Thursday, March 19, 2020
ÔNG NGOẠI CÓ BỒ
Ý Ngôn
Chú Năm cùng cô Sáu mở cửa bước vô tay xách bịch đồ ăn mới mua ở chợ về, bữa nay thằng con đi công tác xa, chú Năm tự nhiên dẫn "người yêu" về nhà nấu nướng mà không sợ nó dòm ngó. Thật ra hai đứa con của chú không hề phản đối việc chú có bồ, nó nói "ba còn yêu thì cứ việc yêu".
Chú Năm goá vợ một hôm đi chợ quen cô Sáu là gái "lỡ thì". Chú mới có sáu mươi chín tuổi chớ mấy, còn cô mới có sáu mươi ngoài. Anh em cô khen hai người xứng đôi vừa lứa (và cứ mong chú Năm nếu thấy được thì rước cô về để cô có dịp cơm nước săn sóc hầu hạ chú).
Cô Sáu là người thích nấu nướng, món chay món mặn gì cô cũng biết làm, chưa kể các món chè xôi bánh ngọt các thứ. Cô ở Việt Nam mới qua nên thịt mỡ, thịt ba rọi, lòng heo huyết heo giò heo cô làm láng. Cô nói ăn thịt có chút mở mới ngon. Chú Năm thì sức khỏe tốt, chưa uống thuốc như mấy ông bạn già nên chú ăn uống thoải mái, thịt bò thịt mở tôm cua thích thì cứ việc ăn khỏi cần kiêng cử. Từ ngày quen cô Sáu chú mập ra thấy rõ, mặt mày hồng hào tươi tắn. Thằng con trai chú lâu lâu chọc quê ông già: người đang yêu có khác!
Hôm nay hai người nấu món canh chua tôm rau muống, cá chiên tươi dầm nước mắm. Cô Sáu làm bếp chú Năm đứng gần bên phụ lặt rau rửa chén.
Thằng con trai chú Năm nảy giờ trong phòng lâu lâu nghe tiếng cô Sáu nhõng nhẽo: "Năm ơi lấy dùm em chai nước mắm, Năm ơi đi xúc gạo dùm em!". Nó nghĩ thầm trong bụng, bà này già mà ăn nói như đào cải lương, cái điệu bả Năm ơi Năm ơi hèn gì ông già mê còn hơn bị bỏ bùa.
"Năm ơi nhà mình còn chanh hông để đâu sao em hổng thấy"
"Để anh ra ngoài cây hái", chú Năm vừa đi vừa nói. Lúc trở vô để mấy trái chanh xuống bàn, chú nói:
- Thằng con trai anh nó để ý lắm nhe, hôm trước anh hái chanh cho em, nó làm bộ nói ba ơi cây chanh nhà mình có ai vô hái trộm.
Cô Sáu cười ngất nói nó đâu có biết Năm hái cho em.
- Biết, nó biết, thằng đó coi vậy chớ nó để ý từng chút. Mấy cái bông hường em nói đẹp em hái về nhà chưng, nó đi ra cây bông hường ngó ngó nói mới thấy tức thì đã có người hái trộm.
- Vậy à? Sao lúc đó Năm hổng cản em.
Thằng con chú Năm nghe hai người nói chuyện về nó (đâu phải vậy đâu ông già). Nó hé cửa nhìn lén hai người, cô Sáu nói gì nho nhỏ, chú Năm nhìn cô đắm đuối rồi lấy tay nhéo cô một cái, rồi ôm cô hôn nhẹ lên má. Trời trời ông già, thằng con trai này thua xa một cây số.
Có tiếng phone của người bạn đến đón, thằng con chú Năm xách cái túi xách mở cửa phòng bước ra.
- Dạ con chào dì.
Chú Năm chưng hửng:
- Ủa, ba tưởng con đi rồi chớ.
- Chuyến bay bị delay.
Nó bước ra cửa kéo ba nó lại kề tai nói nhỏ: "nảy giờ con nghe con thấy hết rồi nhe ông già".
Chú Năm cười hề hề.
Con gái chú Năm sống ở Florida, hôm nay cùng chồng và hai con về đây chơi một tuần lễ. Nghĩa là tuần lễ này chú bận lu bù đi chơi với tụi nó. Từ phi trường ra việc đầu tiên là ghé vô nhà hàng Việt ăn cơm gia đình. Cũng là canh chua cá khô tộ, lần nào về Cali con chú cũng đi ăn cơm canh chua cá kho tộ, con nhỏ ăn món đó hoài không biết ngán. Hôm sau cả gia đình dẫn nhau đi chơi khu Fisherman's Wharf ở San Francisco để mấy đứa nhỏ nhìn mấy con hải cẩu kêu ộp ộp. Rồi thì ngày nào cũng đi ăn, hết nhà hàng này đến nhà hàng khác, ăn xong dẫn nhau đi lòng vòng mấy khu buôn bán của người Việt. Chú Năm ngày nào cũng đi theo từ sáng tới tối, lội bộ muốn rả cặp giò. Nhưng chú không than, lâu lâu con cháu về thăm mình, đi chơi với nó cho nó vui, cho phải điệu ông già.
Hôm nay thứ bảy gia đình con gái chú Năm sẽ trở về lại Florida. Khoảng bốn giờ chiều sẽ lên máy bay. Sáng sớm con gái chú chuẩn bị đi chợ mua đồ ăn mang về bên đó. Chả lụa, thịt chà bông, bánh bột lộc, nem, bánh ít bánh tét... lủ khủ... thứ gì cô cũng muốn mua... thấy ham. Chồng cô luôn miệng cằn nhằn, bà này đói con mắt.
Con chú rủ chú đi chợ rồi đi ăn cơm trưa luôn một thể. Chú tìm cách từ chối, mấy ngày nay chú làm phận sự "ông già" nhiêu đó đủ rồi. Hôm nay chú bận, bận "hẹn hò". Mấy ngày nay không gặp người yêu, nhớ lắm. Cô Sáu gọi điện thoại đêm qua, hẹn chú sáng nay đi chợ, em có việc muốn hỏi Năm chỉ dùm em.
Chú Năm mở cửa bước ra ngoài, đứa con gái ngó theo thấy chú lúc rày hơi lạ, mặc áo sơ mi bỏ vô quần lại còn xức dầu thơm. Thằng con trai thấy chị nhìn cha tròn mắt nó nói:
- Ông già đi "date"
Ông anh rể nó đứng gần bật cười.
- Như vậy là cậu thua xa ba rồi.
Bà chị lên tiếng.
- Bà đó cở mấy tuổi, có đẹp không mà sao ba mê bà đó quá vậy.
- Xấu đẹp tuỳ con mắt ban giám khảo, nhưng bà đó ăn nói nhõng nhẽo dữ lắm, ngọt lắm.
- Ba thì lúc nào cũng hảo ngọt.
Thằng con trai nói với bà chị:
- Bửa em trong phòng ba tưởng em không có nhà, ba nói với bả vợ anh không ghen nhưng con nhỏ con gái anh khó chịu lắm, anh mà quen bà nào nó theo nó huýt nó háy.
Ông anh rể cười ngất ngó bà vợ.
- Sao vậy em.
- Em ghét mấy bà chồng con không nhờ, chuyện gì cũng gọi ba. Mà ông già cũng ngộ, bà nào gọi điện thoại nhờ vả, ba lẹ lẹ xách xe đi giúp. Mua IPhone cũng nhờ ba đi theo, bởi vì hổng biết nói tiếng Anh sợ người ta nói cái gì khó quá không hiểu. Bà nào... ỉa hổng ra cũng kêu ba.
Ông chồng đến vỗ vỗ vai bà vợ. Bữa nay mới biết vợ tui cũng có tánh ghen, mà ghen dùm...
- Không phải em ghen, mấy bà đó có làm gì đâu mà em ghen, em chỉ thấy... ghét. Bởi vậy bà nào điện thoại kiếm ông già rủi gặp em, em alô alô mấy bả làm thinh chẳng dám hó hé rồi tự động gát phone. Lãng xẹt.
Bà chị ngó thằng em trai.
- Mầy nói ba đi hẹn hò phải không? Đi, đi, dẫn chị tới đó coi mắt người đẹp.
Chú Năm và cô Sáu đang loay hoay chỗ hàng đồ khô lựa đồ mua, bỗng chú giật mình hai đứa cháu ngoại từ đâu chạy đến nắm tay chú kêu ông ngoại ông ngoại. Thằng cháu trai hỏi ông ngoại đi "date" hả ông ngoại. Chú chưng hửng không biết trả lời sao thì đứa cháu gái chỉ cô Sáu hỏi có phải bà này là "girlfriend" của ông ngoại. Cô Sáu cười ngất.
- Cháu của Năm đây hả, mấy tuổi mà khôn quá vậy.
Thằng con trai chú Năm ở đâu xuất hiện vỗ vai ông già làm chú giật mình.
- Bà này là gì của Năm sao Năm không giới thiệu cho mấy cháu biết.
Có một bà đứng mua đồ gần bên, nảy giờ thấy mấy người nói chuyện vui quá lên tiếng hỏi.
- Con trai anh đây hả, hai cha con giống hệt đi ngoải đường người ta tưởng hai anh em.
- Thằng này nó là "ông con" chớ đâu phải thằng con.
Chú Năm quay lại nói nhỏ nhỏ với thằng con. "Mấy bửa nay tui đã làm đầy đủ bổn phận "làm cha", bửa nay tui có chuyện đi ra ngoài một chút xíu, mầy cũng dẫn chị mầy tới đây bắt tao tại trận mầy mới chịu phải không?".
Thằng con trai đưa tay nhéo nhẹ ông già. "Đâu có phải vậy đâu Năm..."
- Mầy học cái nhéo này ở đâu vậy? Con trai bày đặt nhéo nhéo.
Chú Năm quay sang nói với cô Sáu, "em biết không, hồi đó anh mới mười bảy tuổi sắp sửa thì Tú tài một. Bửa đó rạp chiếu phim "Tinh võ môn", anh thì mê Lý Tiểu Long bạn gái anh thì mê Miêu Khả Tú. Buổi trưa ông già về nhà ăn cơm, ổng vừa leo lên giường nghỉ trưa thì anh vọt lẹ ra rạp chớp bóng. Có hẹn với bạn gái. Đang đứng sắp hàng chưa kịp mua vé, ông già thình lình xuất hiện. Trước cứa rạp hát đông người, ổng đâu có đập anh được, ổng nhéo. Vừa nhéo vừa nghiến răng miệng nói, gần tới ngày thi rồi mà không lo, bày đặt mèo chuột, mầy mà thi rớt thì chết với tao.
- Sao Năm không chạy?
- Chạy đâu? Chạy cho ổng nổi giận thêm về nhà chết với ổng, đứng đó chịu trận cho ổng nhéo. Chưa từng thấy đàn ông ... cũng nhéo.
- Cái này ngộ nhe, sao không nghe má nói ba bị ông nội nhéo vì tội đi hẹn hò.
- Bà đó đâu phải má mầy.
Đứa con gái và thằng rể từ xa đi tới.
- Đi đâu mà kéo cả nhà tới đây vầy nè. Hồi xưa mình mười bảy lén cha lén mẹ đi hẹn hò, ông già đi tới chỗ bắt tội. Giờ bảy chục đi hẹn hò, con tui nó đi tận chỗ bắt quả tang.
- Ba con nói chuyện vui quá hé dì.
Cô Sáu cười hề hề, ổng già chớ nói chuyện có duyên lắm.
Con gái chú Năm nói với cô Sáu.
- Chào dì, bữa nay con tới đây để biết mặt dì, ba con dấu dì kỹ quá. Sẵn dịp tụi con mời dì đi ăn trưa chút nữa tụi con về lại Florida rồi.
Chú Năm nói với cô Sáu, mình đi ăn với tụi nó, sẵn dịp làm lễ "công khai" luôn thể.
- Bữa nay để ba trả tiền nhe.
Mấy cha con dẫn nhau ra chỗ đậu xe. Thằng con trai nói với cha.
- Năm tính khi nào làm đám cưới, hổng ấy Năm chờ con, hai cha con mình làm đám cưới một lượt.
Chú Năm ngó thằng con trề môi.
- Chờ mầy chắc tao chống gậy.
- Vậy Năm làm đám cưới trước, con làm phù rể. Mà cha đi cưới vợ con trai làm phù rể được hông ông già, người ta có cười mình hông ông già.
- Cười! Ai cười cho họ hở mười cái răng.
Hai đứa cháu ngoại không biết có hiểu gì không, thấy người lớn cười bắt chước cười theo. Ông ngoại nói chuyện vui quá.
Tuesday, March 17, 2020
Con Chó Trắng Trong Nghĩa Địa
LÊ TẤN PHƯỚC
Đây là một chuyện ma có thật trong khu mộ dành cho người gốc Việt, người Nhật, người Tầu tại một nghĩa trang ở Honolulu, Hawaii, nơi có bản sao kiến trúc đền Byodo-In nổi tiếng của Nhật Bản. Tác giả nguyên là luật sư hành nghề tại Việt Nam trước năm 1975, qua Mỹ năm 1980. Ông hiện là Regional Manager cho Les Enterprises tại Honolulu, Hawaii. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của ông là “Tôi Hiến Tủy” phổ biến ngày 31/03/2001. Bẩy năm sau, thêm bài thứ hai, “Vợ Tôi Bị Ung Thư” ngày 3/1/2008. Và nay là bài thứ ba. Lượng bài viết tuy ít nhưng trải đều suốt 17 năm cho thấy Lê Tấn Phước là một trong những tác giả có lòng gắn bó với Việt Báo Viết Về Nước Mỹ. Mong ông tiếp tục nhịp viết mới.
* *
Con chó nhỏ nhảy qua bức tường thấp, rồi rảo chạy vào bên trong nghĩa địa. Bộ lông trắng của nó thấp thoáng dưới ánh trăng mờ ảo, như ẩn như hiện, như hư như thực. Ma quái làm sao! Tôi bỗng rùng mình nổi da gà.
Cách nay đúng hai mươi năm, hai vợ chồng tôi dọn từ California sang Hawaii sinh sống. Chúng tôi thuê một căn nhà trong chung cư ở vùng Valley of the Temples, thuộc thành phố Kaneohe.
Căn nhà có phòng ngủ nhìn về hướng Tây, sát đường xe chạy; phía bên kia đường là nghĩa địa. Đây là một nghĩa địa lớn, có những khu vực riêng cho mỗi sắc dân. Nghĩa địa được chăm sóc kỹ lưỡng với những đồi cỏ xanh tươi trông rất mát mắt. Sáng sớm hoặc chiều tà, nhà tôi và tôi thường đi bộ tập thể dục trong nghĩa địa. Chúng tôi lang thang trên các đồi cỏ xanh, vừa hưởng những làn gió mát từ biển thổi vào, vừa đọc những giòng chữ khắc trên các tấm bia mộ. Những giòng chữ ngắn gọn, tràn đầy yêu thương và tiếc nhớ của những người còn ở lại dành cho người đã ra đi.
Điều đặc biệt của nghĩa địa nầy là có một khu vực riêng dành cho những con thú cưng. Khu vực nầy nằm trên triền đồi giáp với đường xe chạy, được ngăn chia với khu vực dành cho người bởi một bức tường đá thấp.
Từ phòng ngủ căn nhà của tôi nhìn xéo về bên trái, có thể thấy rõ toàn cảnh nghĩa địa vùng Valley of the Temples.
Một tối nọ, chợt thức giấc nửa đêm, không ngủ lại được, tôi đến bên cửa sổ, nhìn mông lung ra bên ngoài. Ánh trăng như tấm lụa vàng phủ mượt mà xuống những đồi cỏ chập chùng trong nghĩa địa, toát lên một vẻ tĩnh mịch rất liêu trai.
