Thursday, April 18, 2019
NHÀ THƠ VÀ CẢM XÚC THƠ
Nguyễn Hưng Quốc
Nhà thơ là người sáng tạo ư? Không, tôi ngờ lắm. Từ xưa đến nay, nhà thơ có mang lại điều gì mới mẻ đâu. Hắn là người, bằng sự nhạy bén riêng của mình, phát hiện sâu sắc hơn ai hết những chất thơ đã vốn có, đã bàng bạc, ẩn tàng, giấu khuất đâu đó trong vũ trụ, ở thiên nhiên, ở cuộc đời, ở lòng người. Gió vẫn có đấy chứ, quen thuộc lắm mà, từ bao nhiêu đời rồi nhưng phải đợi đến lúc nhà thơ ra đời, nghiêng mình làm lá, gió mới cất thành tiếng reo. Trăng vẫn có đấy chứ, từ xưa, trên cao, nhưng phải đợi đến lúc nhà thơ xuất hiện, lặng mình làm một mặt nước hồ im, trăng mới lại hiện về, long lanh hơn, huyền ảo hơn, ngay trên mặt đất, rất vừa tầm nhìn.
Nhà thơ có sáng tạo được gì đâu? Hắn chỉ là lá reo để đón gió, là hồ im để đón trăng, là cỏ ngữa mặt để chờ sương. Hắn nắm bắt và giữ lại cho đời những chất thơ kín đáo nhất, mong manh nhất, thoáng qua nhất.
Ừ, mà nói cho ngay, nhà thơ cũng có sáng tạo đấy chứ. Nhưng ít thôi. Chỉ một điều: tạo ra linh hồn cho vạn vật, cái mà Thượng đế đã quên lúc tạo ra vũ trụ. Nhờ nhà thơ, gió trở thành hữu hình, trăng trở thành gần gủi, sương trở thành ấm áp.
Có phải khói sóng xưa kia chỉ là người tình của sông của biển? Khi nhà thơ ra đời, khói sóng tự nhiên hoá thân thành một nỗi niềm: "Yên ba giang thượng sử nhân sầu", "Lòng quê dờn dợn vời con nước".
Có phải hiện tượng nắng ngả màu, mây trôi chậm và gió bỗng dưng hiu hiu xưa kia chỉ là hiện tượng của tự nhiên? Khi nhà thơ ra đời, lạ lùng chưa, tất cả trở thành tín hiệu của tình yêu, tất cả đều nói lên cái nao nao, cái bâng khuâng của kẻ lần đầu "đứng ngẩn trông vời áo tiểu thư".
Có phải vầng trăng xanh xao trên kia ngày trước chỉ hờ hững đi ngang qua mặt đất mỗi tháng mấy lần? Khi nhà thơ ra đời, trăng hết lạnh lẽo. Trăng thành tình nhân. Trăng thành nỗi nhớ. Từ nỗi nhớ của những người yêu nhau nhưng phải xa nhau "vầng trăng ai xẻ làm đôi", đến nỗi nhớ day dứt cồn cào của những kẻ lưu cư nơi đất khách không nguôi một niềm ước mơ vô hạn được trở về:
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương
(Lý Bạch)
Mặc dù ngay từ đầu truyện, Nguyễn Du đã giới thiệu Kiều là một người hay thơ, nhưng tôi tin Kiều chỉ thực sự làm thơ hay sau buổi đi tảo mộ về. Nghĩ lại coi, có lạ không, khung cảnh lúc Kiều đi với lúc trở về khác nhau biết mấy. Cũng là thiên nhiên ấy, nhưng lúc đi, thiên nhiên chỉ là thiên nhiên, lúc về thiên nhiên đã vương rất nhiều tâm tư của người. Dòng nước tự nhiên "trong veo", nhịp cầu không chỉ "nho nhỏ" nữa mà còn có "tơ liễu", có "bóng chiều thướt tha". Thiên nhiên không còn vô tình nữa. Thiên nhiên bị lây cái bâng khuâng của Kiều sau lần gặp gở Kim Trọng. Thiên nhiên cũng trở thành bâng khuâng. Kiều trở thành nhà thơ. Chỉ trở thành nhà thơ khi người ta đã phá vỡ cảm giác đồng nhất giữa mình với ngoại cảnh để khám phá ra, trong sự phân thận kia, xuất hiện một sự đồng cảm sâu sắc. Làm thơ là dựng lên mối tương quan thân tình giữa con người và không gian chung quanh. Để con người bớt đi cái cảm giác lẻ loi giữa cái bao la vô tận của trời đất như Trần Tử Ngang ngày trước, "Niệm thiên địa chi du du. Độc sảng thiên nhi thế hạ". Để không còn xa xôi, vô tình nữa, trước con người, một cành hoa, một áng mây, một vì sao. Để con người và vạn vật có khả năng đồng cảm với nhau hơn, chia xẻ với nhau những niềm cô đơn của mình:
