nhất quán. Ý thể hiện cái nhìn độc đáo riêng tây của nhà thơ trước những hiện tượng, những vấn đề của cuộc đời.
Nhiều người có khuynh hướng chia thơ ra làm hai loại: thơ trí tuệ và thơ tình cảm. Thơ trí tuệ coi trọng ý, đã đành. Ngay cả thơ tình cảm cũng không thể bỏ rơi ý. Không có ý, tình cảm sẽ tản mạn, bay loang như khói, chưa tụ thành hình mây. Ý là yếu tố quyết định và tạo hình của bài thơ. Bố cục gồm 4 phần trong các thể Đường luật: đề, thực, luận, kết là dựa theo ý. Sau này, thơ có khuynh hướng tự do hơn nhưng không có nghĩa là tính chất quyết định của ý bị giảm nhẹ.
Có điều, trong thơ, ý không thể là trần trụi ý, là nguyên chất ý. Ý đứng một mình không thể tạo thành thơ. Nó là văn: văn nghị luận. Nghĩa là cái gì xa lắc với thơ, không những về thể tài mà còn về loại hình. Thơ đòi hỏi ý phải gắn liền với cảm xúc. Ý phải nhập thân vào cảm xúc. Nhà thơ có một ý tưởng. Chưa đủ. Hẳn phải đợi ý tưởng ấy bồng lên trong lòng những luồng sóng vỗ. Cái nếp nhăn trên trán phải trở thành nếp nhăn trong tâm hồn. Cảm xúc phải dào lên song song với ý. Vũ Đình Liên suy nghĩ về thời gian. Thấy   trước mặt mình có cái gì của quá khứ đang ngày một tàn tạ, phôi pha đi. Ý tưởng ấy gợi lên cảm giác ngậm ngùi. Thấy nao nao thương một hình ảnh thân quen sắp tắt như Lý Thương Ẩn xa xưa thương cho cái nắng hoàng hôn vô hạn đẹp sắp tàn: bài thơ Ông Đồ ra đời không như một ý niệm trừu tượng về một sự mất đi mà còn là niềm lưu luyến đối với quá khứ, nỗi băn khoăn hiu hắt về "Những người muôn năm cũ".   
Ý và cảm xúc. Vẫn chưa đủ.  Ý và cảm xúc như là gió. Gió vốn vô thanh. Gió phải tìm đến lá cây để động tiếng rì rào. Ý và cảm xúc như là biển. Biển vốn vô ngôn. Biển phải tìm đến đá dựng để cất tiếng thì thầm. Để thành thơ, cần thêm một điều kiện nữa: hình tượng. Hình tượng là vóc dáng, là hình thù của ý và cảm xúc. Hình tượng cụ thể hoá, da thịt hoá ý và cảm xúc, biến ý và cảm xúc từ một hiện hữu trừu tượng, mơ hồ thành một hiện hữu sinh động, có màu sắc, có âm thanh. Ý niệm về thời gian, nỗi ngậm ngùi về quá khứ của Vũ Đình Liên chưa đủ để tạo ra thơ trước khi ông tìm ra được một hình tượng thật đắc: hình tượng ông đồ. Ông đồ cưu mang trọn vẹn trong thân thể hình ảnh quá khứ, từ cái thuở vàng son, ai ai cũng quí chuộng những câu đối Tết đến cái thời kỳ suy tàn, người người hết xôn xao trước một nét bút như "phượng múa rồng bay". Ngày xưa, chung quanh ông là những người ái mộ. Ngày nay, chung quanh ông chỉ là lá vàng và mưa bụi bay. Cái gì mất đi trước hết? Những người thưởng thức. Cái gì phôi pha đi trước hết? Một thói quen thẩm mỹ của con người. Bài thơ của Vũ Đình Liên như cất cánh bay lên chiếm một khoảng không gian mênh mông. Ông đồ chỉ là một điểm nhỏ. Nghề viết câu đối Tết chỉ là một điểm nhỏ. Rộng hơn và xa hơn, là một phần của nền văn hoá quá khứ đang bắt đầu chìm đi và mất hút trong "lớp sóng phế hưng".
Ý, qua hình tượng, trở thành rõ ràng hơn. Cảm xúc, qua hình tượng, trở thành sâu sắc hơn.
Ngược lại, nhờ ý và cảm xúc, hình tượng mới bay bỗng vào trong cõi thơ. Tạo nên khoảng cách xa lăng lắc giữa Thơ và Vè. Thử đọc mấy câu thơ sau đây của Tú Xương:

Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa chỗ giồng ngô khoai
Đêm nghe tiếng ếch bên tai...

  Chỉ là ba câu tả cảnh không có gì đặc sắc. Ai làm cũng được. Không khác mấy với những câu thơ Đỗ Quý Toàn nêu ra đùa trên Văn Học số 2.86: "Vui chân đến quán Chiêu Hiền. Phở ngon lại có chuối chiên đậm đà... "  Thế nhưng đến câu cuối:

Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.

 thì mọi sự đổi khác hẳn. Cánh đồng dường như biến mất. Nhà cửa và ngô khoai cũng dường như biến mất. Còn lại buồn tênh những tiếng ếch kêu. Rồi ngay cả tiếng ếch kêu cũng biến mất. Còn lại, chỉ còn lại ngân nga man mác trong tâm hồn nhà thơ những tiếng gọi đò năm xưa. Không gian im của bức tranh tĩnh vật bỗng lồng lộng vang lên khắc khoải những tiếng gọi đò. Chao ôi, tiếng gọi đò. Tiếng gọi đò vang vang trong tâm tưởng. Tiếng gọi đò vang vang trong đêm khuya. Tiếng gọi đò vang vang lạnh buốt một vùng Nam Định đang trở mình thay đổi. Thời gian sững lại, xoá nhoà quá khứ, xoá nhoà hiện tại. Nhà thơ, với câu thơ cuối trong bài, vừa làm một phép mầu: con sông lấp kia lại trở thành một con sông lao xao nước chảy như trước. Cái ảo ảnh trở thành có thật. Có thật như nỗi nhớ không nguôi giữa lòng người.
 Ý, cảm xúc và hình tượng, phải quyện chặt vào nhau, nhập thân vào nhau, cộng hưởng với nhau để tạo thành cái mả người xưa hay gọi: tứ thơ. Có thể định nghĩa tứ thơ là một ỷ tưởng gắn liền với cảm xúc hiện thân qua một hình tượng cụ thể. 
Xuân Diệu cho việc làm thơ, trước hết là kiếm tứ. Và trong việc làm thơ, theo ông cái khó nhất là việc tìm cho ra một tứ thơ hay.
Có tứ, nhà thơ còn một nhiệm vụ nữa để làm: thể hiện tứ thơ ấy ra ngôn ngữ. Bởi văn học là nghệ thuật ngôn ngữ. Cần phải tìm ra những chữ phản ảnh trung thực và sâu sắc nhất cái ý mình muốn nói; đầy đủ và có khả năng truyền cảm nhất những cảm xúc mình muốn gửi gấm; độc đáo và gây ấn tượng nhất những hình ảnh mình muốn dựng. Rõ ràng ngôn ngữ thơ phải tuỳ thuộc vào tứ thơ. Một ngôn ngữ thơ thành công là một ngôn ngữ diễn đạt tứ thơ một cách trọn vẹn nhất, hoàn chỉnh nhất. Mọi nỗ lực trau chuốt ngôn ngữ ở ngoài mục đích thể hiện tứ thơ đều là những son phấn giả tạo.
 Nếu việc đãi lọc ngôn ngữ luôn luôn là một dày vò đau đớn nhất đối với người cầm bút thì điều đó, càng đúng hơn nữa, đối với người làm thơ. Nhà thơ là kẻ trăn trở vật vã với từng con chữ một. Giả Đảo là một ví dụ cực đoan. "Thôi xao"  như ông thì hơi quá. Nghiền ngẫm suốt ba năm ròng để làm được 2 câu thơ, đọc xong, tràn nước mắt như ông thì cũng hơi quá. Tuy nhiên không có nhà thơ lớn nào lại không quằn quại đau khi sinh đẻ chữ nghĩa. Trong ngôn ngữ thơ có hai nguyên tắc lớn ít được ai nói đến: một, trong thơ, mỗi chữ là một sinh mệnh riêng, có chỗ đứng riêng, không thể xoá bỏ hay thay đổi. Nó là một con cờ trong một ván bài, là một người lính đứng nghiêm trong đội ngũ, là một tay kiếm trong thế trận các truyện kiếm hiệp hay tả. Sự tồn tại và vị trí của mỗi chữ gắn bó máu thịt  với bài thơ. Không có sự thay đổi nào không gây nên hụt hẫng. Không có ví dụ nào rõ hơn là chữ "vèo" trong câu thơ "vèo trông lá rụng đầy sân" của Tản Đà mà mọi người hay nhắc. Hai, trong thơ, tuyệt đối không có từ đồng nghĩa. Đây là điểm khác nhau cơ bản giữa thơ và văn xuôi. Trong văn xuôi có thể dễ dàng thay đổi từ mà không hại mấy đến chất văn. Trong thơ thì khác. Trong thơ, mỗi từ ngữ, ngoài nghĩa, còn có sắc thái biểu cảm, còn có âm, vần, điệu ngân, điệu vang, còn cái khí quyển tâm lý bao bọc chung quanh nó. Nguyễn Bính có câu thơ:

Em nghe hàng xóm phong thanh
Hình như họ biết chúng mình... với nhau.

    Đó chỉ là câu thơ bình thường, rất mực bình thường, nếu tác giả không dùng từ "... với nhau"  thay cho một kiểu nói quen thuộc hơn "yêu nhau". Nguyễn Bính lột trần được cái tâm lý bẽn lẽn, e ấp, thẹn thùng của người con gái ở thôn quê ngày trước. Bởi bẽn lẽn, e ấp, thẹn thùng nên người con gái ấy mới băn khoăn về việc "hàng xóm phong thanh", về việc "hình như họ biết". Chỉ bằng việc dùng chữ "với nhau" Nguyễn Bính làm cho 12 chữ còn lại của cặp lục bát trên có lý do tồn tại, làm cho 2 từ "phong thanh" "hình như" trở thành đắc thế.

Trong ngôn ngữ, ngoài ngữ nghĩa, ngữ sắc, còn có ngữ điệu bao gồm trước hết âm vần (gồm cả thanh điệu - bằng trắc) là hai yếu tố đầu tạo nên nhạc tính trong thơ. Xuân Diệu nhờ sử dụng âm "r" một phụ âm rung để tả cái lay động của lá trong gió: "Những luồng run rẩy rung rinh lá". Nguyễn Du "tả" tiếng khua lóc cóc khó nhọc của vó ngựa trên con đường dốc đá qua âm điệu của những tính từ gợi hình "Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh". Tản Đà "tả" sự sắp tàn của một năm bằng cái âm thanh yếu ớt, nhẹ nhàng như lời thều thào của một người hấp hối qua từ "hồ". "Hồng bay mấy lá năm hồ hết". Thử thay từ "hồ" ấy bằng một từ khác có nghĩa tương đương, chẳng hạn, "năm gần hết", người ta sẽ thấy ngay vai trò của ngữ âm trong thơ.
Có khi âm và vần bộc lộ nhiều hơn chính cái ngữ nghĩa của nó, chẳng hạn:

Những lúc say sưa cũng muốn chừa
Muốn chừa nhưng tỉnh lại hay ưa
Hay ưa nên nỗi không chừa được
Chừa được thì ta cũng chẳng chừa.
                      (Nguyễn Khuyến)

Muốn chừa rượu nhưng không chừa được bởi lúc này mình cũng đang say. Những vần "ưa" lập đi lập lại gợi lên cái cảm giác nhừa nhựa của một kẻ đang chếnh choáng hơi men.
Trong bài "Đêm mùa hạ", Nguyễn Khuyến chọn gieo vần trắc ở cuối câu:

Tháng tư đầu mùa hạ
Tiết trời thực oi ả
Tiếng dế kêu thiết tha
Đàn muỗi bay lả tả.