Bỗng từ góc nghĩa địa dành cho thú cưng, một bóng trắng nhảy qua bức tường đá thấp, rảo chạy vào trong nghĩa địa. Tôi nhìn kỹ, thấy đó là một con chó nhỏ, màu trắng. Có vẻ như nó biết nó đang chạy đi đâu, nên mải miết chạy, không bận tâm nhìn chung quanh.
Dưới ánh trăng vàng mờ ảo, bóng trắng của con chó nhỏ thoạt biến thoạt hiện, xa dần, xa dần… rồi mất hút bên kia triền đồi.
Sự việc xảy ra như hư như thực. Ma quái làm sao! Tôi bỗng rùng mình nổi da gà.
Sáng sớm hôm sau tôi tò mò vào nghĩa địa xem thử chuyện gì đã xảy ra. Tôi đi một mình vì nhà tôi rất sợ ma. Tôi đã giấu nhà tôi về chuyện con chó trắng chạy trong nghĩa địa đêm hôm trước.
Đi lòng vòng trong khu vực dành cho thú cưng, tôi để ý thấy một tấm bia mộ có hình một con chó nhỏ, màu trắng, thuộc giống Toy Poodle.
Tôi đã từng nuôi hai con Toy Poodle khi còn ở Cali nên biết rõ loại nầy. Toy Poodle là loại chó rất thông minh và rất ngoan. Đặc biệt là loại nầy rất có tình, biết bày tỏ tình cảm, và biết giận biết hờn giống như tình cảm con người, chỉ thiếu điều không biết nói mà thôi.
Đọc kỹ tấm bia con Toy Poodle, thấy nó tên Monique, mất gần một năm, lúc mười một tuổi. Gia đình chủ nó đã khắc trên tấm bia giòng chữ: “Tưởng nhớ Monique – một em chó hết mực trung thành đã chết theo chủ”.
Tôi tìm khắp nghĩa địa thú cưng mà không thấy mộ con chó trắng nào nữa. Phải chăng con chó trắng chạy trong nghĩa địa đêm qua là Monique? Nghĩ tới đó, dù trời đang nắng ấm, nhưng tôi vẫn thấy lạnh xương sống.
Nhìn khuôn mặt ngoan hiền với hai con mắt ngây thơ tròn đen như hai hạt nhãn, tôi bỗng thấy thương cảm Monique vô cùng, định tâm sẽ có lúc tìm hiểu hiểu thêm câu chuyện về nó.
Trước khi ra về, tôi chắp tay cầu nguyện cho Monique sớm được siêu thoát.
Vì bận việc nên mãi hơn một tuần sau tôi mới có dịp ghé vào văn phòng nghĩa địa Valley of the Temples. Thực tình, khi gặp người quản lý của nghĩa địa, tôi chẳng biết phải mở đầu câu chuyện như thế nào vì sợ ông ta nghĩ mình mê tín dị đoan, tin chuyện ma cỏ linh tinh.
Vòng vo hồi lâu, tôi mới kể với ông quản lý rằng tôi có thấy một con chó trắng chạy trong nghĩa địa vào lúc nửa đêm, chắc là chó của ai đi lạc.
Ông ta nhìn tôi mấy giây, rồi hỏi:
– Ông thấy nó mấy lần?
Tôi đáp:
– Một lần. Tôi cũng chỉ mới dọn đến ở chung cư bên kia đường không lâu.
Ông quản lý hỏi:
– Ông có tin chuyện ma không?
Câu hỏi đến với tôi khá bất ngờ. Tôi chậm rãi trả lời một cách chung chung:
– Tôi nghĩ rằng có một thế giới vô hình mà mình không biết được. Nhưng tôi chưa gặp ma lần nào.
Ông ta nhìn thẳng vào mắt tôi, nói giọng chắc nịch:
– Ông gặp ma rồi đó. Ma chó.
Dù rằng nghi trong bụng mấy ngày nay con chó trắng chạy trong nghĩa địa có thể là ma, nhưng bây giờ nghe ông quản lý nghĩa địa khẳng định đó là ma, tôi không khỏi giật mình. Sao lại có chuyện ma quái như vậy được?
Tôi còn chưa biết nói gì, thì ông ta nói tiếp:
– Thực ra tôi cũng chưa thấy con ma chó đó bao giờ. Tôi ở ngay downtown của Honolulu, sáng đi chiều về, không ở lại ban đêm, nên không thấy nó. Nhưng người lao công của tôi ở dãy nhà phía sau nghĩa địa có thấy nó mấy lần.
Tôi vội nói:
– Ông có thể giới thiệu cho tôi gặp người lao công đó không?
– No problem. Tôi sẽ gọi cho anh ta nói rằng ông muốn hỏi thăm tin tức về con ma chó.
Căn nhà giành cho người lao công nằm ở cuối nghĩa địa, núp bóng dưới những tàn cây cổ thụ, phía sau đền Byodo-In. Đền Byodo-In này là bản sao của ngôi đền cổ cùng tên nổi tiếng của Nhật tại thành phố Kyoto. Ngôi đền tại Hawaii giống y chang ngôi đền tại Nhật, cũng có một tượng Phật to lớn ở gian giữa, nhưng không có thầy tu và cũng không hành lễ, tất cả chỉ để cho du khách tham quan.
Nhờ có người quản lý nghĩa địa gọi điện báo tin trước, nên anh lao công tiếp tôi khá niềm nở. Tôi hỏi liền:
– Nghe nói anh thấy con ma chó mấy lần, phải không?
Anh lao công trả lời:
– Dạ phải, cả thảy bốn lần.
Tôi hỏi tiếp:
– Làm sao anh biết nó là ma?
– Lần đầu em cũng không nghĩ nó là ma. Số là tối hôm đó, nửa đêm thức giấc, em chợt nghĩ không nhớ mình đã khóa cửa đền hay chưa. Sẵn trời sáng trăng, lại có gió mát, nên em đi vòng ra phía trước để coi lại cửa đền. Đi được nửa chừng, nhìn lên khu mộ của người Nhật phía bên phải, em thấy một con chó nhỏ, màu trắng, ngồi cạnh một ngôi mộ ở trên triền dốc cao, gần giáp ranh với khu mộ của người Tàu và người Việt. Em nghĩ chắc là chó của ai đi lạc, lại thấy nó nhỏ, sợ ở ngoài trời suốt đêm tội nghiệp, nên em bước lên triền dốc để bắt nó, rồi sẽ tìm cách giao lại cho chủ của nó sau. Nào ngờ khi em ngước lên nhìn, thì không còn thấy nó nữa. Em nghĩ chắc lúc em đang lúi cúi leo lên dốc, nó nghe tiếng động, nên chạy mất.
– Rồi sau đó thì sao?
Anh chàng lao công đáp:
– Em nhìn kỹ chung quanh, không thấy con chó trắng đâu nữa. Nghĩ rằng nó đã chạy mất, nên em đi xuống.
Tôi hỏi:
– Thế còn lần sau?
– Khoảng hai tháng sau, cũng vào một đêm trăng, em lại tình cờ thấy con chó trắng ngồi bên ngôi mộ ở chỗ cũ. Lần nầy em leo lên triền dốc nhẹ nhàng hơn, cố gắng không gây tiếng động. Nhưng lên đến nửa chừng, con chó lại biến mất. Em lấy làm lạ, nó chạy đi đâu nhanh vậy? Em lên đến tận ngôi mộ mà con chó đã ngồi. Đó là mộ của bà Yoshiko Fukuda. Em tìm kiếm chung quanh, cũng không thấy bóng dáng con chó nhỏ đâu cả. Em nghĩ trong bụng có gì kỳ lạ đây, thấy hơi sợ sợ. Em đi xuống mà cứ trông chừng sau lưng, sợ có ai đi theo mình.
Nghe kể đến đây, tôi hỏi tiếp:
– Còn mấy lần sau thì sao?
– Hai lần sau cũng vậy. Con chó cũng xuất hiện vào những đêm trăng, cũng ngồi hoặc nằm tại ngôi mộ bà Fukuda, và cũng biến mất khi em lên đến nơi.
Tôi hỏi:
– Anh có sợ không?
– Sợ chứ! Nhưng thấy nó không làm hại gì, nên em cũng quen. Vả lại, sau khi biết rõ câu chuyện về nó, em lại thấy thương nó hơn.
Thấy câu chuyện có vẻ hấp dẫn, tôi tò mò hỏi:
– Chuyện nó là chuyện gì?
Người lao công đáp:
– Một hôm, em gặp người em gái của bà Fukuda đi thăm mộ chị. Em kể cho chị ấy nghe về chuyện có một con chó ngồi bên mộ của bà Fukuda vào những đêm trăng sáng. Nghe xong, chị ấy vừa ngạc nhiên vừa sững sờ, rồi hỏi: “Có phải đó là con chó nhỏ màu trắng không?” Em nói: “Phải”. Chị ấy ngần ngừ một chút, rồi nói: “Anh hãy đi theo tôi. Tôi chỉ cái nầy cho anh xem”.
Sốt ruột, tôi xen vào:
– Chị ấy đưa anh đi đâu?
– Chị ấy dẫn em ra khu vực nghĩa địa dành cho thú cưng, chỉ vào một tấm bia mộ, hỏi: “Có phải nó đây không?”. Nhìn vào hình trên tấm bia, em bật miệng kêu lên: “Đúng là nó rồi!” Em còn chưa biết nói sao, thì chị ấy trầm giọng nói: “Nó là Monique, con chó cưng của chị tôi. Chị tôi coi nó như là con gái cưng của mình”. Em gái bà Fukuda ngồi xuống, lấy khăn giấy lau sạch tấm bia, kể tiếp: “Sau khi chị tôi mất, Monique buồn rầu, bỏ ăn bỏ uống, rồi mất theo chị sáu ngày sau”. Nghe thấy giọng chị ấy đượm đầy nước mắt, em đứng lặng thinh, cũng nước mắt lưng tròng.
Tôi cũng lặng thinh, thấy thương Monique vô cùng, và thấy mũi mình cay cay.
Một lúc sau, anh lao công kể tiếp:
– Trước khi ra về, chị ấy nói khi nào rảnh, sẽ kể cho em nghe nhiều chuyện về Monique.
Tôi bỗng thấy hiếu kỳ, muốn tìm hiểu rõ hơn về Monique. Tôi lấy ra tấm danh thiếp của mình, nhờ anh chàng lao công trao cho em gái bà Fukuda, nói rằng tôi rất thương cảm Monique và muốn nghe thêm chuyện về nó.
Vậy là bóng con chó trắng tôi thấy chạy trong nghĩa địa đêm hôm nọ chính là Monique. Nó chạy qua mấy triền dốc, tìm đến ngồi ngay bên mộ chủ của nó là bà Fukuda.
Đối với Monique, nghĩa tử chưa phải là nghĩa tận.
Hơn một tháng sau, tôi nhận được email của em gái bà Fukuda:
Chào ông Lê,
Chào ông Lê,
Tôi tên Shinju Fukuda, là em gái của chị Yoshiko Fukuda. Nghe nói ông rất thương xót Monique và muốn biết thêm về nó, tôi xin kể vài câu chuyện về Monique cho ông nghe.
Hai chị em tôi đều độc thân, cùng sống chung với nhau. Chị Yoshiko rất thích chó, nên chị tìm mua một con chó nhỏ về nuôi, và chị lấy tên của một người bạn thân đã mất vì tai nạn để đặt cho nó là Monique.
Ngay từ đầu, Monique đã rất quyến luyến chị Yoshiko; chị đi đâu, nó đi theo đó. Mỗi tối, chị cho nó ngủ chung giường. Từ ngày có Monique, thần sắc chị tôi như tươi hẳn ra.
Monique rất thông minh. Càng lớn, nó càng hiểu ý chị tôi muốn gì, và làm đúng theo lời sai bảo của chị trăm phần trăm.
Bởi vậy, chị Yoshiko cũng ngày càng yêu thương Monique hơn, ôm nựng nó suốt ngày, luôn miệng gọi nó là con gái yêu của mẹ. Hai mẹ con quấn quít nhau không rời. Mỗi khi ăn món gì ngon, chị còn nhai và sú cho nó nữa. Thiệt hết biết!
Một hôm, khi Monique được khoảng bảy tuổi, nó biểu hiện một thái độ rất lạ. Nó liên tục ngửi vào mũi vào miệng chị tôi, rồi sủa lên. Ngay cả khi chị Yoshiko vừa đánh răng xong, Monique cũng sủa như vậy. Chúng tôi thấy lạ, nhưng không biết là chuyện gì.
Cho đến một hôm, chị Yoshiko thấy tức ngực và khó thở. Lúc nầy, Monique càng sủa dữ dội hơn. Chị tôi bèn đi bác sĩ xem sao.
Sau khi có đủ kết quả các thứ xét nghiệm, bác sĩ cho biết chị Yoshiko bị ung thư phổi.
Đến lúc nầy, chị em tôi mới vỡ chuyện ra là Monique đã đánh hơi được chị tôi bị ung thư phổi từ trước, và nó đã sủa báo động, nhưng chúng tôi nào có biết gì đâu.
May nhờ lần nầy Monique sủa dữ dội, chị tôi mới đi bác sĩ, khám phá bị ung thư phổi, và kịp thời chữa trị.
Chị Yoshiko cầm cự được ba năm. Sang năm thứ tư thì các tế bào ung thư phát tán trở lại, nhanh hơn, dữ dội hơn.
Chị tôi phải trải qua các phương thức trị liệu mạnh hơn mong ngăn chặn được sự phát triển của các tế bào ung thư. Chị tôi trở nên tiều tụy, chỉ còn da bọc xương, đầu không còn một sợi tóc. Niềm an ủi duy nhất của chị là Monique.
Trong khoảng thời gian nầy, Monique càng quyến luyến chị tôi hơn, không rời nửa bước. Nhìn hai mắt buồn xo của nó mà thấy tội nghiệp vô cùng.
Nhớ có lần chị tôi mệt quá phải gọi xe cấp cứu đến chở vào nhà thương, Monique bị nhốt lại ở nhà, nó tru gào khóc lóc thảm thiết. Tôi nghe mà thấy đứt ruột. Vừa thương chị tôi, vừa thương Monique, nước mắt tôi chảy dài, chảy dài…
Đến khi chị Yoshiko từ nhà thương trở về, Monique mừng hết biết. Nó vừa nhảy loi choi liếm mặt chị tôi vừa khóc rí rí, như có ý nói rằng má bỏ con đi đâu vậy, má có biết con nhớ má lắm không? Chị tôi vừa ôm hôn nó vừa nói má biết, má biết, má cũng nhớ con lắm, mà nước mắt ràn rụa hai bên má chị. Tôi cố gắng lắm cũng không cầm được nước mắt. Ôi, tình mẹ con của chị Yoshiko và Monique thắm thiết làm sao!
Đến gần cuối năm thứ tư thì các tế bào ung thư đã di căn qua các bộ phận khác. Chị tôi buông xuôi, không chữa trị nữa. Mà chị cũng không còn đủ sức theo các phương thức chữa trị ngày một mạnh hơn. Giờ chị chỉ uống thuốc giảm đau, chờ ngày ra đi.
Chị Yoshiko bình thản chờ ngày ra đi. Chị không có gì luyến tiếc, ngoại trừ con Monique. Chị rơm rớm nước mắt mỗi khi ôm nó vào lòng, vừa hôn hít nựng nịu nó, vừa dặn dò tôi thay chị chăm sóc tốt cho nó. Monique như linh tính biết chuyện chẳng lành sắp xảy ra, nên lúc nào cũng rúc mình nằm sát chị tôi, không rời.
Rồi ngày chờ đợi cũng đã đến. Chị tôi ra đi nhẹ nhàng trong giấc ngủ.
Nhưng Monique không chấp nhận nhẹ nhàng chút nào. Nó hết tru từng cơn, rồi lại khóc rí rí, không cách nào dỗ dành nó được. Đến lúc cho nó nằm dưới quan tài chị Yoshiko, thì nó mới nín.