Không gian dày đặc toàn trăng cả
Tôi cũng trăng và nàng cũng trăng
(Hàn Mặc Tử)
Hay:
Trời hiền khép một vòng thân
Trông cao xa ấy mà gần tâm tư
(Cung Trầm Tưởng)
Nhà thơ không chỉ làm cho con người bớt khắc khoải trong cô đơn. Nhà thơ còn làm cho tâm hồn nhân loại giàu có, rộng rãi mênh mông gấp bội. Trước khi nhà thơ ra đời, trái đất này có lẽ đã quá cũ. Cứ thế, cứ thế lập lại hoài những vòng quay. Cứ thế, cứ thế phô bày vẫn bấy nhiêu cảnh trí. Như từ ngàn xưa. Với sự xuất hiện của nhà thơ, núi non sông biển lại hiện ra những bức tranh mới, luôn luôn biến hoá và đẹp đẽ vô ngần (Hải sơn vị ngã xuất tân đồ - Nguyễn Trãi). Nguyễn Trãi cũng đã không từng tự hào về sự giàu có của thi nhân đó sao?
Nhãn để thất thời thi liệu phú
Ngâm ông thuỳ dữ thế nhân đa?
(Một thoáng chất thơ đầy cả mắt
Người đời dễ sánh khách thơ a?)
Làm thơ là ban phát sự giàu có ấy cho mọi người.
Trước khi nhà thơ ra đời, có lẽ loài người đã biết yêu nhau. Adam và Eva đã biết yêu nhau. Và chỉ biết yêu nhau. Với sự xuất hiện của nhà thơ, trong tâm hồn mỗi người, không còn lẻ loi một người tình đang ngự, mà còn, hằng hà chung quanh, bao nhiêu chất thơ từ trời đất tụ về, điểm tô. Trên chân dung người tình, không chỉ có đôi mắt, dù đôi mắt vô hạn đẹp. Mà còn có dòng sông "Mắt em là một dòng sông. Thuyền anh bơi lội trong vòng mắt em" (Lưu Trọng Lư). Rồi còn có gió có mây nữa. "Có phải em mang trên áo bay. Hai phần gió thổi, một phần mây. Hay là em gói mây trong áo. Rồi thở cho làn áo trắng bay?" (Nguyên Sa). Đứng trước người yêu, mình không chỉ là mình, mình còn có thể là hoa cỏ may. "Hồn anh như hoa cỏ may. Một chiều cả gió, bám đầy áo em". (Nguyễn Bính).
Chao ôi, trước khi nhà thơ ra đời, có lẽ tâm hồn con người hạn hẹp lắm. Có khi chỉ là một chiếc gương soi. Soi bản thân mình. Có khi chỉ là một bàn thờ. Thờ thần linh. Thờ người tình. Với nhà thơ, diện tích tâm hồn con người mở ra, thênh thang vô cùng vô tận. Những cành cây héo úa đâu đó dưới mắt thờ ơ của những kẻ chỉ biết cúi đi lầm lủi, nhờ nhà thơ, bỗng lại xanh tươi và nở hoa trong hồn người. Những làn hương dịu nhẹ dễ bị gió xua tan, nhờ nhà thơ, cứ đọng lại, mãi mãi vấn vương trong từng nhịp thở của con người. Những triều sóng vỗ của biển dễ bị chìm hút trong lãng quên, nhờ nhà thơ, cứ đọng lại hoài hoài một dư âm.
Và, còn nữa. Nhờ nhà thơ, con người nhìn thấy rõ hơn diện mạo tâm hồn mình. Xưa kia tâm hồn thăm thẳm mà u uẩn quá. Nó là cõi đêm. Nó là giông tố sấm chớp dữ dội nhưng cũng mù mịt vô cùng. Nhà thơ là kẻ lặn sâu hơn ai hết vào cái vùng bất an và vô định ấy. Nhà thơ có thể tả trăng, tả gió, tả mây, tả hoa... nhưng nghĩ cho cùng, qua đó nhà thơ nói lên tâm tư của con người. Trăng, gió, mây, hoa... chỉ là cái cớ. Mục đích của nhà thơ không phải là mô tả mà là biểu hiện. Chỉ có trong thơ dở, cảnh mới là cảnh. Trong tất cả những bài thơ hay, cảnh là người, là tâm tư. Như Xuân Diệu từng viết: "Hồn ơi, phong cảnh cũng là người".