Nỗi ấy biết cùng ai
Cảnh này buồn cả dạ
Biếng nhấp năm canh chầy
Gà đã sớm giục giã.

  Để làm gì? Để cực tả cái oi ả của đêm hè và nhất là, để nói lên cái tâm trạng bức bối ngột ngạt khó chịu của mình trước thời cuộc, điều ông không hề bộc lộ thẳng ra ở bất cứ một chữ, một câu nào trong suốt bài thơ.
Bên cạnh "âm" "vần", nhịp ngắt là yếu tố quan trọng trong việc tổ chức ngôn ngữ thơ. Nhiều người đã chứng minh tính chất độc đáo của nhịp điệu trong thơ Việt Nam khi so sánh với thơ Trung Quốc. Dẫu sao, trên thực tế, nhịp điệu không ngừng biến hoá, tuỳ thuộc tài hoa mỗi người. Cũng là lục bát nhưng trong Truyện Kiều có biết bao là cách ngắt nhịp khác nhau. Sử dụng linh hoạt và sáng tạo cách ngắt nhịp khiến câu thơ tránh được sự đơn điệu, đồng thời giúp nhà thơ mô tả được cái lặng lẽ cần có trong thơ, cái lặng lẽ mà đôi khi, nghĩa của chữ khó lột trần:

Cuối đường gai gốc mọc đầy
Đi về này những lối này năm xưa.

    Ở câu 8, nhịp ngắt 3/3/2 cộng với sự lập lại hai lần từ "này" có phải giúp chúng ta hình dung ra trọn vẹn dáng vẻ trầm ngâm đau đớn của Kim Trọng khi trở về Vườn Thuý đã mù biệt, vô tăm bóng dáng của Kiều?

Sự kết hợp giữa âm, vần, nhịp ngắt và hình ảnh sẽ tạo ra cái mà chúng ta gọi là hơi thơ. Có hơi thơ chậm. Có hơi thơ nhanh. Thế Lữ tả tiếng sáo bằng hơi thơ thật chậm:

Tiếng đưa hiu hắt bên lòng
Buồn ơi! Xa vắng mênh mông là buồn.

Ngược lại hơi thơ lại chuyển sang nhanh khi tả cánh hạc bay vút lên trời cao:

Trời cao xanh ngắt. Ô kìa...
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai.

Vũ Hoàng Chương tả hai điệu vũ khác nhau:

Một:

Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm, não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ
Âm ba gờn gợn nhỏ
Ánh sáng phai phai dần...

Hai:

Lui đôi vai, tiến đôi chân
Riết đôi tay, ngả đôi thân
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió
Không biết nữa trời xanh hay sắc đỏ.

    Trong khi đó, sự kết hợp giữa âm, vần, nhịp ngắt và cảm xúc lại tạo ra cái mà chúng ta gọi là giọng thơ. Giọng thơ trực tiếp thể hiện tâm trạng của nhà thơ. Có giọng thơ hùng tráng dữ dội trong "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi. Có giọng thơ đau đớn nghẹn ngào trong "Hải ngoại huyết thư" của Phan Bội Châu. Có giọng thơ đè nén chua cay trong "Nhất định thắng" của Phùng Quán. Có giọng thơ khinh bạc trong "Gửi Trương Tửu" của Nguyễn Vỹ... Có giọng thơ ngất ngưỡng của Nguyễn Bắc Sơn, ngang tàng của Cao Tần, ngông nghênh của Ngu Yên...
Trong bài "Nhớ rừng", Thế Lữ dùng 2 giọng thơ khác nhau để tả hai tâm trạng khác nhau.
Khi con hổ nhớ quá khứ oanh liệt của mình, giọng thơ mạnh và hùng:

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên dõng dạc, đường hoàng... 