Khi làm lễ hạ huyệt, Monique vùng chạy khỏi tay tôi, nhảy xuống mộ nằm trên quan tài chị Yoshiko. Mọi người vất vả lắm mới bắt được nó đem lên. Ai thấy vậy cũng chảy nước mắt, vừa thương chị Yoshiko, mà cũng vừa thương cho Monique.
Từ hôm đó, Monique buồn rầu, bỏ ăn bỏ uống. Tôi dỗ dành mấy cũng không được. Suốt ngày nó nằm trên gối trong giường chị tôi. Nó nằm cuộn mình, dấu đầu vào dưới chân trước. Thấy thương chi lạ!
Nó cứ nằm miết như vậy. Cho đến chết. Nó quyết đi theo chị tôi.
Tôi đã làm đám tang tươm tất cho Monique. Bạn bè quen biết đều đi đưa đám nó. Ai cũng khóc khi hạ huyệt nó. Ai cũng đều thương xót Monique, một con chó trung thành đã chết theo chủ.
Monique được chôn cùng một nghĩa địa với chị Yoshiko. Tôi tin là nó đã đi tìm chị tôi vào những đêm trăng sáng. Hai mẹ con họ giờ đã gặp lại nhau ở bên kia thế giới.
Shinju Fukuda”.
Thư trên đây được viết bằng Anh ngữ. Chị em bà Fukoda, người gốc Nhật, đều là cư dân Hollolulu, HI.
Lê Tấn Phước
Monday, March 16, 2020
Phi Công Phan Thanh Vân
Hoàng Hải Thủy
Người bạn hỏi tôi:
–Anh có tin Số Mệnh và Tử Vi không ?
Tôi nói:
–Phải chia câu hỏi của anh thành hai câu hỏi: Có tin Số Mệnh không? Có tin Tử Vi không? Tôi tin con người có Số Mệnh nhưng con người không thể biết trước được đời mình sẽ ra sao. Tôi không tin khoa Tử Vi có thể biết trước những việc chưa xảy đến, sẽ xảy đến trong đời một người.
Chuyện tại sao tôi không tin Tử Vi là một đề tài khác. Hôm nay tôi mời quý vị đọc chuyện đời của Người Phi Công Không Lực Việt Nam Cộng Hòa Phan Thanh Vân để quý vị thấy như tôi thấy: con người Sống Chết có Số, Người chưa đến Số Chết thì dù có bị rơi vào cảnh Chết 1000/100 vẫn cứ Sống. Phi công Phan Thanh Vân sống những ngày cuối đời ở Virginia- Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Ðất Trích – Virginia is for Lovers – tôi gặp anh PT Vân ở Virginia.
Ðây là lời những người bạn phi công của anh viết về anh trong Tập San Lý Tưởng: Ngày 1 tháng 7 năm 1961,
Phi công Phan Thanh Vân lãnh một nhiệm vụ đặc biệt: Anh thay Phi Công Nguyễn Cao Kỳ, lái phi cơ ra miền Bắc để thả dù tiếp tế cho một đội Biệt Kích VNCH. Trong chuyến bay định mệnh này, phi cơ của anh bị hỏa tiễn của CSBV bắn rơi lúc 01 giờ 15 phút rạng ngày 2-7- 1961, khi phi cơ đang bay sát từ mặt biển vào đất liền. Máy bay rơi xuống một nơi thuộc xã Tô Hiệu, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình
.
Phi hành đoàn do anh PT Vân chỉ huy và lái gồm 2 phi công phụ: Trung Úy Phan Khắc Thích, Thiếu Úy Trần Minh Tâm, 2 điều hành viên: Thiếu Úy Tiêu Huỳnh Yên, Chuẩn Úy Phạm Trọng Mậu, 1 vô tuyến điện viên: Trung Sĩ Nguyễn Văn Nở, 1 cơ khí viên: Thượng Sĩ Phạm Văn Ðăng, và 3 Biệt Kích Dù: Thượng Sĩ Lộc, Trung Sĩ Tiết và Thượng Sĩ Khoa, thuộc Phòng 46, Sở Bắc, sau đổi thành Nha Kỹ Thuật.
Cả thảy 10 người trên phi cơ lúc bị bắn rơi xuống bãi sình lầy, rồi bốc cháy, người chết cháy vì kẹt lại trong phi cơ, người bị thương nặng rồi chết sau đó, chỉ còn lại 3 người sống sót. Cả 3 đều bị thương rất nặng. Sau một thời gian bị giam giữ hỏi cung tại Nhà Tù Hỏa Lò, Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 1961, ba chiến sĩ VNCH bị đưa ra Tòa Án Quân Sự CSBV. Bản án như sau:
- Ðinh Như Khoa, Biệt Kích Dù, 15 năm tù
–Phan Thanh Vân, trưởng phi cơ, 7 năm tù
–Phạm Văn Ðăng, cơ khí viên, 3 năm tù.
PT Vân bị tù khổ sai ở Trại Bất Bạt, Ba Vì, Sơn Tây, rồi bị đưa lên giam giữ tại Trại E ở Phố Lu, Lào Cai.
Năm 1971, PT Vân được CSBV phóng thích sau 10 năm tù giam và quản thúc. Nhờ sự bảo lãnh của bà chị ruột, qua Hồng Thập Tự Pháp, anh được sang Pháp để đoàn tụ với gia đình bà chị.
Ðây là bài viết của Phi Công Phan Thanh Vân:
Chiều nay, sau khi làm xong cái giường đôi, gã chính ủy (ủy viên chính trị) quản lý Hợp Tác Xã Mộc Ðồng Tiến ở thị xã Ba Vì, tỉnh Sơn Tây gọi tôi lên văn phòng, y nói:
–Anh nghỉ làm đi, về lán thu xếp để ngày mai về Hà Nội.
Tôi thắc mắc:
–Dạ, báo cáo cán bộ, tôi về Hà Nội có chuyện gì và về bao lâu?
Gã lạnh như tiền:
-Anh đừng hỏi, đó là lệnh trên, tôi không biết lý do. Anh cứ đi, có lẽ anh sẽ không trở về đây đâu.
Ra khỏi văn phòng cán bộ, tôi trở về lán thu xếp hành lý mà trong lòng lo sợ: lại chuyện gì đây? Ðược đưa về đây sống quản thúc ở hợp tác xã Mộc này đã gần 2 năm nay, ngày ngày, tháng tháng lòng tôi lúc nào cũng thấp thỏm lo âu với cái tội nặng là “Giặc Lái Mỹ Ngụy.”
Năm 1961, sau khi lãnh án tù 7 năm, tôi từ Hỏa Lò Hà Nội đi qua trại này, trại kia, cuối cùng là Trại Tù E Phố Lu, Lào Cai, tôi đã “ngoan ngoãn” cải tạo tư tưởng để trở thành “thành phần tiến bộ”, để sau khi hết án 7 năm tù, được hưởng thêm 2 năm “tự giác” ở lại trại giam. Và cuối cùng cho đến năm 1969, tôi đã thở phào nhẹ người khi được Ðảng và Nhà Nước “trả tự do,” đưa về đây quản thúc với nghề thợ mộc, “ngày động, tối điểm”: ban ngày lao động: cưa xẻ, đóng bàn, đóng giường, tối điểm danh trước khi đi ngủ…. Tối hôm nay trằn trọc mãi, không tài nào ngủ được, lo nghĩ lại chuyện gì sẽ đến với mình đây, tại sao lại bị đưa về Hà Nội, tại sao… tại sao…???
Nằm mãi không ngủ được thôi thì dậy, phì phèo vài điếu thuốc lào. Ngoài lán các “đồng chí” đang quây quần bên bếp lửa canh nồi bánh chưng. Nếu không có cái lệnh ngày mai đi Hà Nội thì giờ này tôi cũng ngồi bên bếp với các bạn. Rồi đêm dài cũng qua, chưa 9 giờ sáng, một chiếc xe Molotova loại nhỏ như xe Jeep của Mỹ, đến đậu trong sân Hợp Tác Xã. Rồi tôi được gọi lên văn phòng. Cán bộ chờ tôi là cán bộ Toán. Ông nhẩn nha nói: “Hôm nay tôi đưa anh về Hà Nội, rồi đưa anh ra sân bay để anh đi Pháp đoàn tụ với gia đình. Ðảng và nhà nước đã rất khoan hồng với anh và đã chấp thuận lời xin của người chị của anh ở bên Pháp, cho anh về Pháp sum họp gia đình.”
Nghe nói tôi gần tắt thở, mừng đến nỗi tim tôi đập mạnh như muốn nhảy ra ngoài, tôi cố bình tĩnh để nghe tiếp những lời lải nhải của đĩa hát cũ đã rè, lập đi lập lại, nào là “anh phải biết ơn nhân dân, biết ơn Ðảng và nhà nước,” nào là “anh phải tiếp tục cải tạo tư tưởng để thành người tiến bộ, sống ở nước ngoài anh vẫn có thể phục vụ Tổ Quốc, và để có ngày anh trở về nước phục vụ nhân dân, phục vụ Ðảng và nhà nước, v.v. và v.v.” Ông Toán nói tiếp:
“Ðây là giấy thông hành tạm cấp cho anh để anh dùng đi đường ra nước ngoài, đây là giấy máy bay của hãng Hàng Không Pháp Air France đi từ Hà Nội đến Paris. Giấy máy bay này do người chị của anh mua. Thôi, chúng ta lên đường, anh còn có ý kiến, còn muốn phát biểu gì không?”
Tôi lập bập: “Dạ… Dạ… Báo cáo cán bộ…, dạ… dạ… thưa… không!”
Chân tôi bủn rủn, đi hết muốn vững. Ðâu có ngờ! Ra đến xe thấy cán bộ quản lý chạy lại:
“Anh cầm lấy túi bánh chưng này, đây là quà Tết của Hợp Tác Xã tặng anh, cầm theo mà ăn đường.”
Xe lăn bánh rời Ba Vì, bon bon trên đường về Hà Nội. Ngồi trên xe mà lòng tôi lâng lâng, nửa tỉnh nửa mơ, mừng lo lẫn lộn, vì chưa hẳn dám tin đó là chuyện thật. Hai bên đường cây cối trơ trụi, bụi đường bốc lên sau xe, nhưng tôi thấy cái gì cũng vui tươi, cái gì cũng đẹp, sáng, tưng bừng như… Tết.
Mải triền miên với trăm nghìn ý nghĩ, tôi không để ý xe đã băng qua Hà Nội lúc nào và đang trên đường đến sân bay Bạch Mai. Tôi nhìn sân bay, ngoài bãi đậu có hai ba chiếc máy bay, một chiếc kiểu Illouchine 14 của Nga, loại máy bay vận tải chở hành khách loại nhỏ đang chuẩn bị cất cánh, năm ba người nhân công chạy chung quanh, người đổ xăng, người đi vòng phi cơ kiểm tra. Tôi theo cán bộ Toán vào quầy hành khách trình giấy tờ, giấy thông hành, giấy máy bay… Làm xong thủ tục, cán bộ Toán nói:
“Thôi đến giờ rồi, anh ra máy bay đi, anh đi mạnh giỏi và hãy nhớ những gì tốt anh đã tiếp thu được mà cố gắng trở thành người tốt.”
Tôi líu ríu: “Dạ… báo cáo cán bộ, dạ… tôi xin cám ơn!”
Tôi hối hả theo sau độ mười người nữa ra chỗ máy bay đậu. Nhìn những hành khách khác, không biết là Việt hay Tàu, người nào cũng áo bốn túi, cổ áo Mao, chắc họ là cán bộ đi công tác, còn tôi thì chả giống ai với bộ bà ba nâu, chân đi dép cao su Bình Trị Thiên, tay ôm túi bánh chưng và gói quần áo. Tôi tìm chỗ ngồi trong phi cơ. Nhìn anh phi công cao lớn, da trắng đỏ, có lẽ là người Nga, mặc đồ phi hành dân sự, đi giữa hai hàng ghế hành khách để vào buồng lái, tôi ngẩn ngơ nhớ lại… ngày nào ! Chiếc vận tải cơ Illouchine 14 của Hàng Không Nga chuyển bánh ra phi đạo, rồi cất cánh bay lên.
Toàn thân tôi rung mạnh theo đà máy bay bay lên, bỗng dưng hai mắt tôi nhắm nghiền lại, người tôi tự nhiên thấy ớn lạnh khi chợt nhớ đến… một chuyến bay xưa! Rồi những kinh hoàng, hãi hùng của những giây phút rùng rợn gần 10 năm xưa tiếp diễn qua tâm trí tôi như một cuốn phim:
Tôi nhớ chiếc phi cơ C47 trắng ngần do tôi lái đêm ấy khi vượt qua vĩ tuyến 17, bay là sát mặt biển rồi vào vùng trời miền Bắc. Cả 10 anh em chúng tôi đều thần kinh căng thẳng, không ai nói với ai một lời. Khi máy bay vào sâu nội địa, lúc ấy khoảng hơn 1 giờ đêm, đột nhiên tôi thấy nhoáng lên như ánh chớp màu da cam ngay trước mặt tôi trong bầu trời như bức màn đen, máy bay rung giật mạnh, không nghe một tiếng nổ hay bất cứ một âm thanh gì, hai tay tôi ôm cứng tay lái, cố giữ thăng bằng cho chiếc máy bay, mắt tôi còn thoáng thấy anh Mậu điều hành viên và anh Thích phi công phụ, rồi… tôi không còn biết gì nữa! Không biết mãi bao lâu sau, khi thấy lạnh run, tôi cố mở mắt nhìn trong đêm tối đen kịt, người tôi như vỡ nát ra trăm mảnh, tôi không cử động được tay chân, đau đớn tận cùng, hồn tôi lửng lơ, tôi tưởng như tôi đã chết rồi, hay đang… chết.
Sau đó dần dần một lúc, tôi mới cảm thấy đau nhừ khắp cả người, chỗ nào cũng đau, tôi không nhìn thấy gì cả, cố thu hết tàn lực đưa tay quờ quạng hốt ít nước bùn lầy đưa lên mặt để rửa. Nước bùn nhầy nhụa hòa với một thứ nước mằn mặn, máu, mặt tôi đầy máu, tôi lại mê man, tâm trí như có một khoảng trống rỗng, chẳng còn ý niệm gì về thời gian, không gian. Tôi cũng chẳng biết là cho đến bao lâu nữa, mãi khi tai tôi nghe có tiếng người văng vẳng trong gió lao xao của đêm khuya. Tiếng kêu: “Chết tôi, nóng quá, nóng quá, chết… tôi!” Tiếng kêu thảm thiết của những người đang chết cháy! Tôi không nhúc nhích gì được, một nửa người của tôi ngập sâu dưới bùn lầy, tôi cố mở mắt nhìn: cách chỗ tôi “đứng” vài trăm thước, một đám cháy to, lửa đỏ bốc lên ngùn ngụt, những tiếng thét kinh hoàng mà tôi nghe từ đó vọng ra, tôi nửa tỉnh nửa mê, lờ mờ biết rằng chiếc phi cơ C47 do tôi lái đã bị bắn rơi xuống đây và đang bốc cháy!
Tôi lại mê man bất tỉnh cho đến khi mở choàng mắt ra lần hai, lúc này tôi đã nhìn được lờ mờ thấy khung cảnh đồng ruộng sình lầy, đầu tôi đau nhức như có người lấy dao nạo vào óc, rồi tôi nghe tiếng người hò hét xa xa, tiếng léo nhéo, quát tháo vẳng trong gió đêm. Tiếng quát tháo của đàn ông, đàn bà càng lúc càng gần cùng với những ngọn đuốc lập lòe đốt sáng cả một góc trời, đầu óc tôi tê đi, cho đến lúc họ đến quát tháo bên tôi mà tôi vẫn “đứng im như một xác chết đứng.”