Thơ không phải xuất phát từ nhu cầu ghi lại mà từ nhu cầu nói lên. Thơ không nẩy lên theo một vầng trăng mọc mà theo một cảm xúc mới nhú. Ừ, mà hình như, thường người ta bắt đầu làm thơ hay mê thơ lúc bắt đầu thấy xôn xao trong lòng một tình yêu chớm nở. "Yêu nàng, bao nhiêu người làm thơ", Nguyễn Nhược Pháp nói thế. Phần lớn con người đi vào cõi thơ vì một ánh mắt một nụ cười hơn là vì một "Tịch dương vô hạn hảo". Có phải không, khi các cô cậu học trò, đến tuổi nào đó, vào lớp, biết vuốt lại mái tóc mình, biết hãm lại tiếng cười cho vừa đủ độ giòn cũng là lúc xuất hiện trong các cặp sách của họ, quyển vở nắn nót... chép thơ ? Nhu cầu làm thơ khởi lên từ chỗ chấm hết, trong tâm hồn, cái yên ả của tuổi thơ. Làm thơ trở thành một cách tỏ tình. Đọc thơ trở thành một cách tìm kiếm cảm thông.
Trong hàng vạn, hàng chục vạn người biết yêu và vì biết yêu mà biết làm thơ ấy, cuối cùng, có lẽ chỉ một hai người là trở thành nhà thơ thật sự: đó là kẻ có đôi mắt tinh, đôi tai thính nhất có thể phát hiện ra từng tế bào đang đổi mới trong hồn mình.
Nhiều người, ở đời, chỉ có một mùa hoa. Cái rạo rực chỉ đến một lần rồi xa hẳn. Tôi luôn luôn đón nhận tin một nhà thơ nào đó chết đi với tất cả sự ngỡ ngàng, hoang mang. Bởi nhà thơ như một kẻ không có tuổi. Cứ trẻ hoài. Cứ giữ lại hoài trong lòng những phiến lá mới để sẵn sàng reo lên xôn xao ngay trước những cơn gió khẽ khàng.
Mọi người tìm kiếm trong thơ những tiếng nói chưa thành của mình.
Mà đời đâu phải chỉ có những rạo rực của tình yêu. Mọi nàng Kiều rồi sẽ bị xô bật ra khỏi lầu khuê có "trướng rũ màn che". Đời không thể cứ vĩnh viễn là một bình nguyên lập lại mãi những cảnh sắc cũ. Hồn cũng không thể cứ vĩnh viễn là một không gian trống cho gió hút. Mọi người, kẻ sớm người muộn, đều bị đẩy ra biển. Biển trầm luân. Để giơ thân đón sóng. Sóng đau thương. Nhà thơ, khác với mọi người, là kẻ làm cho sóng dội lên thành dư vang ngân mãi. Làm thơ là một cách tạo âm cho biển, Đoạn Trường Tân Thanh là tiếng biển gào. Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc... cũng là những tiếng biển gào. Ngay cả những câu thơ hết sức bâng quơ "Em không nghe mùa thu" cũng là một thứ tiếng biển. Biển đang lặng sóng. Thầm thì.
Tất cả những bài thơ hay đều vang vọng âm thanh của biển. Phải không? Thơ đâu phải chỉ là tiếng đập riêng của trái tim. Thơ còn là, phải là tiếng dội của lòng người trước dư ba của sóng.
Bởi vì là tiếng dội của sóng nên thơ không là tâm sự thuần tuý khép kín của một cá nhân. Thơ mở ra, gợi ra man mác những nỗi niềm tâm sự chung. Thơ là một cảm xúc đi tìm một đồng cảm. Thơ là tiếng nói một người nhân danh tất cả mọi người trong hoàn cảnh ấy, số phận ấy. Nhà thơ chỉ độc quyền được cho mình một cánh cửa. Sau cánh cửa kia là của mọi người. Trên núi Kính Đình ngày xưa chỉ một mình Lý Bạch ngồi buồn hiu hắt ngắm mây bay, chim bay nhưng còn nỗi cô đơn của ông, nỗi cô đơn ấy là nỗi cô đơn của nhân loại. Cả ngàn năm nay, mỗi khi con người lẻ loi trước thiên nhiên thì lại chợt nhớ, đọc lại "Chúng điểu cao phi tận. Cô vân độc khứ nhàn. Tương khan lưỡng bất yếm. Duy hữu Kính Đình san".