Khi con hổ nhớ những cảnh thơ mộng của núi rừng, giọng thơ nhẹ và thoáng chút bâng khuâng:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan...

Tất cả những yếu tố trên: âm, vần, nhịp, hơi thơ, giọng thơ tạo thành nhạc điệu của thơ. Có thể khẳng định nhạc điệu là yếu tính của thơ, là ranh giới quan trọng nhất phân biệt thơ và văn xuôi. Người ta có thể phá đổ tất cả mọi lề lối khuôn phép cũ, từ số chữ đến số câu, từ niêm, vần đến luật bằng bằng trắc trắc. Nhưng phải giữ lại nhạc điệu. Người ta có thể xáo tung hết mọi tổ chức từ lâu ngỡ là cố định của thơ, chặt câu thơ ra từng khúc, từng khúc:

Mặt trời mọc
Mặt trời mọc

hay kéo dài câu thơ ra miên man:

Lỡ một mai tôi chết trần truồng không cơm áo

hay nối các câu thơ lại với nhau theo kiểu bắt cầu:

Chỉ một ngày thôi. Em sẽ
trở về. Nắng cũng mong. Cây
cũng nhớ. Ngõ cũng chờ. Và bướm
cũng thêm màu trên cánh đang bay.

  nhưng phải giữ lại nhạc điệu.

Trong một chương sau, tôi sẽ phân tích riêng về vấn đề nhạc điệu, ở đây chỉ xin nêu một số đặc trưng nổi bật nhất: thơ cổ điển và thơ mới chủ yếu sử dụng nhạc điệu bên ngoài hình thành từ độ ngân vang của âm, sự luyến láy của vần, sự ngắt hơi của nhịp, ngược lại thơ tự do chủ yếu sử dụng nhạc điệu bên trong, hình thành từ sự gắn bó của ý, sự trùng điệp của hình tượng và nhất là sự dạt dào trong cảm xúc. Thơ cổ điển và thơ mới thuộc dòng thơ chủ yếu để ngâm. Thơ tự do chủ yếu thuộc dòng thơ để đọc. Thơ để ngâm gần gủi với ca nhạc. Thời Đường bên Trung Quốc, các kỹ nữ thường hay "hát" thơ. Thơ để đọc gần với văn xuôi. Trừ trường hợp được phổ nhạc, thơ tự do không thể "hát" mà cũng khó ngâm. Thơ để ngâm là loại thơ để thưởng thức bằng tai, chinh phục người đọc trước hết bằng cảm giác về âm thanh. Thơ để đọc là loại thơ để thưởng thức bằng mắt, chinh phục người đọc trước hết bằng sự độc đáo trong cấu tứ, trong tư tưởng. Chưa biết thơ tự do có giá trị thẩm mỹ hơn thơ cổ điển và thơ mới hay không nhưng đứng về phương diện tâm lý xã hội, thơ tự do, ngay từ lúc ra đời, đã chịu ngay một sự thiệt thòi lớn: người ta ít nhớ.

Ở trên, tôi đã liều nêu lên sơ bộ một số yếu tố trong một bài thơ. Tôi thử liều thêm một lần nữa, vẽ lên thành một mô hình như sau:

                                             + hình ảnh  > hơi thơ
Âm + vần + nhịp     {                                                   {  nhạc điệu
                                             + cảm xúc  > giọng thơ                              ====== >     THƠ   

Ý tưởng + cảm xúc + hình tượng                  >                tứ thơ




 
Như vậy, trong thơ có hai yếu tố quan trọng nhất: tứ thơ và nhạc điệu. Có phải vì thế mà có người gọi thơ là đi giữa ý và nhạc chăng?



Nguyễn Hưng Quốc



------------



TÌM HIỂU NGHỆ THUẬT THƠ VIỆT NAM
Khảo luận của Nguyễn Hưng Quốc
Quê Mẹ ấn hành. Paris 1988