Họ hò nhau túm lấy tay chân tôi, kéo tôi ra khỏi sình lầy. Lúc này trời đã sáng tỏ, tôi thấy không biết bao nhiêu người, đàn ông, đàn bà lố nhố vây quanh tôi, súng ống, gậy gộc, họ hầm hè như muốn nhai xương, uống máu, ăn thịt tôi, tôi đau đớn, tôi sức tàn, tôi sợ, tôi nhắm mắt lại, rồi lại lịm đi, văng vẳng nghe tiếng quát, tiếng chửi rủa: “Coi chừng, nó hãy còn sống, đập chết nó đi, nó là biệt kích ác ôn của Mỹ Diệm !”
Cuốn phim đến đây tự nhiên tắt, tôi giựt mình bừng tỉnh dậy. Tôi đang ngồi trên chiếc ghế của hành khách, máy bay đang bay êm, tiếng máy đều đều… Trong máy bay lạnh nhưng người tôi ướt đẫm mồ hôi, ướt thấm cả bộ quần áo nâu tôi đang mặc, tôi cảm thấy lạnh, lạnh ớn xương sống… với giấc chiêm bao vừa qua !
Với tay lấy cái mền đắp lên người tôi mới nhớ ra các giấy tờ mang theo, tôi lấy ra xem. Ngoài tờ giấy thông hành tạm, đóng dấu đỏ của Bộ Công An Hà Nội là giấy máy bay của Hàng Không Pháp Air France, trong đó ghi chặng đường bay: Hà Nội, Canton, Hồng Kông, Paris. Tôi nghĩ: Tại sao ghé qua Quảng Ðông? (Canton) Ðó là đất Trung Cộng, nếu gặp lôi thôi, trở ngại biết làm sao? Mãi loay hoay với cả ngàn ý nghĩ lo âu, tôi không để ý đến đèn báo hiệu buộc dây an toàn bật sáng, cho đến khi người chiêu đãi viên đến nhắc tôi vì máy bay chuẩn bị đáp xuống.
Phi trường Quảng Ðông vắng tanh, lạnh ngắt, không thấy một sinh hoạt nào như các phi trường dân sự khác, không thấy một chiếc máy bay nào khác đậu ở sân bay, ngoài chiếc máy bay tôi đang đi, từ từ vào bến đậu. Tôi xuống máy bay theo sau lẻ tẻ hai ba người hành khách khác, đi vào trạm nhà ga. Tôi tìm ngay đến quầy của Air France. Sau khi xem giấy tờ, giấy máy bay của tôi, một người Tầu, bập bẹ tiếng Pháp, nói:
“Chúng tôi không có đường bay nối tiếp (connection) giữa Canton và Hồng Kông, theo lộ trình đã được chỉ định và trả tiền trước trong giấy của anh, chúng tôi sẽ cho anh đi Hong Kong bằng đường xe lửa, khi đến Hong Kong anh sẽ lấy máy bay đi Paris, anh theo tôi ra xe để tôi đưa anh ra nhà ga xe lửa.”
Ngồi trên xe theo người nhân viên Air France từ phi trường ra ga xe lửa, quang cảnh hai bên đường xe chạy lạ hoắc, nhưng tôi đâu còn tâm trí nào để ghi nhận! Nhà ga xe lửa Quảng Ðông nhộn nhịp ồn ào khác thường, đặc nghẹt hành khách và hành lý. Người nhân viên Tầu dắt tôi len lỏi qua đám người, chen chúc đến quầy lấy vé rồi đưa tôi lên một toa giữa con tầu, may mắn tìm được một chỗ ngồi gần cửa sổ, anh ta đưa tay bắt tay tôi, anh chúc tôi may mắn: “Bonne chance.”
Khi xe lửa bắt đầu lệnh khệnh lăn bánh, một kiểu xe lửa từ thời chiến tranh 1914-18, cũng là khi tôi thấy đói lả, mệt nhừ! Chợt nhớ túi bánh chưng xách theo từ khi rời Hà Nội, tôi mở ra lấy một cái, bóc lá, nhỏm nhẻm ăn ngon lành, thả hồn thưởng thức hương vị của bánh chưng Tết, mặc kệ quang cảnh ồn ào chung quanh, tiếng cười, tiếng nói “xí xí ngộ cỏn” của các hành khách nông thôn Tầu đủ loại, đang chen chúc nhau trong toa tàu chật hẹp. Trời đã xế chiều, tôi không có ý niệm chính xác về thời gian, đoán chừng là đã 4, 5 giờ chiều thì xe lửa từ từ dừng lại vì đã tới trạm ranh giới giữa Quảng Ðông và Hồng Kông.
Sau khi xe lửa ngừng hẳn, giữa cảnh ồn ào nhốn nháo của hành khách, tôi thấy hai người mặc đồng phục, một người Anh và một người Tầu, tôi đoán là nhân viên của Sở Di Trú (Immigration) lên toa xe để kiểm soát giấy tờ. Sau khi xem xét giấy thông hành tôi trình, nhân viên người Anh lật qua lật lại tờ giấy của tôi, xem kỹ rồi nói:
“Với giấy thông hành này của CS Hà Nội cấp cho anh đi đường, vì không phải là sổ thông hành chính thức, chúng tôi chỉ chấp nhận cho anh đi qua (transit) Hông Kông 24 tiếng đồng hồ mà thôi, sau thời gian đó, anh phải đi ra khỏi Hong Kong, nếu không chúng tôi sẽ bắt anh và trục xuất anh về Hà Nội, anh có hiểu rõ lời tôi nói không?”
Tôi xanh mặt, lắp bắp trả lời: “Yes, yes Sir!”
Tay run run cầm tờ giấy thông hành người nhân viên Anh đưa trả, tôi nghĩ thầm: “Chết cha thằng nhỏ rồi, biết lo liệu làm sao đây?” Xe lửa ngừng hẳn ở nhà ga Hong Kong, hành khách chen chúc nhau đi xuống, tôi đặt chân xuống nền xi-măng sạch mát của nhà ga, lòng tự nhiên thấy hả hê, vui lây với quang cảnh sinh hoạt của Thế Giới Tự Do! Tôi nhìn đồng hồ nhà ga, đã hơn 6 giờ chiều, tôi vội ra khỏi nhà ga, tìm đường mò về phi trường Kaitak, phi trường quốc tế của HongKong “thả cọp về rừng”, đường xá ở Hong Kong đâu có xa lạ gì với tôi, khi tôi còn lái cho Air Vietnam, nhiều lần tôi ghé qua ăn chơi ở đây. Tôi vừa đi vừa chạy, băng qua các phố xá đông nghịt người vui cảnh Tết, nhưng tôi đâu có dám dừng chân để thưởng thức gì, vừa mệt vừa lo sao cho mau đến phi trường Kaitak để bắt cho kịp chuyến máy bay Air France đi Paris.
Vào đến phi trường là lúc phố xá lên đèn, người tôi mệt nhoài, tôi hổn hển tìm đến quầy vé Air France, trình giấy máy bay để đi cho kịp chuyến AF 1002, cất cánh lúc 20 giờ đi từ Hong Kong sang Paris theo như trên bảng khởi hành (departure) mà tôi đã nhanh mắt nhìn qua. Người nhân viên Air France sau khi xem vé và giấy thông hành của tôi, nói:
“Chúng tôi rất tiếc không thể cho anh đi trên chuyến bay này vì anh mang giấy tờ của CSBV, máy bay của chúng tôi phải làm transit ở Bangkok, tôi sợ nhà cầm quyền Thái sẽ làm khó dễ anh, họ làm khó cả hãng chúng tôi vì họ đã có lời yêu cầu không được cho người Bắc Việt Nam đi trên máy bay dù người đó chỉ ghé qua Thái Lan. Tôi khuyên anh nên nhẫn nại chờ chuyến sau, hoặc bay thẳng, hoặc ghé nơi nào thuận lợi cho anh thì anh hãy đi.” Cầm giấy tờ người nhân viên đưa trả, tôi thở hắt ra: “Hỡi ơi, sao lại gặp rắc rối quá trời như thế này”.
Chân đi không vững, tôi mò ra ghế ngồi, trong lòng “trống đánh thùng thùng”, lo sợ cứ nghĩ đến giờ sẽ bị trục xuất! Sợ mà không biết phải làm sao để có thể đến Paris. Chợt có người từ đằng sau đi tới vỗ nhẹ lên vai tôi và một giọng phụ nữ vui vẻ nói bằng tiếng Pháp:
“Ê có khỏe không? Anh có phải là anh Vân, captain Air Vietnam? Ði đâu mà ăn mặc kỳ cục không giống ai hết vậy?”
Tôi quay lại, một người đẹp trong bộ y phục nữ chiêu đãi viên Hàng Không tươi cười đưa tay cho tôi bắt, nàng nói: “Anh quên tôi rồi sao? Tôi là Francoise, hôtesse Lufthansa nè!” Tôi ngỡ ngàng nhìn người thiếu phụ quen quen mà không nói được một lời, nàng huyên thuyên kể chuyện cũ. À! Thì ra nàng là Francoise Dupuis, nữ chiêu đãi viên bay cho Hàng Không Ðức, người mà thời xưa, lúc tôi còn lái cho Air Vietnam, từng được tôi mời ăn, mời uống, mời nhảy mỗi khi tôi gặp nàng ở những escale Hong Kong hay Tokyo. Tôi mừng quá là mừng. Tôi vội kể sơ cuộc đời tôi trong 10 năm vừa qua và cái rắc rối lớn tôi gặp ở đây. Nghe xong nàng nói:
“Anh đừng lo, tôi sẽ thu xếp cho anh đi Paris ngay đêm nay. Anh đưa vé máy bay của anh cho tôi, tôi sẽ lo liệu cho anh đi trên chuyến máy bay Lufthansa của tôi, cất cánh đi Frankfort lúc 10 giờ đêm nay, có ghé qua Paris, có điều là tôi dặn anh phải nhớ, khi đáp xuống Bangkok để tiếp tế xăng và lấy thêm hành khách, anh phải giả bệnh nằm lại trên phi cơ, tôi sẽ tìm cách thu xếp cho anh tránh khỏi sự kiểm soát của Thái Lan, anh nhớ nhé. Anh đi theo tôi làm thủ tục cho kịp.”
Mừng như người sắp chết được sống lại, tôi líu ríu đi theo người đẹp mà lòng xôn xao thầm nghĩ: “Sao mình may mắn được hưởng cảnh ‘thánh nhân hậu đãi kẻ khù khờ’ như vầy nè.” Sau bao nhiêu gian truân trắc trở, lo lắng trên đoạn đường đời của một người “Từ Cõi Chết Cộng Sản tìm về Cõi Sống Tự Do” cuối cùng tôi đặt chân xuống Phi Trường Orly, Pháp, ngày 7 tháng 2 năm 1971.
Cò Trắng Phan Thanh Vân
Xuân 2002
CT Hà Ðông
Những chiếc phi cơ chở Biệt Kích ra Bắc được sơn trắng toát, không có quân hiệu, số hiệu, những phi công chuyên lái những phi cơ trắng ấy được gọi là Cò Trắng. Tôi gặp Phi Công Phan Thanh Vân khoảng năm 2000, buổi gặp đầu tiên ở nhà ông Cựu Trung Tá Không Quân Hoàng Song Liêm. Vì không quen biết anh PT Vân từ trước 1975 nên nay tuy tôi rất mến anh, rất muốn biết nhiều hơn về cuộc phiêu lưu thập tử vô nhất sinh của anh, tôi không có dịp làm thân với anh để được biết thêm. Tôi chỉ biết người phi công lái chiếc phi cơ ra Bắc đêm đó là Phi Công Nguyễn Cao Kỳ. Ông này bận việc nên Phi Công Phan Thanh Vân tự nguyện bay thay. Sống sót sau tai nạn, bị mù một mắt, anh PT Vân kể ông Hồ Chí Minh ra lệnh các y sĩ phải bằng mọi giá cứu sống vài người trong số 10 anh em anh, để đưa ra tòa, tố cáo với thế giới là Miền Nam VN vi phạm Hiệp Ðịnh Genève, cho biệt kích ra đánh phá miền Bắc. Tôi được biết là các chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đều chối việc gửi Biệt Kích ra Bắc – nói là không có việc gửi Biệt Kích ra Bắc – nên người Phi Công Phan Thanh Vân khi đến Pháp không được Tòa Ðại Sứ VNCH nhận là chiến sĩ Quốc Gia, không nhận tất nhiên là không cho hưởng quyền lợi cũng không giúp gì cả. Nghe nói khi Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ đến Paris dự hội nghị, người Phi Công Phan Thanh Vân thế mạng cho ông năm xưa ở trong số người Việt đến đứng ngoài cửa Hotel đón mừng ông. Thấy bạn Phi công Phan Thanh Vân xưa, Phó TT Nguyễn Cao Kỳ bắt tay, hỏi:
– Vân đấy à???
Nếu đêm xưa ấy, Phi Công Nguyễn Cao Kỳ bay chuyến bay ra Bắc như đã định, thì hôm nay tôi đâu có gì để phải xấu hổ. Than ôi… Số. Tại Số. Ai bảo ở đời người ta không có Số? Tôi bảo Có! Sau mấy năm ở Pháp, anh Phan Thanh Vân sang sống ở Hoa Kỳ. Anh qua đời ở Virginia. Tuổi anh bằng tuổi tôi: Chúng tôi ra đời những năm 1932. 1933, 1934 Thế Kỷ Hai Mươi Trần Ai Khoai Củ! PT Vân là Công Tử Sài Gòn, hào hoa và có số đào huê hơn người. Những năm 1960 tôi nghe nói anh được hưởng “ân huệ thơm như múi mít” của hai Nữ Ca Sĩ tài danh đương thời. Trong hai Nữ Ca Sĩ này có một người tôi biết, người anh em cùng vợ với tôi là anh Hoàng Hải Thủy thấy đẹp, quyến rũ quá chời. Nhưng năm 1960, thời gian Nàng trẻ, Nàng đẹp, anh Hoàng Hải Thủy nhà tôi đã vợ con dzầm dzề dzồi nên anh không thể làm cánh bướm si tình mon men theo tà áo ngát hương của Nàng. Tôi đăng bài viết của Phi Công Phan Thanh Vân để nói với quý vị chuyện Nguời Ta ở Ðời có Số. Quần áo, giày dép, sú-cheng, si-líp còn có Số, huống chi Người Ta. Tôi cảm khái cách gì khi đọc đoạn Nàng Hotesse de l’Air Lufhansa Francoise nhẹ gót sen đi đến vỗ vai người Phi Công VNCH Tơi Tả vừa mới ra Tù đang ngồi rầu rĩ ở Phi Truong Hong Kong. Mèn ơi… Nếu là tôi, tôi ôm hun Nàng thấm thíet, Police Hong Kong có đánh 216789 cây dùi cui lên lưng, lên đầu tôi, tôi cũng không buông Nàng ra. Nàm thao tôi buông Nàng ra được ! Mèn ơi… Cảm khái cách gì !
Ðây là lời những người bạn phi công của anh viết về anh trong Tập San Lý Tưởng: Ngày 1 tháng 7 năm 1961,
Phi công Phan Thanh Vân lãnh một nhiệm vụ đặc biệt: Anh thay Phi Công Nguyễn Cao Kỳ, lái phi cơ ra miền Bắc để thả dù tiếp tế cho một đội Biệt Kích VNCH. Trong chuyến bay định mệnh này, phi cơ của anh bị hỏa tiễn của CSBV bắn rơi lúc 01 giờ 15 phút rạng ngày 2-7- 1961, khi phi cơ đang bay sát từ mặt biển vào đất liền. Máy bay rơi xuống một nơi thuộc xã Tô Hiệu, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình
.
Phi hành đoàn do anh PT Vân chỉ huy và lái gồm 2 phi công phụ: Trung Úy Phan Khắc Thích, Thiếu Úy Trần Minh Tâm, 2 điều hành viên: Thiếu Úy Tiêu Huỳnh Yên, Chuẩn Úy Phạm Trọng Mậu, 1 vô tuyến điện viên: Trung Sĩ Nguyễn Văn Nở, 1 cơ khí viên: Thượng Sĩ Phạm Văn Ðăng, và 3 Biệt Kích Dù: Thượng Sĩ Lộc, Trung Sĩ Tiết và Thượng Sĩ Khoa, thuộc Phòng 46, Sở Bắc, sau đổi thành Nha Kỹ Thuật.