(Dịch nghĩa: "Bầy chim vút bay lên cao. Mây lẻ từng đám nhàn nhã bay về. Nhìn nhau không chán mắt. Chỉ có núi Kính Đình".)
Ngỡ như nỗi cô đơn và niềm bâng khuâng ấy là của riêng mình.
Thơ xoá đi cái không gian trống giữa người với người. Để "giậu mồng tơi xanh rờn" không là nỗi phân ly. Để "tam tứ núi, thập bát đèo" không là điều cách biệt. Thơ cũng xoá đi cái không gian chết giữa đời này với đời khác. Để những giọt lệ của Kiều ngày xưa còn cay cay trong mắt người bây giờ. Để cái ngạo nghễ "lưng khôn uốn, lộc nên từ" của Nguyễn Trãi 600 năm trước còn lay động tâm thức người bây giờ. Để nhân loại hôm nay còn thấy bàng hoàng trước tiếng thét dài làm lạnh cả hư không của thiền sư Không Lộ một ngàn năm xa xưa.
Ý thức thời gian là một ý thức bị kịch. Ý thức không gian cũng là một ý thức bị kịch. Nhà thơ có thể làm thơ trong tâm trạng hoang mang run sợ trước cái mênh mông không cùng không tận của trời đất nhưng cuối cùng, mục đích của thơ là để vô hiệu hoá những khoảng cách kia.
Giữa biển sóng trùng trùng, con người, với thơ, quờ quạng tìm đến nhau. Chia cho nhau một chút lửa. Chia cho nhau một làn hương hoa. Thơ là của mặt đất. Lưu Thần Nguyễn Triệu chỉ làm thơ khi chưa vào được Thiên Thai, không nguôi trong tâm sự bao nhiêu điều mơ ước. Lưu Thần Nguyễn Triệu cũng chỉ làm thơ khi đã vĩnh biệt Thiên Thai, day dứt trong lòng bao nhiêu nỗi nhớ những. Trong Thiên Thai, Lưu Nguyễn có làm thơ đâu? Thơ chỉ là hoa của mặt đất đầy bất an. Đừng tự phong thánh cho mình lúc cầm bút làm thơ, bạn ạ.
Tản Đà ao ước lên chơi với chị Hằng là để cho "có bầu có bạn" và ông làm thơ cũng là để "ta cảm thay ai viết mấy lời". Vũ Hoàng Chương "đêm đêm... dõi mấy từng cao, tìm một quê hương mới lạ nào" nhưng ông lại luôn cồn cào thèm khát được say với một người mình đã từng gặp gỡ "như truyện Liêu Trai" ngay trên mặt đất này. Phạm Công Thiện tự cho "thơ ta là thơ trời" nhưng lòng ông lại cứ nhức nhối dằn vặt với một chuyện rất ư là người "tại sao cô lại khóc?". Thơ ông "bay lên trên mưa móc", ... "liệng trên mái tóc" đâu không thấy, chỉ thấy lòng ông rất thấp, rất thấp, hứng đầy những giọt nước mắt của một người con gái nào.
Có thế, người ta mới có lý do để làm thơ và đọc thơ chứ.
Lý thuyết thật nhiều, nhưng sự thực lại rất đơn giản. Nhà thơ ơi, hãy làm thơ để loài người tìm thấy một nỗi niềm chung hầu gần lại với nhau hơn; để cho mỗi người tự thấy tâm hồn mình rộng lớn và đẹp đẽ hơn vô ngần những chén cơm, những manh áo, những thân thể ngọc ngà; để cho những ai trong các căn phòng khoá chặt kia biết nao lòng trước những luồng sóng vỗ làm quặn đau những nàng Kiều bất hạnh.
Và những ai, chiều nay, bước ra khỏi nhà, nhìn lên bầu trời thăm thẳm xanh biếc trên cao mà tự dưng cảm thấy trong lòng mình có chút xôn xao, bâng khuâng mơ hồ, thì xin hãy nhớ đến nhả thơ.
Những ai, đêm nay, sau cơn vật vờ giữa cuộc trầm luân, trở về nhà, lòng thảnh nhẹ, thoáng nhận ra đâu đó có làn hương bưởi, chợt nhớ đêm đã khuya lắm và thấy lòng ấm lại một mùi hoa, thì xin hãy nhớ đến nhà thơ.
Và hãy cám ơn thơ.
Nguyễn Hưng Quốc
***
Tìm hiểu NGHỆ THUẬT THƠ VIỆT NAM
Khảo luận của Nguyễn Hưng Quốc
Quê Mẹ ấn hành. Paris 1988
Subscribe to:
Posts (Atom)