Cả thảy 10 người trên phi cơ lúc bị bắn rơi xuống bãi sình lầy, rồi bốc cháy, người chết cháy vì kẹt lại trong phi cơ, người bị thương nặng rồi chết sau đó, chỉ còn lại 3 người sống sót. Cả 3 đều bị thương rất nặng. Sau một thời gian bị giam giữ hỏi cung tại Nhà Tù Hỏa Lò, Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 1961, ba chiến sĩ VNCH bị đưa ra Tòa Án Quân Sự CSBV. Bản án như sau:
- Ðinh Như Khoa, Biệt Kích Dù, 15 năm tù
–Phan Thanh Vân, trưởng phi cơ, 7 năm tù
–Phạm Văn Ðăng, cơ khí viên, 3 năm tù.
PT Vân bị tù khổ sai ở Trại Bất Bạt, Ba Vì, Sơn Tây, rồi bị đưa lên giam giữ tại Trại E ở Phố Lu, Lào Cai.
Năm 1971, PT Vân được CSBV phóng thích sau 10 năm tù giam và quản thúc. Nhờ sự bảo lãnh của bà chị ruột, qua Hồng Thập Tự Pháp, anh được sang Pháp để đoàn tụ với gia đình bà chị.
Ðây là bài viết của Phi Công Phan Thanh Vân:
Chiều nay, sau khi làm xong cái giường đôi, gã chính ủy (ủy viên chính trị) quản lý Hợp Tác Xã Mộc Ðồng Tiến ở thị xã Ba Vì, tỉnh Sơn Tây gọi tôi lên văn phòng, y nói:
–Anh nghỉ làm đi, về lán thu xếp để ngày mai về Hà Nội.
Tôi thắc mắc:
–Dạ, báo cáo cán bộ, tôi về Hà Nội có chuyện gì và về bao lâu?
Gã lạnh như tiền:
-Anh đừng hỏi, đó là lệnh trên, tôi không biết lý do. Anh cứ đi, có lẽ anh sẽ không trở về đây đâu.
Ra khỏi văn phòng cán bộ, tôi trở về lán thu xếp hành lý mà trong lòng lo sợ: lại chuyện gì đây? Ðược đưa về đây sống quản thúc ở hợp tác xã Mộc này đã gần 2 năm nay, ngày ngày, tháng tháng lòng tôi lúc nào cũng thấp thỏm lo âu với cái tội nặng là “Giặc Lái Mỹ Ngụy.”
Năm 1961, sau khi lãnh án tù 7 năm, tôi từ Hỏa Lò Hà Nội đi qua trại này, trại kia, cuối cùng là Trại Tù E Phố Lu, Lào Cai, tôi đã “ngoan ngoãn” cải tạo tư tưởng để trở thành “thành phần tiến bộ”, để sau khi hết án 7 năm tù, được hưởng thêm 2 năm “tự giác” ở lại trại giam. Và cuối cùng cho đến năm 1969, tôi đã thở phào nhẹ người khi được Ðảng và Nhà Nước “trả tự do,” đưa về đây quản thúc với nghề thợ mộc, “ngày động, tối điểm”: ban ngày lao động: cưa xẻ, đóng bàn, đóng giường, tối điểm danh trước khi đi ngủ…. Tối hôm nay trằn trọc mãi, không tài nào ngủ được, lo nghĩ lại chuyện gì sẽ đến với mình đây, tại sao lại bị đưa về Hà Nội, tại sao… tại sao…???
Nằm mãi không ngủ được thôi thì dậy, phì phèo vài điếu thuốc lào. Ngoài lán các “đồng chí” đang quây quần bên bếp lửa canh nồi bánh chưng. Nếu không có cái lệnh ngày mai đi Hà Nội thì giờ này tôi cũng ngồi bên bếp với các bạn. Rồi đêm dài cũng qua, chưa 9 giờ sáng, một chiếc xe Molotova loại nhỏ như xe Jeep của Mỹ, đến đậu trong sân Hợp Tác Xã. Rồi tôi được gọi lên văn phòng. Cán bộ chờ tôi là cán bộ Toán. Ông nhẩn nha nói: “Hôm nay tôi đưa anh về Hà Nội, rồi đưa anh ra sân bay để anh đi Pháp đoàn tụ với gia đình. Ðảng và nhà nước đã rất khoan hồng với anh và đã chấp thuận lời xin của người chị của anh ở bên Pháp, cho anh về Pháp sum họp gia đình.”
Nghe nói tôi gần tắt thở, mừng đến nỗi tim tôi đập mạnh như muốn nhảy ra ngoài, tôi cố bình tĩnh để nghe tiếp những lời lải nhải của đĩa hát cũ đã rè, lập đi lập lại, nào là “anh phải biết ơn nhân dân, biết ơn Ðảng và nhà nước,” nào là “anh phải tiếp tục cải tạo tư tưởng để thành người tiến bộ, sống ở nước ngoài anh vẫn có thể phục vụ Tổ Quốc, và để có ngày anh trở về nước phục vụ nhân dân, phục vụ Ðảng và nhà nước, v.v. và v.v.” Ông Toán nói tiếp:
“Ðây là giấy thông hành tạm cấp cho anh để anh dùng đi đường ra nước ngoài, đây là giấy máy bay của hãng Hàng Không Pháp Air France đi từ Hà Nội đến Paris. Giấy máy bay này do người chị của anh mua. Thôi, chúng ta lên đường, anh còn có ý kiến, còn muốn phát biểu gì không?”
Tôi lập bập: “Dạ… Dạ… Báo cáo cán bộ…, dạ… dạ… thưa… không!”
Chân tôi bủn rủn, đi hết muốn vững. Ðâu có ngờ! Ra đến xe thấy cán bộ quản lý chạy lại:
“Anh cầm lấy túi bánh chưng này, đây là quà Tết của Hợp Tác Xã tặng anh, cầm theo mà ăn đường.”
Xe lăn bánh rời Ba Vì, bon bon trên đường về Hà Nội. Ngồi trên xe mà lòng tôi lâng lâng, nửa tỉnh nửa mơ, mừng lo lẫn lộn, vì chưa hẳn dám tin đó là chuyện thật. Hai bên đường cây cối trơ trụi, bụi đường bốc lên sau xe, nhưng tôi thấy cái gì cũng vui tươi, cái gì cũng đẹp, sáng, tưng bừng như… Tết.
Mải triền miên với trăm nghìn ý nghĩ, tôi không để ý xe đã băng qua Hà Nội lúc nào và đang trên đường đến sân bay Bạch Mai. Tôi nhìn sân bay, ngoài bãi đậu có hai ba chiếc máy bay, một chiếc kiểu Illouchine 14 của Nga, loại máy bay vận tải chở hành khách loại nhỏ đang chuẩn bị cất cánh, năm ba người nhân công chạy chung quanh, người đổ xăng, người đi vòng phi cơ kiểm tra. Tôi theo cán bộ Toán vào quầy hành khách trình giấy tờ, giấy thông hành, giấy máy bay… Làm xong thủ tục, cán bộ Toán nói:
“Thôi đến giờ rồi, anh ra máy bay đi, anh đi mạnh giỏi và hãy nhớ những gì tốt anh đã tiếp thu được mà cố gắng trở thành người tốt.”
Tôi líu ríu: “Dạ… báo cáo cán bộ, dạ… tôi xin cám ơn!”
Tôi hối hả theo sau độ mười người nữa ra chỗ máy bay đậu. Nhìn những hành khách khác, không biết là Việt hay Tàu, người nào cũng áo bốn túi, cổ áo Mao, chắc họ là cán bộ đi công tác, còn tôi thì chả giống ai với bộ bà ba nâu, chân đi dép cao su Bình Trị Thiên, tay ôm túi bánh chưng và gói quần áo. Tôi tìm chỗ ngồi trong phi cơ. Nhìn anh phi công cao lớn, da trắng đỏ, có lẽ là người Nga, mặc đồ phi hành dân sự, đi giữa hai hàng ghế hành khách để vào buồng lái, tôi ngẩn ngơ nhớ lại… ngày nào ! Chiếc vận tải cơ Illouchine 14 của Hàng Không Nga chuyển bánh ra phi đạo, rồi cất cánh bay lên.
Toàn thân tôi rung mạnh theo đà máy bay bay lên, bỗng dưng hai mắt tôi nhắm nghiền lại, người tôi tự nhiên thấy ớn lạnh khi chợt nhớ đến… một chuyến bay xưa! Rồi những kinh hoàng, hãi hùng của những giây phút rùng rợn gần 10 năm xưa tiếp diễn qua tâm trí tôi như một cuốn phim:
Tôi nhớ chiếc phi cơ C47 trắng ngần do tôi lái đêm ấy khi vượt qua vĩ tuyến 17, bay là sát mặt biển rồi vào vùng trời miền Bắc. Cả 10 anh em chúng tôi đều thần kinh căng thẳng, không ai nói với ai một lời. Khi máy bay vào sâu nội địa, lúc ấy khoảng hơn 1 giờ đêm, đột nhiên tôi thấy nhoáng lên như ánh chớp màu da cam ngay trước mặt tôi trong bầu trời như bức màn đen, máy bay rung giật mạnh, không nghe một tiếng nổ hay bất cứ một âm thanh gì, hai tay tôi ôm cứng tay lái, cố giữ thăng bằng cho chiếc máy bay, mắt tôi còn thoáng thấy anh Mậu điều hành viên và anh Thích phi công phụ, rồi… tôi không còn biết gì nữa! Không biết mãi bao lâu sau, khi thấy lạnh run, tôi cố mở mắt nhìn trong đêm tối đen kịt, người tôi như vỡ nát ra trăm mảnh, tôi không cử động được tay chân, đau đớn tận cùng, hồn tôi lửng lơ, tôi tưởng như tôi đã chết rồi, hay đang… chết.
Sau đó dần dần một lúc, tôi mới cảm thấy đau nhừ khắp cả người, chỗ nào cũng đau, tôi không nhìn thấy gì cả, cố thu hết tàn lực đưa tay quờ quạng hốt ít nước bùn lầy đưa lên mặt để rửa. Nước bùn nhầy nhụa hòa với một thứ nước mằn mặn, máu, mặt tôi đầy máu, tôi lại mê man, tâm trí như có một khoảng trống rỗng, chẳng còn ý niệm gì về thời gian, không gian. Tôi cũng chẳng biết là cho đến bao lâu nữa, mãi khi tai tôi nghe có tiếng người văng vẳng trong gió lao xao của đêm khuya. Tiếng kêu: “Chết tôi, nóng quá, nóng quá, chết… tôi!” Tiếng kêu thảm thiết của những người đang chết cháy! Tôi không nhúc nhích gì được, một nửa người của tôi ngập sâu dưới bùn lầy, tôi cố mở mắt nhìn: cách chỗ tôi “đứng” vài trăm thước, một đám cháy to, lửa đỏ bốc lên ngùn ngụt, những tiếng thét kinh hoàng mà tôi nghe từ đó vọng ra, tôi nửa tỉnh nửa mê, lờ mờ biết rằng chiếc phi cơ C47 do tôi lái đã bị bắn rơi xuống đây và đang bốc cháy!
Tôi lại mê man bất tỉnh cho đến khi mở choàng mắt ra lần hai, lúc này tôi đã nhìn được lờ mờ thấy khung cảnh đồng ruộng sình lầy, đầu tôi đau nhức như có người lấy dao nạo vào óc, rồi tôi nghe tiếng người hò hét xa xa, tiếng léo nhéo, quát tháo vẳng trong gió đêm. Tiếng quát tháo của đàn ông, đàn bà càng lúc càng gần cùng với những ngọn đuốc lập lòe đốt sáng cả một góc trời, đầu óc tôi tê đi, cho đến lúc họ đến quát tháo bên tôi mà tôi vẫn “đứng im như một xác chết đứng.”
Họ hò nhau túm lấy tay chân tôi, kéo tôi ra khỏi sình lầy. Lúc này trời đã sáng tỏ, tôi thấy không biết bao nhiêu người, đàn ông, đàn bà lố nhố vây quanh tôi, súng ống, gậy gộc, họ hầm hè như muốn nhai xương, uống máu, ăn thịt tôi, tôi đau đớn, tôi sức tàn, tôi sợ, tôi nhắm mắt lại, rồi lại lịm đi, văng vẳng nghe tiếng quát, tiếng chửi rủa: “Coi chừng, nó hãy còn sống, đập chết nó đi, nó là biệt kích ác ôn của Mỹ Diệm !”
Cuốn phim đến đây tự nhiên tắt, tôi giựt mình bừng tỉnh dậy. Tôi đang ngồi trên chiếc ghế của hành khách, máy bay đang bay êm, tiếng máy đều đều… Trong máy bay lạnh nhưng người tôi ướt đẫm mồ hôi, ướt thấm cả bộ quần áo nâu tôi đang mặc, tôi cảm thấy lạnh, lạnh ớn xương sống… với giấc chiêm bao vừa qua !
Với tay lấy cái mền đắp lên người tôi mới nhớ ra các giấy tờ mang theo, tôi lấy ra xem. Ngoài tờ giấy thông hành tạm, đóng dấu đỏ của Bộ Công An Hà Nội là giấy máy bay của Hàng Không Pháp Air France, trong đó ghi chặng đường bay: Hà Nội, Canton, Hồng Kông, Paris. Tôi nghĩ: Tại sao ghé qua Quảng Ðông? (Canton) Ðó là đất Trung Cộng, nếu gặp lôi thôi, trở ngại biết làm sao? Mãi loay hoay với cả ngàn ý nghĩ lo âu, tôi không để ý đến đèn báo hiệu buộc dây an toàn bật sáng, cho đến khi người chiêu đãi viên đến nhắc tôi vì máy bay chuẩn bị đáp xuống.
Phi trường Quảng Ðông vắng tanh, lạnh ngắt, không thấy một sinh hoạt nào như các phi trường dân sự khác, không thấy một chiếc máy bay nào khác đậu ở sân bay, ngoài chiếc máy bay tôi đang đi, từ từ vào bến đậu. Tôi xuống máy bay theo sau lẻ tẻ hai ba người hành khách khác, đi vào trạm nhà ga. Tôi tìm ngay đến quầy của Air France. Sau khi xem giấy tờ, giấy máy bay của tôi, một người Tầu, bập bẹ tiếng Pháp, nói:
“Chúng tôi không có đường bay nối tiếp (connection) giữa Canton và Hồng Kông, theo lộ trình đã được chỉ định và trả tiền trước trong giấy của anh, chúng tôi sẽ cho anh đi Hong Kong bằng đường xe lửa, khi đến Hong Kong anh sẽ lấy máy bay đi Paris, anh theo tôi ra xe để tôi đưa anh ra nhà ga xe lửa.”
Ngồi trên xe theo người nhân viên Air France từ phi trường ra ga xe lửa, quang cảnh hai bên đường xe chạy lạ hoắc, nhưng tôi đâu còn tâm trí nào để ghi nhận! Nhà ga xe lửa Quảng Ðông nhộn nhịp ồn ào khác thường, đặc nghẹt hành khách và hành lý. Người nhân viên Tầu dắt tôi len lỏi qua đám người, chen chúc đến quầy lấy vé rồi đưa tôi lên một toa giữa con tầu, may mắn tìm được một chỗ ngồi gần cửa sổ, anh ta đưa tay bắt tay tôi, anh chúc tôi may mắn: “Bonne chance.”
Khi xe lửa bắt đầu lệnh khệnh lăn bánh, một kiểu xe lửa từ thời chiến tranh 1914-18, cũng là khi tôi thấy đói lả, mệt nhừ! Chợt nhớ túi bánh chưng xách theo từ khi rời Hà Nội, tôi mở ra lấy một cái, bóc lá, nhỏm nhẻm ăn ngon lành, thả hồn thưởng thức hương vị của bánh chưng Tết, mặc kệ quang cảnh ồn ào chung quanh, tiếng cười, tiếng nói “xí xí ngộ cỏn” của các hành khách nông thôn Tầu đủ loại, đang chen chúc nhau trong toa tàu chật hẹp. Trời đã xế chiều, tôi không có ý niệm chính xác về thời gian, đoán chừng là đã 4, 5 giờ chiều thì xe lửa từ từ dừng lại vì đã tới trạm ranh giới giữa Quảng Ðông và Hồng Kông.
Sau khi xe lửa ngừng hẳn, giữa cảnh ồn ào nhốn nháo của hành khách, tôi thấy hai người mặc đồng phục, một người Anh và một người Tầu, tôi đoán là nhân viên của Sở Di Trú (Immigration) lên toa xe để kiểm soát giấy tờ. Sau khi xem xét giấy thông hành tôi trình, nhân viên người Anh lật qua lật lại tờ giấy của tôi, xem kỹ rồi nói:
“Với giấy thông hành này của CS Hà Nội cấp cho anh đi đường, vì không phải là sổ thông hành chính thức, chúng tôi chỉ chấp nhận cho anh đi qua (transit) Hông Kông 24 tiếng đồng hồ mà thôi, sau thời gian đó, anh phải đi ra khỏi Hong Kong, nếu không chúng tôi sẽ bắt anh và trục xuất anh về Hà Nội, anh có hiểu rõ lời tôi nói không?”
Tôi xanh mặt, lắp bắp trả lời: “Yes, yes Sir!”
Tay run run cầm tờ giấy thông hành người nhân viên Anh đưa trả, tôi nghĩ thầm: “Chết cha thằng nhỏ rồi, biết lo liệu làm sao đây?” Xe lửa ngừng hẳn ở nhà ga Hong Kong, hành khách chen chúc nhau đi xuống, tôi đặt chân xuống nền xi-măng sạch mát của nhà ga, lòng tự nhiên thấy hả hê, vui lây với quang cảnh sinh hoạt của Thế Giới Tự Do! Tôi nhìn đồng hồ nhà ga, đã hơn 6 giờ chiều, tôi vội ra khỏi nhà ga, tìm đường mò về phi trường Kaitak, phi trường quốc tế của HongKong “thả cọp về rừng”, đường xá ở Hong Kong đâu có xa lạ gì với tôi, khi tôi còn lái cho Air Vietnam, nhiều lần tôi ghé qua ăn chơi ở đây. Tôi vừa đi vừa chạy, băng qua các phố xá đông nghịt người vui cảnh Tết, nhưng tôi đâu có dám dừng chân để thưởng thức gì, vừa mệt vừa lo sao cho mau đến phi trường Kaitak để bắt cho kịp chuyến máy bay Air France đi Paris.
Vào đến phi trường là lúc phố xá lên đèn, người tôi mệt nhoài, tôi hổn hển tìm đến quầy vé Air France, trình giấy máy bay để đi cho kịp chuyến AF 1002, cất cánh lúc 20 giờ đi từ Hong Kong sang Paris theo như trên bảng khởi hành (departure) mà tôi đã nhanh mắt nhìn qua. Người nhân viên Air France sau khi xem vé và giấy thông hành của tôi, nói:
“Chúng tôi rất tiếc không thể cho anh đi trên chuyến bay này vì anh mang giấy tờ của CSBV, máy bay của chúng tôi phải làm transit ở Bangkok, tôi sợ nhà cầm quyền Thái sẽ làm khó dễ anh, họ làm khó cả hãng chúng tôi vì họ đã có lời yêu cầu không được cho người Bắc Việt Nam đi trên máy bay dù người đó chỉ ghé qua Thái Lan. Tôi khuyên anh nên nhẫn nại chờ chuyến sau, hoặc bay thẳng, hoặc ghé nơi nào thuận lợi cho anh thì anh hãy đi.” Cầm giấy tờ người nhân viên đưa trả, tôi thở hắt ra: “Hỡi ơi, sao lại gặp rắc rối quá trời như thế này”.
Chân đi không vững, tôi mò ra ghế ngồi, trong lòng “trống đánh thùng thùng”, lo sợ cứ nghĩ đến giờ sẽ bị trục xuất! Sợ mà không biết phải làm sao để có thể đến Paris. Chợt có người từ đằng sau đi tới vỗ nhẹ lên vai tôi và một giọng phụ nữ vui vẻ nói bằng tiếng Pháp:
“Ê có khỏe không? Anh có phải là anh Vân, captain Air Vietnam? Ði đâu mà ăn mặc kỳ cục không giống ai hết vậy?”
Tôi quay lại, một người đẹp trong bộ y phục nữ chiêu đãi viên Hàng Không tươi cười đưa tay cho tôi bắt, nàng nói: “Anh quên tôi rồi sao? Tôi là Francoise, hôtesse Lufthansa nè!” Tôi ngỡ ngàng nhìn người thiếu phụ quen quen mà không nói được một lời, nàng huyên thuyên kể chuyện cũ. À! Thì ra nàng là Francoise Dupuis, nữ chiêu đãi viên bay cho Hàng Không Ðức, người mà thời xưa, lúc tôi còn lái cho Air Vietnam, từng được tôi mời ăn, mời uống, mời nhảy mỗi khi tôi gặp nàng ở những escale Hong Kong hay Tokyo. Tôi mừng quá là mừng. Tôi vội kể sơ cuộc đời tôi trong 10 năm vừa qua và cái rắc rối lớn tôi gặp ở đây. Nghe xong nàng nói:
“Anh đừng lo, tôi sẽ thu xếp cho anh đi Paris ngay đêm nay. Anh đưa vé máy bay của anh cho tôi, tôi sẽ lo liệu cho anh đi trên chuyến máy bay Lufthansa của tôi, cất cánh đi Frankfort lúc 10 giờ đêm nay, có ghé qua Paris, có điều là tôi dặn anh phải nhớ, khi đáp xuống Bangkok để tiếp tế xăng và lấy thêm hành khách, anh phải giả bệnh nằm lại trên phi cơ, tôi sẽ tìm cách thu xếp cho anh tránh khỏi sự kiểm soát của Thái Lan, anh nhớ nhé. Anh đi theo tôi làm thủ tục cho kịp.”
Mừng như người sắp chết được sống lại, tôi líu ríu đi theo người đẹp mà lòng xôn xao thầm nghĩ: “Sao mình may mắn được hưởng cảnh ‘thánh nhân hậu đãi kẻ khù khờ’ như vầy nè.” Sau bao nhiêu gian truân trắc trở, lo lắng trên đoạn đường đời của một người “Từ Cõi Chết Cộng Sản tìm về Cõi Sống Tự Do” cuối cùng tôi đặt chân xuống Phi Trường Orly, Pháp, ngày 7 tháng 2 năm 1971.
Cò Trắng Phan Thanh Vân
Xuân 2002
CT Hà Ðông
Những chiếc phi cơ chở Biệt Kích ra Bắc được sơn trắng toát, không có quân hiệu, số hiệu, những phi công chuyên lái những phi cơ trắng ấy được gọi là Cò Trắng. Tôi gặp Phi Công Phan Thanh Vân khoảng năm 2000, buổi gặp đầu tiên ở nhà ông Cựu Trung Tá Không Quân Hoàng Song Liêm. Vì không quen biết anh PT Vân từ trước 1975 nên nay tuy tôi rất mến anh, rất muốn biết nhiều hơn về cuộc phiêu lưu thập tử vô nhất sinh của anh, tôi không có dịp làm thân với anh để được biết thêm. Tôi chỉ biết người phi công lái chiếc phi cơ ra Bắc đêm đó là Phi Công Nguyễn Cao Kỳ. Ông này bận việc nên Phi Công Phan Thanh Vân tự nguyện bay thay. Sống sót sau tai nạn, bị mù một mắt, anh PT Vân kể ông Hồ Chí Minh ra lệnh các y sĩ phải bằng mọi giá cứu sống vài người trong số 10 anh em anh, để đưa ra tòa, tố cáo với thế giới là Miền Nam VN vi phạm Hiệp Ðịnh Genève, cho biệt kích ra đánh phá miền Bắc. Tôi được biết là các chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đều chối việc gửi Biệt Kích ra Bắc – nói là không có việc gửi Biệt Kích ra Bắc – nên người Phi Công Phan Thanh Vân khi đến Pháp không được Tòa Ðại Sứ VNCH nhận là chiến sĩ Quốc Gia, không nhận tất nhiên là không cho hưởng quyền lợi cũng không giúp gì cả. Nghe nói khi Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ đến Paris dự hội nghị, người Phi Công Phan Thanh Vân thế mạng cho ông năm xưa ở trong số người Việt đến đứng ngoài cửa Hotel đón mừng ông. Thấy bạn Phi công Phan Thanh Vân xưa, Phó TT Nguyễn Cao Kỳ bắt tay, hỏi:
– Vân đấy à???
Nếu đêm xưa ấy, Phi Công Nguyễn Cao Kỳ bay chuyến bay ra Bắc như đã định, thì hôm nay tôi đâu có gì để phải xấu hổ. Than ôi… Số. Tại Số. Ai bảo ở đời người ta không có Số? Tôi bảo Có! Sau mấy năm ở Pháp, anh Phan Thanh Vân sang sống ở Hoa Kỳ. Anh qua đời ở Virginia. Tuổi anh bằng tuổi tôi: Chúng tôi ra đời những năm 1932. 1933, 1934 Thế Kỷ Hai Mươi Trần Ai Khoai Củ! PT Vân là Công Tử Sài Gòn, hào hoa và có số đào huê hơn người. Những năm 1960 tôi nghe nói anh được hưởng “ân huệ thơm như múi mít” của hai Nữ Ca Sĩ tài danh đương thời. Trong hai Nữ Ca Sĩ này có một người tôi biết, người anh em cùng vợ với tôi là anh Hoàng Hải Thủy thấy đẹp, quyến rũ quá chời. Nhưng năm 1960, thời gian Nàng trẻ, Nàng đẹp, anh Hoàng Hải Thủy nhà tôi đã vợ con dzầm dzề dzồi nên anh không thể làm cánh bướm si tình mon men theo tà áo ngát hương của Nàng. Tôi đăng bài viết của Phi Công Phan Thanh Vân để nói với quý vị chuyện Nguời Ta ở Ðời có Số. Quần áo, giày dép, sú-cheng, si-líp còn có Số, huống chi Người Ta. Tôi cảm khái cách gì khi đọc đoạn Nàng Hotesse de l’Air Lufhansa Francoise nhẹ gót sen đi đến vỗ vai người Phi Công VNCH Tơi Tả vừa mới ra Tù đang ngồi rầu rĩ ở Phi Truong Hong Kong. Mèn ơi… Nếu là tôi, tôi ôm hun Nàng thấm thíet, Police Hong Kong có đánh 216789 cây dùi cui lên lưng, lên đầu tôi, tôi cũng không buông Nàng ra. Nàm thao tôi buông Nàng ra được ! Mèn ơi… Cảm khái cách gì !
Hoàng Hải Thủy
(Nguồn: tvvn.org)
Thursday, March 12, 2020
LEO LƯNG CỌP
N. Nguyễn
Buổi sáng khi tôi đến quán cà phê thấy ông đã ngồi ở đó, ông là khách mới của cái quán cà phê bình dân này. Là khách mới nhưng ông tới đây thường xuyên ngày nào cũng tới, lẩn quẩn ở đó có khi đến chiều mới về. Ông hay đánh cờ tướng, ông chơi giỏi mấy người trong quán chơi không lại, đôi khi ông nhập bọn đám thanh niên chơi bài tiến lên hay đổ cá ngựa ăn tiền. Ông mới biết chơi, lần nào cũng thua, nhưng ông vui vẻ móc tiền chung, trong túi toàn giấy một trăm.
Một hôm ngồi gần bên, tôi mở lời làm quen:
- Anh đã nghỉ hưu?
Ông độ chừng sáu mươi, nhỏ tuổi hơn tôi nhưng vì lịch sự tôi gọi ông bằng anh. Ông cười mĩm nụ cười rất hiền.
- Lúc trước ở Việt Nam thì còn đi làm, giờ qua đây nghỉ luôn, mà tôi cũng chỉ mới qua đây hơn một năm thôi. Ở nhà một mình buồn quá tôi ra đây chơi. Buổi sáng đưa bà xã đi làm, chiều đón bà về. Vợ tôi tới nhà đứa cháu coi chừng con dùm nó, sẵn tiện nấu ăn cho vợ chồng nó luôn. Buổi trưa tôi ghé qua đó ăn trưa, làm biếng thì vô mấy tiệm cơm ở đây không thiếu thứ gì. Tôi ăn uống cũng dễ lắm, ăn đồ Mỹ cũng được, đụng gì ăn nấy chớ không kén chọn như người ta.
Ông hỏi tôi: Chắc anh qua đây đã lâu?
- Dà, tôi qua đây lâu rồi, mà từ trước tới giờ chỉ ở vùng này chớ không có đi lung tung như người ta, giờ nghỉ hưu nên ngày nào cũng ra đây ngồi chơi.
Một bữa quán vắng vẻ, không có ai chơi cờ tướng ông rủ tôi chơi cho vui. Tôi chơi cờ chưa sạch nước cản, thua mấy ván không thấy hứng thú rủ ông qua quán gần bên ăn trưa. Ông có dịp tâm tình. "Vợ tôi không thích sống bên này tối ngày cứ than buồn. Nhà chỉ có hai vợ chồng già, thằng cháu nội ở đây đi học lại ở nội trú, lâu lâu mới về nhà một lần. Bả đi làm cho khuây khỏa chứ thật ra chúng tôi không cần tiền, mấy đứa con tôi đều khá cho tiền tôi xài không hết. Chắc vài năm nữa vợ chồng tôi về bển ở, khi nào ổn định nhà cửa cho mấy đứa con ở đây xong xuôi đâu ra đó".
- Con cái anh đều ở bên đây?
- Đứa con gái lớn tôi qua đây mới có mấy năm thôi, gia đình nó đang ở Texas, mà chỗ đó thành phố nhỏ buồn lắm, chờ vài năm nữa con nó học xong dọn về đây ở. Thằng cháu nội tôi đang học đại học ở đây, bởi vậy tôi về đây ở thủng thẳng tìm nhà mua chừng vài năm nữa ba má nó qua.
Ông móc cái phone khoe hình thằng cháu nội học rất giỏi của ông, hình chụp mấy năm trước hồi lúc nó còn ở Việt Nam. Hai ông cháu đứng ở vườn sau ngôi nhà trông có vẻ bề thế lắm (mà tôi đoán là biệt thự hạng sang), dưới gốc cây giống như cây sa kê. Tôi hỏi:
- Có phải cây này là cây sa kê?
- Vậy à? Tên cây gì nghe lạ quá vậy?
- Anh trồng mà anh không biết nó là cây sa kê?
- Căn nhà này của thằng con trai lớn mua cho tôi, đồ nội thất có sẵn, cây cảnh bông hoa sân trước vườn sau họ trồng sẵn cho mình, mỗi tháng có người đến chăm sóc, cắt cỏ tỉa cành dọn rác.
Lúc nhỏ nhà tôi ở gần trại gia binh, tôi thường hay vui đùa cùng mấy đứa bạn con lính. Gần nhà nó có một cây sa kê mọc hoang, má nó thỉnh thoảng hái trái luộc ăn. Nhưng thời đó ít ai trồng cây sa kê, ít thấy lắm. Thời bây giờ nhiều nhà giàu bên Việt Nam hay trồng cây sa kê trong sân vườn, chắc để làm cây cảnh vừa cho bóng mát chớ không phải để ăn trái.
Nhưng cây sa kê có thời từng là cây lương thực. Tôi nhớ đến cuốn phim "Les révoltes du Bounty" tôi coi khi còn nhỏ, do anh chàng tài tử nổi tiếng Marlon Brando đóng vai chánh, thủ vai người sĩ quan nổi loạn trên con tàu Bounty huyền thoại. Phim này dựa theo một chuyện có thật trong lịch sử hải quân hoàng gia Anh. Tôi hỏi:
- Anh có biết cây sa kê này có liên quan đến vụ nổi loạn trên tàu Bounty của hoàng gia Anh?
- Ồ, không, tôi không biết.
- Câu chuyện nổi loạn trên tàu Bounty xảy ra khoảng cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, thời vua Gia Long vừa lên ngôi. Ông Võ Phiến có một bài tuỳ bút nói về việc vua Gia Long cho vời quan quân tỉnh Gia Định mang cây sa kê này về trồng ở kinh thành Huế. Theo ông Võ Phiến, chắc là nhà vua có ít nhiều kỷ niệm với cây sa kê trong những ngày bôn ba nơi miền Nam nên ngài muốn đem về trồng nơi kinh đô. Nhưng trong suy nghĩ của tôi, vua Gia Long có liên hệ và quen biết nhiều người Pháp, nên chắc ngài cũng biết vụ án "Cuộc nổi loạn trên tàu Bounty" đang là sự kiện lớn ở Âu châu lúc đó. Ngoài ra cây sa kê cũng là một cây huyền thoại, loại cây mang lại no ấm cho người dân nên ngài cũng muốn mang cây đó về trồng ở kinh thành Huế.
Tôi say sưa nói, nhưng hình như ông không chú ý gì cho lắm.
Ông trầm ngâm như đang nghĩ ngợi điều gì rồi ông nói đang tìm nhà mua. "Tôi có sẵn tiền, trả tiền mặt cũng được nhưng ngặt mới qua lại không đi làm nên đứng tên chưa được. Để từ từ tính".
Nhà ở vùng Cali này ai cũng than giá trên trời rớ không tới, mà ông nói mua trả cash cũng được. Tôi nghĩ chắc ở Việt Nam ông này cũng ngon lành lắm.
- Ở Việt Nam anh là đại gia?
Ông cười mĩm nói không. "Tôi chỉ đi làm bình thường thôi, tiền của thằng con trai lớn của tôi cho".
Một hôm ông rủ tôi đi San Francisco chơi vì ông muốn đi ra ngoài cái đảo hồi trước có nhà tù ở đó. Nhà tù nổi tiếng với một vụ vượt ngục mà sau này được dựng thành phim "Escape from Alcatraz" do tài tử Clint Eastwood đóng vai chánh.
Tôi ở đây đã lâu mà cũng chưa từng đến đảo Alcatraz coi một lần cho biết. Tôi nói sẵn dịp mình sẽ đi lên cầu Bay Bridge qua Oakland để ngắm cảnh vịnh Cựu Kim Sơn rất đẹp. Ông hẹn tôi hôm nào cuối tuần trời tốt sẽ đi, ông nói cuối tuần vợ tôi không đi làm cho bả đi theo chơi, chớ bả ít chịu đi đâu lắm.
Mấy ngày không thấy ông đến quán cà phê tôi nghĩ không biết ông bận chuyện gì hay là đã đi qua Texas thăm cháu, nhưng nếu ông có đi thì cũng nói cho tôi biết. Một buổi tối ông gọi điện thoại cho tôi nói sắp đi Việt Nam có chuyện gấp, ông nhờ tôi giữ giùm ông một món đồ. Ông đến nhà tôi đưa một cái túi xách nói trong này là tiền để mua nhà, ông nhờ tôi giữ giùm khi nào trở qua ông đến lấy. Tôi mở ra xem thấy hết hồn toàn giấy một trăm đô mới cáu.
- Đâu mà nhiều dữ vậy nè, bao nhiêu đây?
- Một triệu đô.
Tôi chưng hửng ngó ông không tin nổi đây là sự thật.
- Anh có cần uống cà phê tự nhiên lấy xài đừng ngại.
Tôi vẫn chưa hết bàng hoàng hỏi nửa đùa nửa thật:
- Xài tiền này có cần phải đi rửa không vậy cha?
Ông cười cười nói tiền này mới tinh sạch bon xài khỏi rửa. Ông nói tôi phải đi gấp bây giờ, mai mốt trở qua gặp. Ông vội bước đi vỗ vai tôi nói trấn an "tiền sạch".
Tôi bước vô nhà đem cái túi xách tiền dấu trong đống quần áo cũ trong phòng ngủ của tôi. Phòng tôi thì luôn bị chê sao mà bề bộn bừa bãi quá thế này, quần áo sách vở đồ đạc chất lung tung.
Mấy ngày đầu tôi để cái túi xách tiền yên chỗ đó, không nghĩ tới mà cũng không đụng tới. Được đâu chừng một tuần thì cái sự tò mò tọc mạch trong bụng bắt đầu hỏi thăm. Tôi mở cái túi xách tiền ra xem.
Toàn giấy một trăm đô mới tinh xếp thành từng xấp mỗi xấp một ngàn, mười xấp cột thành một cục. Cha mẹ ơi hồi nào tới giờ tôi chưa từng thấy tiền cả cục cả bó nhiều như vầy, đừng nói chi được tận tay sờ mó mân mê một triệu đô la tiền tươi thóc thật. Tôi rút ra mấy tấm đưa lên ánh sáng săm soi kiểu như mấy người bán hàng coi đó là tiền giả hay tiền thật. (Bọn làm bạc giả giờ rất tài, tiền giả y chang tiền thật!).
Ngày hôm sau tôi ra quán cà phê không quên mang theo mấy tờ tiền đô (của người đàn ông mới vừa quen chỉ biết tên là ông Dũng, chỉ biết vậy không biết gì hơn). Tôi đứng cà rà bên chị chủ quán giả bộ hỏi han ba điều bốn chuyện. Tôi hỏi người ta đưa giấy một trăm làm sao chị biết tiền thật hay tiền giả. Chị nói biết chớ, nhìn thì biết. Tôi móc trong túi tờ giấy một trăm tiền thật (của tôi) đưa chị xem. Chị cầm lên rờ tờ giấy bạc nói tiền thật rờ vô là biết liền, rồi chị lấy cây viết thử tiền quẹt lên tờ giấy bạc.
- Tiền giả thì nó đổi màu.
Tôi giả bộ ngây thơ.
- Cây viết thử tiền này mua ở đâu vậy?
- Thiếu gì chỗ bán, bộ muốn mua hả? Đây có dư một cây nè.
Tôi mừng húm móc tiền ra trả nói cám ơn chị, "chia" lại cây viết này cho tôi đi.
Xài tiền "dơ" thì không sao, người bán không "care" tiền dơ hay sạch, đó là chuyện của mấy ông cảnh sát hay mấy ông quan toà. Nhưng xài tiền giả thì coi chừng, một vài tờ thì mình có thể nói là không biết, đồng tiền trôi nổi trên thị trường, người ta đưa cho tôi, tôi xài. Xứ Mỹ này chỗ nào cũng có gắn camera, ai mà xài tiền giả trước sau gì cũng bị nhận dạng. Cảnh sát mà tới nhà khám xét, thấy tôi có cả triệu đô tiền giả, vô khám ngồi đếm lịch là cái chắc.
Tôi nghĩ ông này người trông hiền lành không có vẻ gì là dân anh chị xài tiền giả. Chắc tiền này là tiền thật. Tôi lấy một tờ xài thử, đầu tiên tôi trả tại quán cà phê tôi thường lui tới hằng ngày. Tôi chờ đợi nghe ngóng, nếu là tiền giả thì khi phát hiện ông chủ sẽ dán lên để cho mọi người thấy.
Hai ba ngày trôi qua, êm ru bà rù. Tôi lấy một tờ bạc khác đi ăn ở một quán phở gần đó. Lúc trả tiền tôi có hơi luống cuống mặc dầu tin chắc chín mươi chín phần trăm đó là tiền thật. (đúng là có tật giật mình). Tôi chờ đợi nghe ngóng. Mấy ngày sau tôi trở lại ăn phở. Quán vẫn ồn ào kẻ vô người ra như thường lệ. Lúc trả tiền tôi liếc nhìn chỗ ông chủ dán những tờ bạc giả trước đây quán gặp phải. Chỉ là tờ hai mươi đồng từ đời nào xưa cũ.
Đầu óc tôi lúc nào cũng nhớ tới cái túi xách tiền này. Tại sao ông đem gởi tôi? Tôi thật không có câu trả lời. Ông này làm gì ở Việt Nam mà mang qua đây cả đống tiền mặt như thế này. Nhìn dáng vẻ điệu bộ cách ăn nói của ông, không có vẻ gì là một "đại gia". Chính ông cũng xác nhận như thế. "Tiền này là của thằng con tôi cho". Ông nói. Nhưng ông chưa bao giờ nói con ông làm gì, là cán bộ cao cấp hay là thương gia kỹ nghệ gia tầm cở. Ông không phải là người khoe khoang, mà ông cũng ít khi nói về con cái tụi nó kinh doanh ngành nghề gì, hay là làm tới chức vụ ông to bà lớn cở nào. Ông có vẻ khôn ngoan và kín đáo. (Mấy người này thì cũng thuộc dạng "chẳng phải vừa đâu").
Gần một tháng trôi qua chẳng thấy ông gọi điện thoại, tôi gọi cho ông. Đường dây đã bị cắt. Tôi email cho ông, không trả lời. Sao kỳ lạ vậy?
Một tháng sau nữa chưa thấy ông trở qua Mỹ mà cũng chẳng thấy ông liên lạc với tôi. Tôi thử gọi phone và email cho ông một lần nữa xem sao. Chẳng thấy trả lời. Bụng dạ tôi bắt đầu đặt dấu hỏi, chuyện gì đã xảy ra cho ông đây.
Một tháng nữa trôi qua, người đàn ông trong bóng tối vẫn bặt vô âm tín. Tôi ngó tới cái túi xách tiền. Để nó nằm một chỗ đó hoài đâu có được. Một triệu đô la chớ có phải ít ỏi gì. Rủi có kẻ trộm vô lấy thì sao. Mà tôi cũng không thể đem vô nhà bank "deposit". Tôi không dại. Xứ Mỹ này có luật lệ đàng hoàng. Một người bạn của tôi kể chuyện, hồi anh đi mua chiếc xe Lexus mới, trả 40 ngàn tiền cash, mấy tháng sau được sở thuế hỏi thăm. "Mầy thất nghiệp tiền đâu nhiều vậy" (sở thuế thì lúc nào cũng sợ người ta trốn thuế). Nó phải lục lọi hồ sơ nhà bank mấy năm qua, chứng minh đó là tiền của nó để dành. Giờ tôi xách một triệu đi deposit vô nhà bank. Trước sau gì ông toà cũng sẽ hỏi, "ông làm ơn chứng minh tiền này là tiền hợp pháp". Tôi sẽ nói tiền này của người ta gởi tôi giữ giùm, người ta nói tiền đó là "tiền sạch". Người ta nào ở đâu biểu ổng ra đây trình diện. Tôi sẽ nói "Ổng đi đâu mất tiêu mất biệt chẳng thấy tăm hơi". Chắc ông toà sẽ bật cười, mà ông có tin lời tôi nói? Nếu mà ông bắt tôi phải "test " qua máy nói dối, tôi tin tôi sẽ "pass". Vâng, tôi sẽ mạnh dạn tuyên thệ trước toà, "tôi khai đúng sự thật và chỉ có sự thật".
Nhưng chắc gì ông toà sẽ tin lời tôi nói, tôi sẽ bị rắc rối tiền mất tật mang. Thôi đừng có dại. Có ngu thì cũng ngu vừa vừa để dành cho người khác ngu tiếp. Tôi cũng không thể đem tiền này chia ra gởi người này một ít người kia một ít cất giùm. Thế nào họ cũng hỏi tiền gì ở đâu. Và rồi tai vách mạch rừng, người này nói cho người kia biết, một đồn mười, mười đồn một trăm. Chẳng mấy chốc cả thành phố sẽ biết có người mang cả va li tiền cho tôi giữ giùm. Ăn cướp không hỏi thăm sức khoẻ thì cảnh sát cũng sờ gáy. Nhất định tôi sẽ không nói cho ai biết chuyện này, ngay cả người thân trong gia đình. Sống để bụng chết mang theo.
Tôi nhớ trước đây có lần đọc báo, chuyện xảy ra đã lâu lắm rồi bên Việt Nam. Có một nhóm thợ hồ xây nhà, lúc đào móng xây nền, đào trúng hủ vàng đâu cở mười lượng. Cả bọn mừng húm chia nhau mỗi người được hai lượng, mua heo quay cúng ăn mừng. Thời đó vàng quý lắm, làm một tháng tiền công chưa mua được một chỉ vàng. Câu chuyện đổ bể, công an mời về bót tịch thu số vàng. Vàng này không phải của mấy anh, mấy anh không có quyền giữ. Mặc dầu đó là chuyện của thiên hạ, chuyện đâu tuốt bên Việt Nam, mà tôi cũng thấy tức, mấy anh thợ hồ đó chắc là tức chết được. Tới chết vẫn còn... tức.
Một chuyện khác xảy ra cũng mấy năm gần đây, cũng là chuyện dài bên Việt Nam nói hoài không hết. Có một chị làm nghề mua bán ve chai lông vịt, đời bây giờ ở bển gọi là mua bán đồng nát. Một hôm chị mua được một cặp loa cũ, về nhà mở ra chùi rửa thấy được mấy triệu Yen trong đó (đâu khoảng 50 ngàn đô la Mỹ). Một món tiền chị đi mua bán đồng nát cả đời chưa có được. Chị không biết mấy đồng tiền "xứ lạ" này là tiền xứ nào, có xài được không. Chị đi hỏi người ta. Cha mầy lú thì cũng có chú mầy khôn. Chị trúng số độc đắc. Câu chuyện chẳng bao lâu đến tai công an phường. (Công an nhà mình thì lúc nào cũng chăm sóc người dân đến từng miếng ăn giấc ngủ). "Tiền này là của người ta để quên. Phường tạm thời giữ lại, trong vòng một năm không có ai đến nhận, sẽ cho chị hưởng". Không biết chị mua bán ve chai đồng nát đó có cúng kiến cầu trời khẩn Phật gì không, một năm sau chánh quyền cho chị được hưởng số tiền lượm được đó, sau khi đã trừ đi lệ phí hay thuế má gì đó. Hú hồn.
Đây là những kinh nghiệm xương máu. Tôi dặn lòng, đừng, đừng bao giờ nói cho ai biết chuyện mình khi khổng khi không có được một triệu đồng ... tiền trời ơi đất hỡi.
Người đàn ông đó vẫn chưa xuất hiện, mà cũng không có ai tới gặp tôi hỏi han về số tiền đó. Tôi nghĩ chắc ông không có nói cho ai biết. Chỉ mình ông và tôi biết chuyện này. Tôi lại không biết gì về gia cảnh của ông, chỉ biết đại khái ông có người con gái đang ở bên Texas và thằng cháu nội đang học ở đại học Berkeley. Mà tôi thì không có số phone hay địa chỉ của họ. Rồi bây giờ tính sao với túi tiền này đây? Tạm thời tôi cứ giữ giùm ông chờ ngày ông qua. Nhưng tôi không thể để cái va li tiền ấy trong nhà. Không nên. Không khôn ngoan chút nào.
Vậy bây giờ đem nó đi "dấu" chỗ nào đây? Hôm trước đọc báo kể chuyện bên Việt Nam, có một vị quan đại thần được người ta biếu quà. Ba triệu đô la. Vì là quà đặc biệt nên ngài đem ra để nó ở ngoài ban công. Hôm ra toà ngài "thành khẩn khai báo" như vậy. Không nghe nhà báo nói lý do tại sao ông lại để tiền ở ngoài ban công. Chắc mọi người cũng tự hiểu là tiền đó nó "bốc mùi" nên phải để ngoài ban công, mà rủi như công an có khám nhà thì cũng chẳng thấy.
Tôi nghĩ đến việc "tẩu tán" số tiền này, đem dấu chỗ này chỗ kia mỗi chỗ một chút. Rủi có bể chuyện, vớt vác được chút nào hay chút đó. Tôi đi mua vàng. Nhưng vác một đống tiền đi mua một lúc mấy chục lượng vàng tôi ngại lắm. Tôi không có cái dạng người như vậy, mà tôi cũng không thể cứ ngày nào cũng đến mua, mỗi ngày một ít. Đừng làm cho thiên hạ chú ý. Tôi nghĩ đến chị Tám, có thể nhờ chị tiếp sức.
Tôi quen vợ chồng chị Tám hơn hai mươi năm về trước lúc đi làm chung trong hãng điện tử. Chị giỏi lắm, đi làm hãng chớ về nhà nấu chè, nấu xôi gởi mấy chợ Việt Nam bán kiếm thêm tiền cho con đi học. Chị nhỏ hơn tôi vài tuổi, giờ cũng đã nghỉ hưu nhưng cũng còn chịu khó ở nhà làm bánh bột lọc gói lá chuối hay là cuốn chả giò bỏ mối. Chị nói có mối người ta đặt hoài ngày nào cũng làm không hở tay. Tôi gọi điện thoại cho chị, nhờ chị dẫn tôi ra tiệm vàng mua nữ trang (vì tôi không biết mua mấy thứ này). Chị nói okay, rất sẵn lòng nhưng anh chờ tôi cuốn chả giò xong cái nhe.
Tôi đến nhà chị vẫn còn đang cuốn chả giò bỏ mối. Chị nói làm từ sáng tới giờ được ba trăm cái, kiếm năm chục. Chị cười hề hề, chịu khó kiếm thêm chút đỉnh cũng đỡ chớ đâu có ai cho mình, phải không anh?
Tôi và chị dẫn nhau ra khu mua bán vàng của người Việt Nam. Tôi thủ trong mình đủ tiền mua được năm lượng. Tôi đặt điều nói xạo tiền này là của một ông "đại gia" bên Việt Nam nhờ tôi mua giùm. Tôi để chị một mình trong tiệm vàng bỏ ra ngoài ngồi uống nước mía. Chị này chịu khó đi dọ giá hết tiệm này tới tiệm kia. Tôi thì nóng lòng muốn mua mau cho xong lẹ rồi về. Mắc rẻ chênh nhau năm mười đồng một lượng nhằm nhò gì. Sau cùng chị tìm được chỗ bán rẻ hơn mười đồng. Chị thích chí nói thấy chưa anh, mình chịu khó dọ giá chút kiếm được năm chục, bằng cả buổi tôi ngồi cuốn chả giò. Tôi nói cám ơn chị nhiều không quên gởi tiền trà nước một trăm. Bước xuống xe chị cười tươi nói mai mốt có "đại gia" nào nhờ mua vàng kêu chị nhe.
Ngày hôm sau tôi tự đi mua vàng một mình, chẳng lẽ nhờ chị hoài chị sẽ đặt dấu hỏi. Đi rảo nhiều tiệm, mỗi tiệm một ít, chắc chẳng ai để ý. Tại mình nghèo thấy mấy chục lượng vàng... nó lớn, chớ nghe nói có người đi mua một lúc cả trăm lượng là chuyện thường.
Tuần sau tôi gọi điện thoại rủ chị Tám đi mua hột xoàn. Dĩ nhiên là tôi có đủ tiền mua hột lớn cở mấy carat cũng được. Nhưng thôi, đừng gây điều thắc mắc cho người ta.
Tôi lại đặt điều nói xạo. Cái ông nhà giàu bên Việt Nam muốn mua một chiếc nhẫn xoàn và một đôi bông hột xoàn cho con trai cưới vợ. Người ta là đại gia mắc rẻ không thành vấn đề miễn sao đồ tốt là được.
Cũng như lần trước, tôi ngồi chỗ gian hàng giải khát uống nước ngồi chờ, bỏ mặc chị một mình muốn làm gì thì làm. Chị lăng xăng chạy hết tiệm vàng này qua tiệm vàng kia kỳ kèo bớt một thêm hai. Sau cùng chị chạy đến tôi báo tin mừng. Hên quá anh ơi! Có một bà khách gởi bán một chiếc cà rá và đôi bông tai, bả túng tiền bán lổ cả ngàn. Hột này đẹp xuất sắc, nước chiếu thuộc loại hiếm có. Bụng dạ tôi đánh lô tô trông cho mau rồi, nói okay vậy chị cứ mua đi, người ta tin tưởng giao cho mình tuỳ ý.
Bận về tôi đãi chị vô quán ăn cơm tấm bì sườn. Miệng chị nói huyên thiên tiệm vàng này bán rẻ tiệm kia bán đồ xấu mà bà chủ ăn nói không có cảm tình. Tôi nói nhờ chị hôm nay mua được đồ tốt mà rẻ, gởi chị ba trăm mua quà cho mấy cháu.
Chị cười tươi hỏi chớ bộ ông đó ở Việt Nam là cán bộ kềnh hả anh. Tôi bật cười khùng khục.
Từ lúc để cái túi xách tiền trong phòng, tôi luôn khoá cửa phòng cẩn thận, mặc dầu phòng ngủ của tôi quanh năm suốt tháng chẳng ai bước vào. Tôi đã mua được ba mươi lượng vàng cùng ba viên kim cương, giờ phải tìm chỗ dấu. Không biết nhà ở vùng khác thì sao chớ nhà ở vùng Cali này vách tường làm bằng tấm sheetrock rất dễ đục khoét. Tôi nghĩ hay là mình dấu số vàng này cùng một mớ tiền trong vách. Tôi đi qua nhà ông hàng xóm làm nghề sửa chữa nhà cửa xin một ít vật liệu về xài, không quên xách theo mấy lon bia biếu anh uống cho vui. Anh cười hề hề chạy vô nhà xách cho tôi một miếng sheetrock cùng một thùng nhỏ compound (giống như xi măng để trét vách nhà), anh còn cho tôi mượn đồ nghề làm cho dễ.
Tôi đợi lúc nhà vắng người nhẹ nhàng đục tường khoét vách. Tôi để ba chục lượng vàng và ba viên kim cương trong một hộp bánh trung thu cũ bằng thiếc. Hai trăm ngàn đô la thì bọc cẩn thận trong giấy ny lon và cũng để trong hộp thiếc phòng ngừa mối mọt hay ẩm mốc. Tôi để vô vách xong lấy sheetrock lấp lổ trống, dùng compound trét lại. Không đẹp như thợ chuyên nghiệp nhưng như vậy cũng tạm ổn. Chờ cho khô tôi dùng sơn, sơn lại chỗ vách vừa làm, cũng gần giống như cũ, như vậy là okay rồi, chắc chẳng ai để ý.
Tôi suy nghĩ không biết có nên viết ít chữ để lại sau này, rủi mà tôi có bề gì thì người thân cũng biết là tôi có dấu tiền và vàng trong vách nhà. Nhưng viết như thế nào đây? Viết bóng gió xa xăm sợ người nhà đọc không hiểu, mà viết bạch tuột sợ có người thấy thì mất cả chì lẫn chài. Suy nghĩ đến nhức cái đầu. Tôi nhớ hồi nhỏ có đọc một truyện kịch ngắn vui vui của nhà văn Khái Hưng. Vở kịch ngắn một màn có nhan đề :"Để của bí mật". Có một anh chàng có của quý không biết cất ở đâu, anh nghĩ hay là dấu nó phía sau tấm hình anh treo trên vách. Anh làm một bài thơ, nói bóng gió xa xăm là anh để của phía sau tấm hình. Một thời gian sau anh mở tấm hình ra thăm chừng, của quý bốc hơi mất tiêu. Trong nhả không có ai, chỉ có anh và vợ. Còn ai trồng khoai đất này. Anh phục cô nàng đã "giải mã" được điều bí ẩn, anh khen cô tài thế. Cô vợ trẻ cười tủm tỉm, hôm trước em thấy anh dấu trong đó.
Đó là truyện vui của ông nhà văn, giờ tôi cũng "để của bí mật", nhưng tôi không có tài làm một bài thơ với nhiều ẩn dụ, mà người cao kiến giải mã được, sẽ biết là tôi có dấu tiền trong vách. Tôi tính tới tính lui sau cùng quyết định: thôi. Đã nhiều lần tự nhủ lòng không nói cho ai biết chuyện này. Lỡ mà có mất vào tay người khác thì coi như "Của Thiên trả Địa, của Tào đổ Âm Ty".
Tôi có người quen hàng xóm bên Việt Nam sắp sang Mỹ "đoàn tụ gia đình", anh bán nhà đâu được mười mấy tỷ giờ muốn chuyển qua đây mua nhà. Tôi điện thoại cho con ông ta làm dịch vụ trao đổi. Tôi sẽ giao cho con ông một trăm ngàn đô la ở Mỹ, ông sẽ giao lại cho thằng cháu tôi tiền đó ở Việt Nam. Công việc trao đổi diễn ra tốt đẹp, ông không nói cho ai nghe mà tôi cũng không nói cho ai biết. Tôi căn dặn thằng cháu mua dùm tôi một hai miếng đất để dành đó (và tuyệt đối đừng nói cho ai biết). Thằng cháu nảy là thằng cháu họ xa, nó lanh lợi giỏi giang và "đáng tin cậy". Nó nói chú đừng lo, cháu sẽ không nói cho ai biết.
Vậy mà trong nhà tôi cũng biết việc tôi mua đất ở Việt Nam. Họ có vẻ giận tôi sao cở này tôi có thái độ "kỳ kỳ", người trong nhà mà cũng dấu như mèo dấu cứt. Thiệt tình là "nỗi lòng này biết tỏ cùng ai". Tôi tức mình gọi thằng cháu chửi nó một trận, nó phân bua xin chú đừng giận để cháu nói.
"Bên vợ cháu thấy cháu mua đất tưởng cháu có tiền, hỏi mượn cháu một ít làm vốn. Cháu phải nói thiệt cho vợ cháu biết dặn nó không được nói với ai. Không hiểu sao mấy cái vụ này bay tuốt qua Mỹ, cháu xin lỗi chú cháu đâu muốn vậy. Mà chú mua đất có gì xấu mà phải dấu?".
Như vậy là tôi đã "tẩu tán" tài sản đâu được chừng phân nửa, còn phân nửa kia để đó từ từ tính. Từ ngày ôm cái va li tiền đó vô mình, đầu óc tôi lúc nào cũng căng thẳng. Điên cái đầu. Đọc báo thấy có mấy quan tham bên Trung Quốc trong nhà chứa hàng tấn tiền mặt. Tiền mà khi kiểm kê phải đếm bằng máy và cân ký lô. Tôi không hiểu làm sao họ có thể sống trên đống tiền như vậy mà không bị "heart attack" hay là bị đứt gân máu. Chớ còn tôi lúc nào cũng hồi hộp như đang ngồi trên đống lứa.
Tôi đã leo lên lưng cọp, giờ làm sao bước xuống mà không mang thương tật. Nếu có thì cũng nhẹ nhàng, coi như mình "chịu đấm ăn xôi".
Lúc mới qua Mỹ tình cờ một hôm tôi coi trên tivi cuốn phim rất hay nhan đề Getaway do tài tử Steve McQueen và cô đào Ali Mac Graw đóng, cô đào nổi tiếng này thì nhiều người Việt Nam (thế hệ tôi) biết qua phim tình cảm "Love Story". Nhưng tôi thấy cô đóng phim này rất hay, người cô dong dỏng cao cùng đôi mắt to đen rất hợp vào vai băng đảng, cùng với Steve McQueen thì khỏi chê kết thành một cặp đôi hoàn hảo đi ăn cướp nhà băng.
Cuốn phim rất hay hấp dẫn từ đầu đến cuối, cặp đôi anh chị giang hồ này hết chống chọi với kẻ thù đến chống chọi với đồng bọn, rồi họ cũng vượt qua được bố ráp của cảnh sát để sau cùng hai người xách va li sang Mễ Tây Cơ ... sống đời giàu có và... (lương thiện).
Có lẽ đó là lần đầu tôi coi một cuốn phim mà kẻ cướp nhà băng không bị cảnh sát bắn gục, lại ung dung xách tiền đi qua xứ khác hưởng đời. Sau đó tôi coi thêm một vài phim tương tự mà kẻ cướp nhà băng không hề bị cảnh sát hạ gục hay còng tay. Trong lòng tôi đặt ra một câu hỏi, đó chỉ là phim ảnh hay sự thật cuộc đời là như vậy?
Đôi lúc lòng tôi hoang mang mình làm như vậy có đủng không. Đôi lúc tôi bị cái lương tâm nó dày vò cắn rứt. Tiền bạc đã biến tôi thành một người bần tiện.
Nhưng tôi đâu có lường gạt giựt dọc. Tôi đâu có ôm tiền bỏ trốn, nếu mà người đàn ông đó xuất hiện, nếu mà con cháu ông ấy đến lấy lại số tiền ông gởi, tôi sẵn sàng trả lại (một cách vui vẻ).
Tôi nhớ đến một chuyện hồi trước, chuyện xảy ra đâu từ những năm thế kỷ trước. Đêm đó có tin rục rịch đánh tư sản (lần thứ hai). Cô con gái con ông chủ tiệm vàng là bạn học của em gái tôi đến nhà gỏ cửa, nhờ em tôi cất giùm cái túi xách. Thằng em trai tôi tò mò mở ra xem. Mấy chục lượng vàng. Buổi sáng sớm cô nàng đến gỏ cửa lấy lại cái túi xách mà không hề cho em tôi một chút gì. Sau này tôi kể lại chuyện đó cho một người bạn nghe. Nó phán một câu tôi nhớ hoài: "con nhỏ đó không biết luật giang hồ".
Người đàn ông "bí ẩn" gởi tôi cầm giùm va li tiền, khi nào lấy lại tôi xin ông theo đúng "luật giang hồ" cho tôi một ít tiền trà nước. Tôi không xin nhiều chừng năm chục ngàn là tôi vui. Còn như cái việc tôi dùng tiền của ông "mượn đầu heo nấu cháo", tôi đem đầu tư nhà đất, nếu ông có thơm thảo thì cho tôi xin cái phần tiền lời, tiền vốn trả lại ông. Còn như đối đế thì mình chia hai, người có công người có của vui vẻ cả làng.
Nhưng nếu ông vẫn biệt tăm biệt tích?
Một phim khác rất hay cũng nói về thế giới băng đảng. Có một anh chàng tình cờ lượm được túi tiền của bọn buôn ma tuý. Anh biết loại tiền này là tiền gì, anh mang tiền bỏ trốn. Anh bị tụi băng đảng đuổi theo, mặc dù anh là người tài giỏi đầy bản lãnh, nhưng sau cùng anh cũng bị thanh toán. Không phải bởi cảnh sát mà bởi băng đảng. No Country for Old Men.
Phim hấp dẫn từ đầu đến cuối. Nhưng tôi không thích cái kết cuộc, anh là lương thiện (tạm nghĩ như vậy đi, anh chưa từng phạm pháp), anh vô tình lượm được tiền, không cố ý mà cũng không phải lỗi của anh. Anh rất bản lãnh, vậy mà cũng không thoát được. Hiểu thế nào đây No Country for Old Men. Tôi hiểu là "Ông già không có chốn dung thân", hoặc là nói theo ngôn ngữ đường phố của dân Sài Gòn "Ông già không có cửa".
Nếu giả dụ người đàn ông kia không trở lại, mãi mãi không trở lại. Có thể nào tôi được hưởng số tiền một triệu đó?
No
No way
No Country for Old Men
Thật vậy sao?
Ông già không có cửa
Có lẽ nào!
Subscribe to:
Posts (Atom)